Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Châu Trọng Hoa



tải về 2.21 Mb.
trang13/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   29

82. Thư trả lời cư sĩ Châu Trọng Hoa (thư thứ hai)
Thư nhận được đầy đủ. Biện pháp áp dụng trong đám tang như thế chẳng những hữu ích cho người mất mà thật sự còn khiến cho cả nhà đều gieo thiện căn không chi lớn bằng! Sau này, dẫu chẳng thể ăn chay trường thì cũng nên bớt ăn mặn, lập quy định chẳng đích thân giết chóc trong nhà để đỡ kết sát nghiệp. Chị ông muốn chuyên nhất niệm Phật thì vốn không có chương trình cố định. Nếu chiếu theo chương trình niệm Phật bình thường, canh Năm dậy lễ Phật (bao nhiêu lễ tùy theo mình lập). Lễ xong, niệm kinh Di Đà một biến, Vãng Sanh Chú (ba biến hoặc bảy biến, hoặc hai mươi mốt biến) xong liền niệm kệ Tán Phật, nhiễu niệm bao nhiêu câu đó, rồi mới tịnh tọa nửa tiếng, rồi lại niệm ra tiếng độ bao nhiêu câu, rồi quỳ niệm Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát, mỗi danh hiệu ba lượt (Nếu muốn lễ bái thì trước hết lễ Phật bao nhiêu đó lạy, xưng danh hiệu Bồ Tát chín lượt, rồi lễ chín lạy), niệm bài văn phát nguyện, Tam Quy Y. Đấy là công khóa buổi sáng.

Ăn cơm sáng xong, tịnh tọa một khắc, lại đến lúc niệm Phật thì lễ Phật ba lạy, hoặc lễ nhiều hơn xong liền niệm kệ Tán Phật. Niệm xong, đi nhiễu và ngồi đều chiếu theo như trên; chỉ có điều niệm Phật xong, không cần phải niệm bài văn phát nguyện dài, chỉ niệm bốn câu kệ “nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung…” là được rồi, lễ bái lui ra. Hoặc buổi sáng hai thời, buổi chiều hai thời. Khóa chiều giống như khóa sáng. Buổi tối lại niệm Phật một lần, vẫn chiếu theo chương trình giống như sau khi ăn cơm sáng. Niệm xong phát nguyện, nên niệm bài văn phát nguyện do Tổ Liên Trì san định. Niệm xong, đọc bài Tam Quy Y.

Tuy trong đây có lúc khởi lên Phật hiệu, có lúc im lặng, nhưng trong tâm luôn giữ cho một câu Phật hiệu được trì niệm chẳng gián đoạn. Đi - đứng - nằm - ngồi, mặc áo, ăn cơm, đại tiểu tiện, trong tâm đều phải thầm nhớ Phật hiệu. Trong bảy ngày chẳng để khởi lên hết thảy tạp niệm, như con nhớ mẹ không lúc nào quên. Khi niệm, cố nhiên là niệm [Phật], lúc lặng tiếng không niệm thì trong tâm vẫn niệm, chỉ cầu tâm tương ứng với Phật (tức “ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm. Toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm”. Trong tâm trừ sáu chữ hồng danh ra, không có hết thảy tạp niệm, vì thế gọi là “tương ứng”), chớ nên khởi cái tâm muốn thấy đức Phật ngay. Chỉ cầu ngoài Phật hiệu ra, không có niệm thứ hai nào khác mà thôi!

Nếu chẳng hiểu rõ lý tánh, gấp muốn thấy Phật, phần nhiều chuốc phải ma sự, chẳng thể không cẩn thận! Cũng đừng nhọc nhằn quá mức; quá mệt nhọc thì ngày hôm sau sẽ khó thể thanh thản, sảng khoái đúng như pháp được! Hoặc là mỗi lần niệm Phật đều niệm A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Chú, nhưng sáng dậy phát nguyện thì niệm bài văn phát nguyện dài, khóa tối cũng giống như thế, những lúc khác đều niệm bốn câu [kệ hồi hướng] mà thôi. Hoặc là sáng dậy [niệm Phật] lần thứ nhất thì niệm A Di Đà Kinh, Vãng Sanh Chú, từ đấy chỉ liên tục niệm A Di Đà Phật không ngừng, đến tối niệm bài văn phát nguyện, Tam Quy Y.

Con người ở trong thế gian chẳng thể siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử đều là do vọng niệm gây nên. Nay trong lúc niệm Phật, liền nghĩ như chính mình đã chết, chưa được vãng sanh, trong mỗi một niệm đều gác bỏ tất cả hết thảy tình niệm thế gian ra ngoài. Trừ một câu Phật hiệu ra, không có một niệm nào để được! Làm thế nào để niệm được như thế? Là vì ta đã chết rồi, tất cả hết thảy vọng niệm đều chẳng vướng mắc nữa. Niệm được như thế ắt sẽ có lợi ích lớn lao. Những kẻ tri kiến nhỏ nhoi hiện thời hễ hơi có một chút cảnh giới tốt đẹp bèn tự mãn, tự cho là đủ, tưởng mình đã đắc tam-muội rồi! Hạng người ấy mười người hết chín kẻ đều bị ma dựa phát cuồng vì tâm niệm cách ngăn với Phật, phù hợp với ma, cho nên thành ra như vậy.

Mười đồng tiền hương kính đợi sau này các sách được in ra sẽ dựa theo khoản tiền ấy gởi đi mấy gói sách. Hôm Hai Mươi Ba, Quang xuống núi, đến chùa Thái Bình ở bến Trần Gia, Thượng Hải, để lo liệu việc in sách. Tháng Sáu mới trở về núi, tháng Bảy lại xuống núi chẳng trở về nữa. Tháng Tám, tháng Chín việc in sách xong xuôi, liền diệt hết tung tích, ẩn náu lâu dài. Bởi lẽ trong những năm tháng vừa qua, chuyện thù tiếp ngày một thêm nhiều, tinh thần ngày một giảm. Nếu chẳng làm theo một cách khác, ắt sẽ mệt đến chết. Đã tổn hại cho chính mình mà còn vô ích cho người! Vì thế, không thể nào chẳng làm như vậy được!

Thế đạo hiện thời là thế đạo đại hoạn nạn. Họa hoạn xảy đến không thể trốn tránh được! Chỉ có niệm Phật, niệm Quán Thế Âm thì mới chẳng gặp hoạn nạn. Dẫu bất hạnh gặp phải thì cũng có thể “gặp dữ hóa lành”. Gần đây, những kẻ do gặp hoạn nạn bèn niệm Phật, niệm Quán Âm được cảm ứng nhiều khôn kể xiết! Gia đình ông còn được coi là “có của ăn của để”, hãy nên dạy nam - nữ - lớn - bé trong nhà đều hằng ngày niệm Phật bao nhiêu đó câu, niệm Quán Âm bao nhiêu đó câu để làm kế dự phòng. Lúc vô sự niệm thì sẽ không có họa hoạn. Dẫu lúc đương đầu với hoạn nạn mà có thể chí tâm niệm thì công đức cũng chẳng thể nghĩ bàn. Người đời đều muốn yên vui, nhưng thường hay làm chuyện trái nghịch, đến nỗi trở thành vọng tưởng xuông, chẳng có lợi ích thật sự. Những điều vừa nói trên đây quả thật là những điều suy tính cho gia đình ông vừa sâu xa vừa thiết thực vậy! (Viết vào lúc lên đèn ngày Hai Mươi Mốt tháng Hai)
83. Thư trả lời cư sĩ Châu Trí Trinh (thư thứ nhất)
Quang đến đất Thân (Thượng Hải) từ hôm Hai Mươi Lăm tháng Bảy, đúng bữa nay trở về núi thì nhận được thư ông từ núi chuyển đến, biết cha ông sắp qua đời. Cần biết rằng: Người sống trăm tuổi cũng có ngày ra đi, chớ nên bi thương vô ích! Chỉ nên khuyên cụ nhất tâm niệm Phật giống như đang ở trong lao ngục mong trở về quê nhà, chớ nên có mảy may tâm lưu luyến. Ông và quyến thuộc trong nhà hãy nên chia ban niệm Phật trước cụ để cụ lắng tai nghe cho rõ ràng. Đến lúc cụ sắp mất, nếu cụ có thể tự tắm rửa, thay quần áo thì tốt lắm. Nếu không, đừng tắm rửa, thay quần áo sẵn cho cụ để đến nỗi dời qua, chuyển lại, thân tâm bất an, có thể sanh lòng sân hận thì cái hại ấy chẳng nông cạn đâu! Dẫu chẳng khó chịu, nhưng do bị dời động, tâm cũng chẳng thể thanh tịnh, sẽ khó cậy vào Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Đang trong lúc ấy, quyến thuộc trong nhà đều cùng nên niệm Phật, niệm mãi cho đến khi [người sắp mất] tắt hơi. Qua ba tiếng đồng hồ sau mới ngưng tiếng niệm Phật để lau rửa, thay áo cho người đã mất. Nếu khớp tay đã cứng, mặc áo không tiện thì dùng khăn bông thấm nước nóng đắp trên vai, cánh tay, khủy tay, không lâu sau sẽ mềm ra, có thể mặc áo được!

Điều tối kỵ là chưa chết đã khóc lóc khiến cho cụ sanh tâm bi luyến sẽ khó được vãng sanh. Những chuyện này, Văn Sao, Gia Ngôn Lục đều đã nói tường tận, sợ ông chẳng lưu tâm nên nhắc lại! Sau khi đã chết, chỉ nên niệm Phật, đừng làm đàn Thủy Lục, niệm kinh, bái sám; do những chuyện ấy đều là thực hiện bề ngoài, phô trương thanh thế rỗng tuếch, có lợi ích thật sự rất ít! Hơn nữa, trong đám tang nhất loạt không dùng rượu thịt. Cổ lễ của Nho gia nghiêm cấm rượu thịt trong đám tang. Nếu dùng, người ta sẽ nghĩ [tang quyến] thất đức. Đời nay lễ nghĩa hoàn toàn bị chôn vùi, cho nên ăn thịt, uống rượu, tấu nhạc, ca hát, diễn tuồng, không điều gì chẳng làm! Nhưng cha ông đã quy y Phật pháp, ông cũng quy y Phật pháp, há có nên vẫn hành theo khuôn sáo xấu ác của thế gian ư? Mong hãy nói rõ nguyên do với các anh em của ông, đừng coi chuyện đại bất hiếu là có hiếu.

Hãy nên niệm Phật cho thần thức của cha được yên vui thì mới là hiếu. Làm được như thế thì cha ông cố nhiên được lợi ích, mà anh em con cháu cũng đều được lợi ích. Đừng cho rằng “những lời Quang nói đều chẳng thể tuân theo được” thì kẻ sống lẫn người mất đều được lợi ích. Ông không hiểu sự quá mức, vì chuyện của cha ông mà thỉnh thầy khai thị, thế nhưng vẫn chẳng nói “đảnh lễ, dập đầu” v.v… chỉ nói là “chắp mười ngón tay”. Ông thử suy nghĩ xem: Chuyện trọng đại ấy mà chỉ chắp mười ngón tay là xong, chẳng phải là coi chuyện ấy giống hệt như chuyện chẳng khẩn yếu hay sao? Do ông không biết nên Quang mới nói với ông, chứ không phải là mong được ông cung kính đâu nhé! (Mồng Một tháng Chạp, trước Ngọ liền về núi trong bữa ấy)
84. Thư trả lời cư sĩ Châu Trí Trinh (thư thứ hai)
Sao ông chẳng biết sự vụ? Cứ không có chuyện gì lại bới ra chuyện, sai Thừa Tuân hai lượt sang đất Hỗ (Thượng Hải) để hỏi về chuyện thọ giới. Hơn nữa, Văn Sao, Gia Ngôn Lục tuy sâu, nhưng chẳng lẽ hoàn toàn không biết, lại cứ muốn Quang khai thị cho ông những pháp thiển cận ư? Thiển cận thì đã có Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú Giải, há lẽ nào chẳng hiểu được lý ư? Quang chẳng ngại giảng cho ông một pháp giản lược. Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm Tông, cần phải thật sự vì liễu sanh thoát tử để phát đại Bồ Đề tâm “trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh”, dùng lòng tin sâu đậm, nguyện thiết tha để niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, Triệt Ngộ thiền sư nói: “Thật vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu, trì danh hiệu Phật”. Mười sáu chữ ấy là cương tông lớn lao của pháp môn Niệm Phật. Đấy chính là yếu quyết giản tiện nhất.

Hơn nữa, khi niệm, ắt phải tâm, miệng, tai từng câu từng chữ rành rẽ phân minh: Niệm cho rõ ràng, nghe cho rõ ràng, tâm tự chẳng tán loạn. Tâm còn phải thường giữ chánh niệm, chẳng để cho hết thảy những ý niệm tham -sân - si đủ mọi thứ bất chánh chớm sanh. Nếu chúng ngẫu nhiên sanh khởi liền dùng Phật hiệu để chế ngự khiến cho chúng bị tiêu diệt.

Cha ông và ông đều cùng quy y, Thừa Tuân hai phen đến gặp, chỉ thấy khẽ vòng tay. Dẫu cho vái chào một cái thật sâu cũng chẳng chịu làm! Như vậy thì chẳng những khinh Tăng mà còn là khinh cha. Gặp thầy của cha, đến hỏi Phật pháp chẳng chịu tỏ lộ ý muốn cung kính chút nào, mà muốn được lợi ích nơi Phật pháp sẽ khó thể đạt được lắm! Quang đã quyết định ẩn giấu tung tích, nhưng muốn lợi người nên chẳng ngại nói với ông! (Mồng Chín tháng Tư, viết dưới đèn)
85. Thư trả lời cư sĩ Trần Vị Ân
Vừa nhận được thư của Cung Tông Nguyên cho biết ông muốn quy y. Tôi muốn viết thư cho Tông Nguyên, nhưng do Tông Nguyên là pháp danh, chẳng nhớ tên thật, lại không có địa chỉ, sợ thư chẳng dễ giao được. Lại sợ ông ta ở Vô Tích, nên gởi thư trực tiếp cho ông. Cần biết rằng: Phật pháp vốn chẳng khác gì với Nho giáo164. Phàm là đệ tử Phật ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành. Muốn nương theo Phật pháp để liễu sanh tử thì phải hành trọn luân thường thế gian để trở thành người hiền, người lành. Nếu không, dẫu học Phật pháp cũng khó được lợi ích chân thật vì đã thiếu căn bản sẽ khó thể hoàn toàn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp.

Cần biết rằng: Phật pháp là pháp chung cho hết thảy chúng sanh, không một ai chẳng nên tu, mà cũng không có một ai chẳng thể tu được. Bọn Lý Học dùng đủ mọi lời lẽ sai lầm để báng bổ Phật pháp; đấy là những lời lẽ mê tâm trái lý, chứ không phải là những lời bàn luận hết mực công chánh. Họ bảo Phật pháp dùng nhân quả luân hồi để làm căn cứ gạt gẫm ngu phu ngu phụ, đấy là những chuyện bịa đặt không căn cứ, chứ thật ra không có chuyện ấy. Do vậy, bọn chúng đã khơi ra đầu mối khiến cho thiên hạ đời sau trọn chẳng kiêng sợ, ồ ạt [làm càn] cho tới nay bèn biến hiện thành những cảnh tượng thê thảm: phế kinh điển, phế luân thường, chôn vùi lòng Nhân, chôn vùi đạo đức. Học thuyết lầm người cùng cực đến thế!

Nay phải nên cực lực đề xướng nhân quả báo ứng để mong vãn hồi phong tục suy đồi, nhất là phải nên chí thành niệm Phật, niệm Quán Thế Âm để mong khi sống thì tiêu trừ ác nghiệp, tăng trưởng thiện căn, lúc mất cậy vào Phật từ lực, vãng sanh Tây Phương. Lại còn dùng những điều này để trong là khuyên cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ, dâu, con cái, ngoài là khuyên xóm giềng, làng nước, thân thích, bằng hữu để hết thảy mọi người đều cùng được gội Phật ân. Dùng công đức ấy để làm tư lương vãng sanh cho ta, ắt sẽ mau lên Thượng Phẩm.

Nay đặt pháp danh cho ông là Tông Pháp. Tông (宗) là chủ, là tột bậc. Nghĩa là lấy Phật pháp làm cái gốc chủ yếu để hành trọn vẹn luân thường thế gian ngõ hầu siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Nếu có các sách Tịnh Độ thì tốt lắm. Nếu không, cứ chiếu theo danh sách mà thỉnh từ Hoằng Hóa Xã để đọc thì nguyên do của pháp môn và các pháp tu trì sẽ đều hiểu rõ ràng. Quang già rồi, mục lực, tinh thần, công phu đều chẳng đủ, chớ nên thường gởi thư đến. Chịu lắng lòng đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Tịnh Độ Thập Yếu, Phật Học Cứu Kiếp Biên, Chánh Tín Lục thì không cần phải gởi thư hỏi han. Nếu không chú ý, tuy hằng ngày viết thư thưa hỏi vẫn vô ích! Hơn nữa, Một Lá Thư Gởi Khắp quả thật là bài viết đáng cho hết thảy mọi người trân trọng gìn giữ để tu trì. Văn chương tuy chẳng hay, nhưng nghĩa đầy đủ mọi lẽ, càng phải nên hành theo đó (Ngày Mười Hai tháng Ba năm Dân Quốc 22 - 1933)


86. Thư trả lời cư sĩ Hà Hy Tịnh
Người tu Tịnh nghiệp lấy lòng tin chân thành, nguyện thiết tha làm gốc. Nếu niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì rất tốt. Chớ nên nghĩ rằng “chưa đạt được nhất tâm bất loạn sẽ chẳng thể vãng sanh!” Nếu thường giữ ý tưởng ấy, đắc [nhất tâm] thì được. Nếu không đắc thì do thường giữ ý nghĩ “chẳng được vãng sanh” nên chẳng tương ứng với Phật! (Đây là căn bệnh lớn “biến khéo thành vụng”). Cầu siêu cho cha mẹ, chỉ mong [cha mẹ] được vãng sanh Tây Phương, sao lại hỏi “sẽ đọa lạc trong đường nào?” Ý ấy dường như tốt đẹp, nhưng quả thật đã gây ra chướng ngại, vì thần thức của con người bị nghiệp chuyển. Ông dùng tâm chí thành niệm Phật cho mẹ, do cậy vào Phật lực nên mẹ liền được vãng sanh. Hỏi chỗ đọa lạc tức là nghĩ [mẹ] chưa được vãng sanh! Ông đã đọc Văn Sao, Thập Yếu, cố nhiên chẳng cần xin Quang khai thị nữa! Con người hiện thời thường chuộng hư danh, chẳng tu thật hạnh, đấy là một chướng ngại lớn cho sự học đạo. Nếu chẳng làm giả thì mỗi một giọt mưa sẽ là một giọt thấm; hễ làm giả sẽ như ăn cơm trong mộng, vô ích cho cái bụng rỗng!

Những sách ông muốn thỉnh hiện thời chẳng thể gởi được. Do nhu cầu quân sự và dân bị nạn rất đông, bưu điện không nhận tất cả những bưu kiện, chẳng biết khi nào mới kết thúc! Hãy nên khuyên mọi người chí thành niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để cầu [chiến tranh] sớm kết thúc và làm kế dự phòng. Hiện thời Quang không đủ trí nhớ, sau khi yên ổn hãy nên gởi thư khác để thỉnh thì được. Nếu không, Quang vừa xem qua mắt liền quên ngay trong bữa ấy. Mong hãy sáng suốt soi xét! Hy Giác bệnh chưa lành, ông thường bị đau đầu, hãy đều nên niệm Quán Âm để làm phương cách chữa trị, chắc chắn mau được lành bệnh! (Ngày Hai Mươi Ba tháng Bảy năm Dân Quốc 26 - 1937)


87. Thư trả lời cư sĩ Trương Bội Phân Mộ Lan
Gần đây các tai nạn chiến tranh, giặc giã nối tiếp nhau xảy ra, căn bản là do gia đình thiếu giáo dục mà nên nỗi! Người học Phật ai nấy ắt phải trọn hết bổn phận. Nói “trọn hết bổn phận” chính là phải chăm chú “cha từ, con hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành”. Tám sự này mỗi một người đều có đủ. Trên có cha mẹ thì là mang bổn phận làm con. Dưới có con cái thì là mang bổn phận làm cha. Tự mình dùng người thì mang bổn phận làm chủ. Làm việc cho người khác tức là mang bổn phận tớ. Những chức phận khác đều có thể làm trọn, chỉ có mỗi chức phận cha mẹ là khó thể trọn hết được! Thật ra, trọn hết [chức phận làm cha mẹ] không khó, chỉ vì cả cõi đời không ai đề xướng, mọi người chỉ biết nuông chiều [con cái] mà chẳng biết giáo dục, đến nỗi nuôi [con cái] thành phường bại hoại, tàn sát lẫn nhau, khiến cho nước chẳng ra nước, dân chẳng thành dân.

Nói đến giáo dục thì từ lúc trẻ nhỏ bắt đầu hiểu biết liền nói với nó về nhân quả báo ứng và đạo lý làm người, ắt phải làm sao cho tâm nó biết sợ ác báo, hâm mộ thiện báo, sẽ chẳng đến nỗi phạm thượng, chẳng chịu làm theo lời dạy. Lúc bé đã như thế, tập quen thành tánh, dưỡng thành thiên tư lương thiện. Đó gọi là Dục (育). Dục là dưỡng. Nếu chẳng biết điều này thì sẽ dưỡng thành tánh chất hung ác, nhẹ thì ngỗ nghịch bất hiếu, nặng thì giết cha giết mẹ. Xét đến nguồn cội, đều là do cha mẹ chúng chẳng chịu dạy dỗ từ thuở nhỏ mà ra.

Tôi thường nói: “Công đức lớn nhất trong thế gian không gì bằng khéo dạy dỗ con cái. Tội lỗi lớn nhất trong thế gian không gì bằng chẳng dạy dỗ con cái. Ai nấy đều khéo dạy dỗ con cái thì thiên hạ tự nhiên thái bình. Ai nấy chẳng dạy bảo con cái thì thiên hạ chắc chắn tang tóc, loạn lạc”. Vì vậy nói: “Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm”. Lời này cả cõi đời không ai nói, nên tôi nói đại lược với các ông. Đối với chuyện ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương thì đã có trong các sách được gởi đến. Quang đã bảy mươi chín tuổi rồi, sáng chẳng đảm bảo được tối. Từ nay chớ nên gởi thư đến nữa, cũng đừng giới thiệu ai khác đến quy y vì không có mục lực, tinh thần để thù tiếp vậy! (Ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng năm Dân Quốc 28 - 1939)
88. Thư trả lời cư sĩ Vương Chiếu Ly (thư thứ nhất)
Nhận được lá thư trước và món tiền sáu trăm đồng, liền gởi thư phúc đáp ngay. Đem một trăm đồng cậy người bạn giao cho Kim Lăng Lưu Thông Xứ. Ông ta có gởi thư cho ông, chắc đã nhận được rồi. Mấy hôm gần đây lại nhận được ba trăm bốn mươi bốn đồng, Văn Sao, An Sĩ [Toàn Thư], Gia Ngôn, Bảo Giám, bốn loại sách và bưu phí đều đã thanh toán xong xuôi. Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú, Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, chẳng bao lâu nữa sẽ được gởi đến. Lại còn có sách Học Phật Thiển Thuyết khá thích hợp sơ cơ, năm nay tôi cho in hai lần, mỗi lần hai vạn cuốn. Lại tính cho in [sách ấy] với khổ chữ Tam Hiệu Tự cho to hơn. Trong năm nay hoặc vào tháng Giêng năm tới sẽ in xong. Nếu ông cần, xin báo cho biết.

Thêm nữa, lần sau nếu chuyển tiền xin hãy gởi qua Giao Thông Ngân Hàng. Giao Thông Ngân Hàng nhận được thư, liền giao thư và tiền cùng một lúc, khá thuận tiện! Trung Quốc Ngân Hàng nhận được thư bèn gởi thư và phiếu giao tiền đến trước, yêu cầu ký tên xác nhận, lại còn phải có ngân hàng khác bảo đảm. Ý họ làm ra vẻ thận trọng, nhưng sự thật là muốn kéo dài thời gian để kiếm tiền lời, đáng ghét tới cùng cực! Cố nhiên Quang không bị trở ngại gì, nhưng những người yếu thế không được bảo chứng như thế sẽ bị họ chèn ép không ít. Thủ đoạn mượn tiếng thận trọng ấy để đặc biệt kéo dài thời gian đúng là tệ ác đến cùng cực. Nếu [ở chỗ ông] không có [chi nhánh ngân hàng] Giao Thông thì dùng ngân hàng Trung Quốc cũng được. Nếu không, chẳng cần phải nhờ họ chuyển tiền.

Trong khoảng tháng Tám, tháng Chín, Quang bảo Đại Trung Thư Cục gởi (bằng thư bảo đảm) ba mươi gói An Sĩ Toàn Thư (tức một trăm hai mươi bộ) để đền bù cho những sách bị nước ngấm ướt, ông đã nhận được hay chưa? Mấy lần thư từ đều không thấy ông nói tới. Dẫu không tính vào chi phí, nếu nhận được cũng nên báo cho biết để [người gởi] khỏi bận tâm! Tôi tính gởi Chỉ Bản sang Tân Gia Ba và quý đường165. Trước đây, tôi đã nhận được thư của một đệ tử ở Tân Gia Ba cho biết: So với Thượng Hải thì tiền công thợ và giá giấy ở chỗ ông ta đắt gấp mấy lần, ngàn vạn phần đừng gởi sang, chẳng biết chỗ ông như thế nào? Nếu thuận tiện, tôi liền đem Chỉ Bản gởi sang. Nếu ở chỗ ông giá còn cao hơn nữa thì cần gì phải làm chuyện thua thiệt ấy? Sẽ in ở Thượng Hải rồi đem gởi đi, so ra thuận tiện hơn! Lời này quả thật là vì Tân Gia Ba mà nói, chỉ sợ [nếu người ở Tân Gia Ba đứng ra in] sẽ đâm ra bị thiệt thòi, chứ không phải là vì tôi không bỏ được Chỉ Bản.

Hiện tại, tôi tính tìm cách đem Văn Sao, An Sĩ Toàn Thư, Quán Âm Tụng, Thọ Khang Bảo Giám chế ra bốn bức Chỉ Bản nữa vì vốn chỉ có hai bức. Năm ngoái bị cháy mất một bức, chỉ còn giữ được một bức. Tuy Trung Hoa Thư Cục có hai bức, nhưng họ chẳng chịu cho mượn dùng; giá in sách của họ còn đắt hơn những thư cục khác. Do vậy, Quang lại muốn bỏ ra một ngàn đồng để chế thành mấy bức Chỉ Bản để tạo duyên cho người sau này có được sách. Hiện thời Gia Ngôn Lục, Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú, Cảm Ứng Thiên Trực Giảng, Học Phật Thiển Thuyết, Gia Đình Bảo Giám, Kỷ Văn Đạt Bút Ký Trích Yếu, Giang Thận Tu Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục, Liên Trì Phóng Sanh Văn Hợp San, Long Thư Tịnh Độ Văn, Hộ Pháp Luận, chín loại này đều phải chế ra bốn bức Chỉ Bản [cho mỗi cuốn] để người mai sau dễ lưu thông. Quang làm người trọn chẳng có tâm riêng tư, vì thế suốt đời chẳng thâu nhận đồ đệ, chẳng lập môn đình, chẳng kết xã lập hội. Được ai tặng tiền, nếu Quang chẳng dùng để in sách thì liền dùng để cứu trợ tai nạn, chẳng để nghiệp của chính mình bị tăng trưởng vì tiền của người khác. Huống chi nay đã sáu mươi tám tuổi rồi, tháng ngày chẳng còn nhiều, đúng là lúc [chỉ nên] tạo duyên vãng sanh Tây Phương cho chính mình và người khác mà thôi! (Ngày Mười Bốn tháng Mười năm Dân Quốc 17 - 1928, viết dưới đèn)


89. Thư trả lời cư sĩ Vương Chiếu Ly (thư thứ hai)
Thư ngày mồng Chín chắc ông đã nhận được rồi, hôm nay tôi gởi hai mươi lăm gói sách Khuê Phạm, [tổng cộng] năm mươi bộ (bốn mươi bốn đồng). Mỗi bộ tám cắc tám xu. Cảm Ứng Thiên Trực Giảng sáu mươi ba gói, tức một ngàn lẻ tám cuốn (một ngàn cuốn là một trăm hai mươi đồng). Mỗi cuốn là một cắc hai xu. Bưu phí (mười ba đồng hai cắc, tổng cộng một trăm bảy mươi bảy đồng hai cắc. Còn tám cuốn bỏ thêm không tính). Tổng cộng là tám mươi tám gói. Khoản tiền ấy hễ tính là biết ngay. Khoản tiền này hãy nên gởi thẳng về chùa Thái Bình ở bến Trần Gia, Thượng Hải, giao cho đại sư Minh Đạo thâu nhận thì không sợ bị sai sót. Hễ nhận được, Sư sẽ gởi biên nhận ngay.

Cảm Ứng Thiên Trực Giảng in ra hai vạn bộ. Một ngàn bộ này vốn là những sách gởi trước vì Quang không lâu nữa sẽ về Phổ Đà. Thoạt đầu lúc in sách Khuê Phạm, không có mấy người đứng ra chịu trách nhiệm [bỏ tiền in], Trần Chánh nhận lo một ngàn bộ, những cuốn còn lại do Quang ứng ra. Sau cùng đảm nhiệm ba ngàn bộ đã xong; vì thế; Quang gộp khoản tiền năm trăm đồng của ông Chánh với hai trăm đồng của sư Chân Đạt và ông Tôn Thái Thừa để kết duyên vụn vặt166 và cho người khác thỉnh. Năm sau nếu thời cuộc yên ổn, chắc sẽ tái bản được! Nếu ông muốn đứng ra chịu tiền in thì hãy nên thông báo trước. Sách này tám cắc tám xu một cuốn, vốn là tự mua giấy, tự đem in theo lối thạch bản, tự đóng sách. Nếu không, chẳng tốn tới một đồng hai cắc [cho mỗi cuốn] sẽ chẳng thể in được (Đại Trung Thư Cục tính một đồng hai cắc, Trung Hoa Thư Cục tính giá một đồng năm cắc hai xu) mà giấy vẫn khó được tốt như vậy. Hiện thời lòng ham muốn của con người tung hoành, nếu chẳng lấy khuôn mẫu tốt đẹp của cổ nhân để giữ yên tai mắt, chấn chỉnh chí khí thì họ sẽ hùa nhau chìm đắm167 theo những tà thuyết kia hết, buồn thay! (Ngày Mười Bảy tháng Mười Một, viết vào lúc đã thắp đèn).


90. Thư trả lời cư sĩ Cảnh Chánh Luân
Nhận được thư, cũng nhận được khoản tiền của ông Trần Phi Thanh. Cách làm như vậy rất hay. Di Đà Kinh Bạch Thoại Chú (mỗi cuốn một cắc sáu xu), năm trăm cuốn, đã sớm gởi đi, chắc nay ông đã nhận được rồi. Học Phật Thiển Thuyết năm trăm cuốn (mỗi cuốn hai xu một chinh, mỗi gói tính thêm hai xu cước phí nữa), không lâu nữa sẽ được gởi tới. Cảm Ứng Thiên Trực Giảng một ngàn cuốn (mỗi cuốn một cắc hai xu, mỗi gói là mười sáu cuốn) còn phải đợi ba mươi mấy ngày nữa! Phóng Sanh Sát Sanh Hiện Báo Lục (cuốn này chưa in xong, chưa thể định giá được) đã cho sắp chữ riêng. Nhằm thực hiện biện pháp đỡ tốn giấy, sẽ đem những bài như văn phóng sanh của Tổ Liên Trì in kèm vào đấy thành một tập, thực là dễ coi. Mùa Xuân năm sau sẽ in sách này một vạn cuốn. In xong sẽ gởi [cho ông] một ngàn cuốn. Kỷ Văn Đạt Bút Ký Trích Yếu vẫn chưa in, Gia Đình Bảo Giám đã xong, cần phải đợi đến mùa Xuân năm sau mới quyết định chuyện ấn hành. Từ rày, nếu gởi tiền, hãy chuyển giao cho đại sư Minh Đạo chùa Thái Bình ở bến Trần Gia tại Thượng Hải là ổn thỏa. Đầu tháng Ba năm sau, Quang sẽ đến Thượng Hải lo liệu ấn loát các sách (Ngày Hai Mươi Chín tháng Mười Một, viết dưới đèn).
91. Thư trả lời cư sĩ Thái Tích Đỉnh (thư thứ nhất)
Mẹ ông đã sáu mươi bảy tuổi, tháng ngày không còn nhiều, hãy nên tận lực khuyên cụ sanh lòng tin phát nguyện, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương, đấy là hành hiếu chân thật! Nay đặt pháp danh cho mẹ ông là Đức Thành, nghĩa là dùng lòng Thành niệm Phật, ắt được Phật từ tiếp dẫn. Vợ ông là Kim Địa đã chịu ăn chay, sao chẳng chịu niệm Phật? Niệm Phật mà mắc cỡ thì đáng gọi là “chẳng biết tốt - xấu đến cùng cực!” Nay đặt pháp danh cho bà ta là Đức Thanh, nghĩa là có thể nhất tâm niệm Phật thì nghiệp lực tiêu trừ, thiện căn tăng trưởng, tự biết tốt - xấu. Dẫu đối trước muôn người vẫn chẳng sợ hãi mà niệm rõ ràng, khiến cho những người nghe [tiếng niệm Phật] ấy đều cùng gieo thiện căn, cùng được thanh tịnh tam nghiệp vãng sanh Tây Phương. Ngộ Hạnh pháp danh là Đức Ý, Học Hạnh pháp danh Đức Thục. Hai đứa con gái này đều ăn chay từ trong thai, chính là người tu hành trong đời trước, sao không dạy chúng niệm Phật? Đấy chính là vì ông không hiểu sự việc! Đã có túc căn, lại chẳng dạy niệm Phật, ví như ruộng tốt lại không cày cấy, gieo trồng, cũng chẳng gặt hái được gì! Tuy có túc căn tốt đẹp mà chẳng được lợi ích tốt đẹp thật sự! Hiện nay đàn cầu cơ của ngoại đạo lập ra ở các nơi nhiều như rừng. Đã quy y Tam Bảo chớ nên vẫn tu theo công phu của ngoại đạo, tham gia cầu cơ! Pháp danh của bà Trần Chiếu Tây nhà họ Từ và con dâu là Vân Hà được viết trong một tờ giấy khác, xin hãy giao lại cho họ. Những điều khác đã được nói tường tận trong bức thư dài (tức Một Bức Thư Trả Lời Khắp), ở đây không viết chi tiết nữa! (Ngày mồng Chín tháng Mười Một)
Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương