Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一



tải về 2.21 Mb.
trang2/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   29

Quyển 1



1. Đại Sư tự thuật
Mùa Đông năm Dân Quốc 28 (1939), người ngoại quốc họ X… đến Linh Nham yết kiến đại sư có lời thưa hỏi, cùng nhau dùng bút mực để trò chuyện, đại sư tự lược thuật cuộc đời và hạnh nguyện như sau:
a) Cuộc đời:
Xuất gia năm Quang Tự thứ bảy (1881), thọ giới năm Quang Tự thứ tám (1882). Năm Quang Tự 12 (1886) đến Hồng Loa Sơn ở Bắc Kinh. Năm Quang Tự 17 (1891) dời sang chùa Viên Quảng tại Bắc Kinh. Năm Quang Tự 19 (1893) đến ăn nhờ ở đậu chùa Pháp Vũ thuộc Phổ Đà Sơn tỉnh Chiết Giang, suốt ba mươi năm chẳng đảm nhiệm chuyện gì. Đến năm Dân Quốc 17 (1928) có đệ tử quy y ở Quảng Đông tính thỉnh tôi sang Hương Cảng, liền rời Phổ Đà, tạm ngụ tại chùa Thái Bình ở Thượng Hải. Mùa Xuân năm Dân Quốc 18 (1929) tính rời đi nhưng vì chuyện in sách chưa xong [phải ở lại]. Năm Dân Quốc 19 (1930) đến bế quan tại chùa Báo Quốc ở Tô Châu. Tháng Mười năm Dân Quốc 26 (1937), tỵ nạn sang Linh Nham đã tròn hai năm. Hiện thời đã sống buổi sáng không đảm bảo được buổi tối, chờ chết mà thôi! Năm mươi chín năm từng trải như vậy đó. Suốt cả một đời chẳng cùng ai kết xã, ngay đến cả hội Phật giáo Trung Quốc cũng chẳng ghi tên làm hội viên.
b) Những việc xảy ra gần đây:
Từ khi đến Linh Nham, bất cứ danh lam thắng cảnh nào, tôi cũng đều chẳng tới xem, bởi chí chỉ mong vãng sanh, chẳng bận tâm đến danh lam thắng cảnh.
c) Việc làm
Mỗi ngày lượng theo sức mình niệm Phật và trì chú Đại Bi để làm căn cứ tự lợi, lợi tha. Suốt đời chẳng thâu nhận một đệ tử xuất gia nào, chẳng nhận làm Trụ Trì chùa nào cả!
d) Chủ nghĩa và giáo nghĩa niệm Phật
Đối với hết thảy mọi người đều dùng “tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương” để khuyên nhủ, bất luận xuất gia hay tại gia, ai nấy đều phải chú trọng trọn hết bổn phận con người, gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành. Bất luận người sang hay kẻ hèn đều dùng những điều này để bảo ban, khiến cho hết thảy mọi người trước hết làm một người hiền, người lành trong thế gian, ngõ hầu cậy vào Phật từ lực siêu phàm nhập thánh, vãng sanh Tây Phương! Trọn chẳng nói với người khác những lời lẽ lớn lao khiến họ không thực hiện được, mặc cho người ta bảo mình là hạng Tăng chỉ biết cơm cháo, trăm sự không làm được điều gì. Đại lược là như vậy đó!
2. Thư trả lời đại sư Hoằng Nhất
Hôm qua, nhận được thư và bản tụng văn cũ lẫn mới, đọc không thấy chỗ nào sai. Trong thư nhắc đến tình huống dụng tâm quá độ, Quang đã sớm đoán biết chuyện này, do vậy đã viết một lá thư khuyên Sư đừng làm như thế. Do Sư quá tỉ mỉ, thường có những chỗ không cần phải thật dốc sức mà Sư vẫn chẳng chịu không dốc sức, đến nỗi bị thương tổn! Xét theo sắc lực của Sư, có lẽ nên lắng lòng chuyên nhất niệm Phật, những giáo điển khác và những sách đang được lưu truyền hiện thời, nhất loạt đừng xem tới để khỏi bị phân tâm, bị tổn hại vô ích. Người biết xử sự đúng thời phải hiểu thời cơ, sự việc, chuyện gì Sư với tôi chẳng thể gánh vác được thì hãy nên lánh mình ra ngoài, để mặc đó đừng hỏi đến nữa, nhất tâm niệm Phật để mong mình lẫn người đều được lợi ích thật sự, ấy mới là phương cách độc nhất vô nhị vậy!
3. Thư gởi Chân Đạt lão hòa thượng
Ba bốn chục năm qua Quang được huynh chiếu cố, chăm nom, khôn ngăn cảm kích. Sáng nay tinh thần uể oải như sắp chết; do vậy, gần như đem tất cả những chuyện bận bịu tại Thượng Hải giao hết cho pháp sư Đức Sâm. Qua hai tiếng sau lại cảm thấy chẳng sao cả, tuy chưa chết ngay nhưng cũng khó tránh khỏi cái chết, chẳng ngại gì bàn soạn sẵn. Quang khi sống tánh chẳng thích bày vẽ nhiều chuyện, chết rồi thì cũng [nên làm ma chay cho Quang] giống như một kẻ tầm thường qua đời. Nếu không, sẽ càng tăng thêm tội lỗi cho Quang vậy!
4. Thư gởi pháp sư Đức Sâm9 (thư thứ nhất)

Phần Phụ Lục do ông đã gởi mãi đến sau hai giờ chiều ngày hôm qua mới giao tới, do phải trò chuyện với khách [đến thăm] đã lâu, nên không còn tinh thần để xem được. Sáng nay bèn đọc qua, gặp đúng lúc Mạnh Am tới đây bèn đưa cho xem, [ông ta] khen ngợi không ngớt. Văn Sao Tục Biên cuốn Thượng đã sắp chữ xong, nếu cuốn Hạ lại đưa thêm nhiều bài văn vào phần Phụ Lục thì hai cuốn sẽ dày - mỏng không đều, hãy nên đem phần sách này ghép vào sau cuốn Thượng thì hai cuốn sẽ dày bằng nhau. Phần Phụ Lục không nhất thiết phải đặt ở cuối cùng, đặt cuối cuốn Thượng thì cũng là Phụ Lục, không nhất quyết phải đặt Phụ Lục ở cuối cuốn Hạ.

Hiện thời khoản tiền thu được từ các nơi gần đến hai vạn, dùng loại giấy in báo thì cũng in được cỡ chừng hai vạn cuốn là cùng. Nếu dùng loại giấy Mao Biên thì một vạn đồng chỉ in được ba bốn ngàn bộ! Tấm lòng của Lạc cư sĩ có thể nói là tận thiện, tiếc rằng [ông ta] chưa biết nên làm thế nào cho thích hợp với thời thế. Từ khi in sách đến nay, Quang chẳng dùng loại giấy Mao Biên, huống là loại giấy in báo! Về sau, do loại giấy Mao Thái dòn gãy quá nhiều, in ra một vài năm đã biến thành mớ giấy lộn để bán [ve chai], mà giá loại giấy ấy vẫn tính vào chi phí in sách [khá đáng kể]. Huống chi những chỗ sản xuất giấy ở Phước Kiến, Giang Tây đều gặp nạn chiến tranh, vì thế chỉ nên dùng giấy in báo [để in sách]. Ông Lạc trọn chẳng hiểu nỗi lòng Quang, hơn một vạn bộ sách ở chỗ ấn loát cảm thấy rất nhiều, nhưng nếu chia ra gởi đi, quả thật là quá ít!

Lời bàn luận của ông Lạc thuộc về pháp tắc thông thường trong thời thế thái bình, còn ý kiến của Quang thuộc phương pháp quyền biến trong thời thế đói kém, loạn lạc. Không chấp nhất thì đôi đằng đều hợp lý, hễ chấp nhất thì đôi đằng đều chẳng trọn vẹn. Nay tôi nói một thí dụ để làm sáng tỏ nghĩa này. Ví như có người trong lúc gạo châu củi quế đem mười vạn cứu đói. Do mười vạn có hạn, dân đói vô cùng, hãy nên dùng lương thực giá rẻ hơn một chút ngõ hầu cứu giúp được lâu hơn và giúp được nhiều dân nghèo hơn. Nếu dùng loại lương thực hạng nhất, tuy về mặt tốt lành thì hết sức tốt lành đấy, nhưng sau khi hết tiền thì sẽ làm như thế nào đây?

Văn Sao khiến cho người ta cảm động, phát tâm không ít, chẳng phải là vì giấy in tốt. Trước khi tròn sáu mươi tuổi, ông Trịnh Triết Hầu oán thù đức Phật; năm sáu mươi tuổi, ông ta đọc Văn Sao, từ đấy bỏ mặc những thuyết của Hàn, Âu, Trình, Châu trước kia, cực lực đề xướng Phật pháp. Đủ biết muốn thật sự làm lợi cho người khác, hãy nên chú trọng nơi lưu truyền rộng rãi. Có người bảo hễ [sách được in quá] nhiều sẽ bị người ta coi thường, bị tổn hại vô ích. Phải biết rằng: Kinh Phật, sách Nho chẳng thể nào hoàn toàn không có chuyện bị coi rẻ thì sách của bọn phàm phu nghiệp lực chúng ta làm sao có thể trọn không bị coi rẻ cho được? Hiện thời, trong ngoài nước người tin Phật đông đảo, cố nhiên chẳng cần phải lo xa như thế! Hãy nghĩ đến chuyện bậc đại thông gia ở nhằm nơi không có Phật pháp vẫn bị khổ vì không biết đến Phật pháp, như Tăng, Tả, Lý, Diêm (Diêm Đan Sơ là người ở Triều Ấp, từng làm Phó Tướng, con người cực thuần hậu, không báng Phật, nhưng cũng trọn chẳng nghiên cứu) đều là những người không báng Phật mà cũng chẳng biết đến Phật pháp, chẳng đáng buồn ư? Mong hãy sáng suốt soi xét thì may mắn lắm thay! Đừng đưa những lời lẽ này vào Văn Sao.
5. Thư gởi pháp sư Đức Sâm (thư thứ hai)
Phàm tất cả những khoản tiền ở Thượng Hải đều dùng để in Văn Sao, không cần phải báo rõ từng khoản. Nói chung, Quang chẳng còn sống lâu nữa đâu, vì thế chuyện gì đã xong thì cho xong luôn, chuyện gì chưa xong cũng coi như xong. Quang chết rồi, quyết chẳng được [tổ chức tang lễ] giống như những vị Tăng hiện thời, bày vẽ mù quáng, gởi cáo phó, thiết lễ phúng điếu, cầu [danh nhân] viết lời đề bạt, đắp cả đống phân lên đầu coi là vinh dự. Dù sau này Quang chưa chết, bên ngoài có gởi thư đến, Sư cũng chẳng cần phải gởi [tới tận nơi bế quan cho Quang] nữa. Thư gởi đến nếu Sư bằng lòng kết duyên thì tùy ý phúc đáp. Nếu không, cứ để nguyên thư gởi lại. Không cần phải viết thư sang Ngũ Đài nữa đâu! [Hòa thượng] Pháp Độ vẫn chẳng nghĩ như vậy là đúng. Có viết cũng tự chuốc lấy phiền não, hãy để mặc cho ông ta minh tâm kiến tánh đi!

Kinh Dược Sư hôm nay đã gởi đi, từ rày Sư nên thương lượng với ông ta, Quang chẳng hỏi đến nữa! Từ năm Dân Quốc thứ sáu (1917) trở đi, Quang ngày càng bận hơn, bận không thể tưởng tượng được! Chỉ bận bịu vì người khác chứ công phu của chính mình hoàn toàn bê trễ. Nếu được A Di Đà Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn thì là ngàn muôn phần trọn đủ rồi, còn chuyện viết tiểu sử, soạn bài minh, soạn lời tán dương, điếu văn, câu đối, Sư hãy bảo họ ngàn vạn phần đừng gom cả khối phân lớn chất lên đầu Quang tức là đã ban tặng cho Quang nhiều lắm rồi, xin hãy sáng suốt soi xét. Suốt mười chín năm Sư vất vả giúp đỡ Quang, khôn ngăn cảm tạ! Quang chết rồi, Sư cũng không cần phải lên núi để khỏi bị đau lòng!


6. Thư gởi pháp sư Đức Sâm (thư thứ ba)
Lúc này dường như chẳng mệt mỏi giống như lúc sáng sớm, chắc là chưa đến nỗi chết ngay, nhưng cố nhiên không thể tránh khỏi cái chết được. Hãy nên bảo những người quen biết: “Quang chết rồi thì vẫn vì chính mình mà niệm Phật như thường lệ, chẳng cần phải niệm cho Quang!” Vì sao vậy? Do nếu vẫn chẳng vì chính mình mà niệm, cứ niệm cho Quang thì cũng chẳng giúp được gì! Nếu thật sự vì chính mình mà niệm, chẳng niệm cho Quang, hóa ra Quang lại được lợi ích lớn lao. Vì thế, bất luận người nào, chuyện nào, đều phải sốt sắng thực hiện nơi chỗ có lợi ích lớn lao thì hết thảy những chuyện sáo rỗng, những thứ giả vờ bên ngoài đều trở thành công đức chân thật; người chân thật mới là đệ tử Phật. Quang thấy một vị đại lão chết đi, một người viết bài tán dương di ảnh như sau: “Bậc đại hùng cao cả xuất hiện trong thế gian”. Lại có một đệ tử viết tiểu sử cho thầy là Ngọc Trụ có câu: “Hạnh Ngài bằng với hạnh của ngài Vĩnh Minh, há chẳng phải là hậu thân của Vĩnh Minh ư?” Quang phê rằng: “Đem phàm lạm thánh, tội chẳng thể tha!”

Sư Ngọc Trụ tuy tốt đẹp, nhưng sao lại có thể tán dương như vậy được? Nếu sư Ngọc Trụ biết, chắc sẽ đau lòng ứa lệ! Phật pháp tốt đẹp bị thói “ham danh ghét thật” làm hư hỏng hết. Chúng ta chẳng thể uốn nắn thói tệ đương thời, nào dám theo mọi người góp phần náo nhiệt gom lấy đống phân, khiến cho hết thảy mọi người vì mình mà gom góp cho thật nhiều ư? Những tưởng để tiếng thơm trăm đời, nào ngờ quả thật đã để lại tiếng xấu muôn năm! Quang không có thật đức, nếu ca tụng, tán dương Quang tức là đã gom đống phân lớn đắp lên đầu Quang, mong hãy nói với hết thảy những người hữu duyên vậy.


7. Thư gởi pháp sư Đức Sâm (thư thứ tư)
Tháng Chạp năm ngoái đã tính thôi không viết thư cho [hòa thượng Quảng Huệ] chùa Quảng Tế, nhưng vì Sư kèo nài, nên sáng ngày Ba Mươi Tết bèn chiều ý viết thư. Thầy Diệu Chân trông thấy, cho người sao lại, Quang vốn không có ý đưa thư ấy vào Tục Biên10; [vì lá thư đó] dài dòng lôi thôi đến năm ngàn chữ. Thoạt đầu, thư nói tới thói tệ mở hội trai tăng ngàn vị, sửa đổi theo quy cách khác. Trong thư nói đến chuyện tham Thiền chẳng dễ gì được lợi ích, lấy Ngũ Tổ Giới để làm chứng. Ngũ Tổ Giới là bậc phi thường nhưng vẫn chưa đoạn được Kiến Hoặc, huống là liễu sanh tử ư? Khi Tô Đông Pha11 trấn giữ Hàng Châu, vẫn chẳng cự tuyệt kỹ nữ, đủ thấy ông ta vẫn là phàm phu đầy dẫy triền phược. Sư hãy đọc kỹ, coi đưa vào sách được thì đưa vào, cũng chẳng cần phải chấp chặt một bề.

Mục lực của Quang càng yếu thì thư từ càng nhiều, do vậy, trong ngày Lập Xuân tháng Chạp năm ngoái, Quang nói với thầy Diệu Chân: “Nếu thường trụ chịu lo liệu, Quang sẽ chẳng hỏi đến nữa. Nếu không, cứ nhất loạt gởi trả lại”. Thầy Diệu Chân sai người lo giùm, phàm những thư xin quy y, thư gởi xuông thì nhiều, cũng có những thư gởi tiền hương kính. Hai năm trước đây, phàm những người đến chùa quy y, tiền hương kính và những khoản tiền đặc biệt gởi cho Quang đều đưa hết cho thường trụ, còn [tiền kèm theo] thư gởi đến thì giao cho Quang. Nay thì khoản tiền đặc biệt gởi đến [cho Quang] liền đưa trả về cho Quang, còn tiền hương kính của người đến núi quy y và tiền hương kính gởi kèm theo thơ đều giao hết cho thường trụ. Ở Thượng Hải có ai xin pháp danh, Sư hãy thay mặt Quang viết thư cho họ, tiền hương kính cũng để cho Sư tiêu vặt. Chuyện ấn hành Văn Sao Tục Biên, Quang chẳng hỏi đến, tùy Sư liệu định. Nếu [thư của] người ở Thượng Hải xin pháp danh chuyển đến thì Sư cũng thay mặt Quang viết thư cho họ, cần gì cứ phải không có chuyện gì lại bới ra chuyện như vậy?

Ông Phí Phước Thuần có một bài viết, ông Hà Phước Hà cũng có một trang viết nói đại lược về lợi ích của sự tiết dục: Sanh hai con đều sống được mười mấy ngày rồi chết, do lúc ấy ông ta không tiết dục, nên Tiên Thiên chẳng đủ mà ra! Những hạng thanh niên ấy coi dục là vui, lại muốn sanh ra con cái mạnh khỏe phước thọ, đạt được kết quả trái ngược, chẳng đáng buồn ư? Tháng Chạp năm ngoái, Phương Huệ Uyên có gởi thư đến, nói ông Thang bị bệnh nhiều lần, lại chẳng chịu kiêng những thứ sống sít, lạnh lẽo. Những kẻ thường cứ ăn những món chẳng nên ăn sẽ đổ bệnh, trong khi bị bệnh lại thường nghĩ đến vợ con, có nghĩ cũng vô ích! Đủ biết những người ấy do nghiệp lực nên rốt cuộc trở thành điên đảo.

Quang tuy chưa chết nhưng vẫn nghĩ mình đã chết; vì thế, hết thảy mọi chuyện nếu đã chẳng thể lo liệu được thì chẳng hỏi đến nữa, từ rày tùy Sư quyết định. Tiền tài tại Thượng Hải Quang đều chẳng cần đến. Có sức thì in nhiều, không đủ sức thì in ít; nếu không có sức thì đừng in, đều tùy theo tài lực mà làm chuẩn, chớ nên vay mượn đến nỗi bó tay nhọc lòng! Xin hãy từ bi thứ lỗi! Phàm đối với những ai có lòng tin, hãy nên dạy họ nhất tâm niệm Phật, chẳng cần phải niệm cho Quang, cũng đừng bỏ công đến thăm để khỏi phí tiền, phí thời gian, trọn chẳng có ích chi!


8. Thư trả lời sư Như Sầm hỏi thay cho bạn
Trả lời đại lược câu hỏi, chẳng thể trình bày chi tiết.
1) Đã có Phật đường thì cần gì phải thờ Phật trong liêu phòng nữa? Con người hiện thời quá nửa là vô ý, hời hợt, nơi điện đường còn phóng túng không kiêng dè, ngay đang trong lúc niệm tụng lễ bái còn dám phóng trung tiện thì trong liêu phòng sẽ càng phóng túng chẳng thể nói được! Nếu thờ Phật trong liêu phòng hãy tưởng như Đại Hùng bảo điện, may ra mới đỡ chuốc lấy tội lỗi! Nếu không, công rất ít, tội lỗi vô lượng! Thường thấy bậc pháp sư ở vào địa vị cao trọng mà vẫn chẳng nghĩ đánh trung tiện là phạm tội, trong lúc niệm tụng vẫn dám phạm, huống chi hàng học nhân hờ hững, hời hợt ư? Lời nói của tọa hạ chính là do không có cách nào khác được bèn tạo phương tiện cho ông ta; hãy bảo ông ta lễ bái trong chánh điện chính là phương pháp bậc nhất để khỏi chuốc lấy tội lỗi đấy!

2) Pháp Quán Tưởng cũng chẳng hoàn toàn dựa vào tướng bên ngoài. Nếu chú trọng vào tướng bên ngoài thì Báo Thân và Hóa Thân vốn là một thể, sao lại có vướng mắc nơi Báo Thân và Hóa Thân? Ví như đứa con thấy cha mẹ mặc quần áo trịnh trọng và thấy cha mẹ mặc thường phục trọn chẳng nghĩ lúc này là đúng, lúc kia là sai, hoặc lúc kia là đúng, lúc này là sai! Người ấy quán Phật mà có cái Thấy chấp tướng như vậy, nếu chẳng phải là tự khoe công phu, ắt là cố chấp chẳng thông suốt! Hạng người ấy lâu ngày chắc sẽ bị ma dựa, chứ không phải là bậc tu hành chân thật đâu!

3) Hình tượng nếu có thể để thờ hoặc cất giữ thì hãy thờ hoặc cất giữ. Nếu chẳng thể thờ hoặc chẳng giữ được nữa thì hãy thiêu hóa đi. “Hủy tượng đốt kinh tội cực sâu nặng” là nói về những thứ kinh tượng có thể để thờ hoặc cất giữ được. Nếu chẳng thể để thờ hoặc để giữ được mà vẫn cứ chấp vào nghĩa này sẽ trở thành khinh nhờn! Ví như đứa con trong lúc cha mẹ còn sống, ắt phải tìm cách sao cho cha mẹ được an toàn. Cha mẹ mất rồi, ắt phải tính cách mai táng. Nếu là kẻ ngu chẳng hiểu lý, thấy người khác mai táng cha mẹ được coi là thực hiện lòng hiếu bèn muốn đem cha mẹ còn đang sống sờ sờ chôn đi cho trọn hiếu, hoặc thấy người khác phụng dưỡng cha mẹ là hiếu, bèn đối với cha mẹ đã chết vẫn theo quy cách phụng dưỡng thường nhật mà phụng dưỡng. Hai loại người này đều chẳng phải là chân hiếu!

Kinh chẳng thể đọc được, tượng chẳng thể thờ được nữa, lẽ đương nhiên hãy nên thiêu đi, nhưng chớ nên làm giống như thiêu giấy chữ bình thường, mà phải tạo ra đồ để thiêu riêng, giữ gìn nghiêm ngặt chẳng để cho tro bay sang chỗ khác. Đem tro ấy đựng trong túi vải may thật kín, lại bỏ thêm cát sạch hoặc đá sạch để hễ bỏ xuống nước sẽ chìm ngay, chẳng đến nỗi giạt vào hai bờ. Nếu có ai ra biển, đến chỗ sâu bỏ xuống giữa biển, hoặc nơi sâu trong sông to thì được, chớ bỏ xuống ngòi nhỏ, rạch nhỏ. Người làm được như vậy là làm đúng pháp. Nếu chẳng bỏ thêm cát, đá, chắc chắn sẽ bị trôi giạt vào hai bờ, vẫn trở thành tội khinh nhờn. Tội ấy chẳng nhỏ đâu, nhưng chớ nên dùng đá dơ, ngói dơ!

4) Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật lẽ đâu chẳng có chuyện cứu khổ ách? Quán Âm Bồ Tát tùy cơ chỉ dạy, há lẽ nào chẳng tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương? Người niệm Phật lâm chung thấy Phật và thánh chúng đích thân đến tiếp dẫn, há nên chấp chết cứng như thế? Nếu đúng là như vậy thì Phật cũng chẳng đáng gọi là Phật, Bồ Tát cũng chẳng đáng gọi là Bồ Tát! Sanh về Tây hãy nên lấy tín nguyện làm gốc, nếu gặp nguy hiểm bèn niệm Quán Âm. Có tín nguyện thì khi mạng chung quyết định sanh về Tây Phương, hoặc chỉ chuyên nhất niệm A Di Đà thì gặp khổ ách cũng được giải thoát. Những điều [cảm ứng như vậy được] sách cổ ghi chép càng khó tính kể. Nay trong trần lao thì chuyện gì cũng viên thông, nhưng trong tu trì thì chuyện gì cũng chấp chết cứng, chẳng đáng viên thông mà lại lầm lạc viên thông, chẳng đáng chấp trước mà cứ chấp trước chết cứng! Do điều này mà biển khổ sóng dậy liên tục, luân hồi không ngừng nghỉ vậy. Người có kiến giải như vậy khác nào trẻ nít, con người như vậy nào đáng để cùng bàn luận nữa!
9. Thư trả lời pháp sư Như Sầm
Vừa nhận được thư xong, lại nhận được Tư Quy Tập, khôn ngăn cảm thán! Do tọa hạ đề xướng pháp môn Tịnh Độ mà Quang mục lực lẫn tinh thần cả hai đều chẳng đủ, chẳng thể phụ giúp, thật là thiếu sót, tiếc nuối! Vì vậy bèn đọc các điều được đề xướng và những điều đã bàn định. Trong những điều được bàn định, những chữ tôi khoanh một vòng tròn nhỏ bên cạnh là tán thành, hoặc có phê đại lược một hai câu, xin hãy châm chước thêm. Chỉ có phần nói về cách niệm truy đảnh12 của sư [Hán Nguyệt] Pháp Tạng thì trong chỗ lợi người có ẩn tàng cái họa gây lầm lạc cho người, vàn muôn phần chớ nên sao lục. Dẫu bài thơ ấy hay, cũng xin nên gạt bỏ đi.

Ông ta (tức Hán Nguyệt Pháp Tạng) là kẻ oán đối trong nhà Phật, lúc đầu thân cận tổ Mật Vân [Viên] Ngộ chùa Thiên Đồng, ngộ được đôi chút, bèn muốn làm bậc đệ nhất cao nhân muôn đời, tự nói mình không có thầy mà tự ngộ. Ngài Mật Vân muốn phó chúc pháp của mình cho ông ta, ông ta không chịu tiếp nhận bỏ đi. Mật Vân đuổi theo, đuổi đến chỗ nọ thì bắt kịp, ông ta vẫn không chịu nhận. Mật Vân ép buộc, ông ta bèn dùng Tam Huyền, Tam Yếu13 buộc Mật Vân đáp lời rồi mới miễn cưỡng tiếp nhận dòng pháp. Những chuyện ông ta nói đều là xằng bậy bịa ra, nhưng bọn sĩ đại phu lại tin thờ như Phật sống; kẻ nào bàn đến những chỗ phá hoại của Pháp Tạng ắt sẽ mắc đại họa! Vì thế trong ngữ lục của ông ta cũng như trong ngữ lục của bọn học trò là Hoằng Nhẫn, Cụ Đức toàn là những lời nói nhăng nói cuội đề cao thầy, miệt thị Tổ, được lưu truyền cho đến thời Khang Hy bèn được ghép thêm vào Minh Tạng14 (Đại Tạng Kinh bản đời Minh).

Đến năm Ung Chánh 11 (1733), [vua Ung Chánh] soạn các ngữ lục, hiểu rõ [ngữ lục của bọn Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, Cụ Đức] là sai lầm, xằng bậy, liền hạ lệnh hủy bản khắc và cấm ngặt lén lút cất giữ, lưu truyền. Vua chép lại những lời bịa đặt xằng bậy nghịch lý, trái đạo, trái luân thường của Pháp Tạng, Hoằng Nhẫn, Cụ Đức gồm hơn tám mươi đoạn, mỗi mỗi đều quở trách [tạo thành một cuốn sách] đặt tên là Giản Ma Biện Dị Lục, gồm bốn quyển, hơn hai trăm trang. Văn ấy phàm những ai đọc sách xem đến đều tăng trưởng học thức lớn lao không chi hơn được, đối với người tham Thiền lại càng hữu ích (nay những Thiền giả phần nhiều chẳng hiểu lời nói của cổ nhân, cứ hiểu theo kiểu chia chẻ mặt chữ thì khí vị nhà Thiền còn chưa được nghe nữa là!) Đến năm Ung Chánh 13 (1735) mới hoàn thành bản thảo. Vua truyền dụ đưa bản ấy nhập tạng để lưu thông, nhưng chưa bao lâu đã lên làm khách cõi trời. Càn Long kế vị, chưa thể đích thân lo liệu được, liền sai [người khác] chép lại cho rõ ràng để khắc ván.

Khi ấy, bọn ngoại hộ của Pháp Tạng rất đông, Tăng, tục không dám bàn đến, vì thế [Giản Ma Biện Dị Lục] chưa được nhập tạng; chỉ đem lời thượng dụ [của Ung Chánh] đặt vào đầu sách để làm lời tựa, nhưng chuyện triều đình chẳng sai khiến tới mình, đâu ai dám lạm bàn, mà người sao chép lại không hiểu rõ [ý nghĩa] lắm, [cho nên] gạn lọc không rõ ràng đến nỗi lời văn mâu thuẫn lý, hoặc có chỗ [trong nguyên cảo] viết tắt nhưng không xét kỹ nên chép thành sai ngoa. Như theo lối chữ Thảo, chữ Vị (謂: nói) được viết thành Vi (為: làm), rốt cuộc hơn một trăm chữ Vị đều bị khắc thành chữ Vi cả! Những kinh sách của Thế Tông đã được khắc in đều giảo chánh đích xác, chỉ có mình sách này bị sai lầm chẳng thể đếm xiết. Ván in đã khắc hoàn chỉnh rồi, in ra bao nhiêu đó bộ, ban cho những vị đại thần mang tước vương và các cao tăng. Nhưng do bọn ngoại hộ của Pháp Tạng thế lực mạnh mẽ, Tăng chúng sợ mang họa, đều chẳng dám lưu truyền, đến nỗi hàng Tăng - tục học rộng nghe nhiều đời sau đều chẳng biết đến tên sách ấy!

Năm Quang Tự 30 (1904), ngài Đế Nhàn thỉnh tạng kinh, sai Quang đi theo trông nom. Kinh đã in xong, còn phải chờ mấy ngày mới đi được; do vậy, tôi đến viếng các tiệm sách ở Lưu Ly Xưởng15, thấy trong một tiệm có hai bộ đều thỉnh hết, đem một bộ tặng cho ngài Đế Nhàn mong Ngài sẽ lưu thông, một bộ tự giữ. Năm Quang Tự 31 (1905), Quang tới chỗ ông Dương [Nhân Sơn] cư ngụ tại Nam Kinh, biết Hoằng Giáo Thư Viện của Nhật Bản đang ấn hành Đại Tạng Kinh, bèn cậy tiên sinh [Dương] Nhân Sơn đem bộ của Quang gởi sang Nhật Bản. Năm Dân Quốc thứ ba (1914), ông Địch Sở Thanh đến Phổ Đà, Quang khuyên ông ta lưu thông sách này, bảo ông ta nên xin bộ sách ấy từ chỗ ngài Đế Nhàn. Ông ta thưa: “Con có!” Hỏi do đâu mà có, ông ta cho biết mua được từ tiệm ve chai ở Bắc Kinh. Ông ta trở về đất Thân (Thượng Hải), liền giao cho nhà in, chiếu theo cách trình bày của sách ấy in ra một ngàn bộ theo lối thạch bản, gởi cho Quang tám bộ, giữ lại hai bộ, còn bao nhiêu tặng cho người hữu duyên. Quang bèn lắng lòng dựa theo ý nghĩa câu văn để giảo chánh.

Năm Dân Quốc thứ bảy (1918), cho khắc ván tại Dương Châu Tàng Kinh Viện, in ra ba trăm bộ tặng cho người khác. Nếu như khi đường bưu điện thông suốt thì sẽ thỉnh thêm sách ấy mấy bộ nữa để tặng cho những vị Tăng - tục có đủ chánh kiến. Đọc sách ấy sẽ biết Pháp Tạng là người như thế nào và lời lẽ của bọn pháp đồ ông ta phần nhiều là đặt điều bịa chuyện. Quang cho rằng tọa hạ chẳng biết ông ta là chân hay ngụy, nên mới đưa [trước tác của ông ta] vào trong Tư Quy Tập, đời sau sẽ lại hoằng dương rộng lớn pháp của ông ta, sẽ gây tổn thất lớn lao cho cả Thiền lẫn Tịnh! Nay tôi cũng chẳng nói đến hành vi của ông ta, nhưng dù không nhắc đến, nếu đọc Giản Ma Biện Dị Lục ai nấy sẽ biết rõ liền! Bưu phiếu đã quên mất số, xin gởi trả lại để giảm bớt lỗi của tôi!

Trong bản thảo Tư Quy Tập, những đoạn sao lục được viết theo lối chữ thông tục (Tục Thể) quá nhiều, chẳng thể nêu trọn. Nhưng chữ Đoạn (段), theo tương truyền, chữ ấy phần nhiều bị viết sai thành 叚, ở đây cần phải sửa cho đúng: Chữ 叚 tức là chữ Giả (假), [chứ không phải chữ Đoạn]. Phàm những lối chữ Tục Thể, Phá Thể, Thiếp Thể, Cổ Thể16 đem dùng vào kinh sách, tôi cảm thấy rất không cung kính, khiến cho hàng sĩ đại phu có học thức khinh mạn người viết lẫn người in, chẳng phải là chuyện nhỏ nhặt đâu!

Cái tên “Ngũ Thập Tam Tham” (năm mươi ba lần tham học) quyết chẳng nên dùng vì coi đức Thế Tôn hai cõi ngang hàng phàm phu đời Mạt, đánh mất tôn ty quá lớn. Những lời nguyện được sao lục dưới tên đức A Di Đà Phật hãy nên đánh số thứ tự là nguyện thứ mấy, mỗi nguyện đều như thế, xin hãy chú ý! Pháp Ngũ Hội Niệm Phật của Tứ Tổ17 tôi chưa hề thấy nghe, ngờ là do người đời sau ngụy tạo. Ông Trương Quán Bổn cho rằng pháp này có thể khiến cho Tịnh Tông hưng thịnh, Quang trọn chẳng cho như vậy là đúng. Mong hãy châm chước cẩn thận để quyết định giữ hay bỏ. Tôi vốn chẳng thể soạn lời tựa cho sách này vì không có tinh thần làm sao nêu tỏ được nghĩa lý mầu nhiệm của Tịnh Độ? Kế đó, sợ tọa hạ quở trách, chỉ viết những gì Quang tin tưởng để mong khỏi bị trách mắng, cho nên khác với những điều đã nói trong thư.


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương