Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Hoàng Bảo Việt



tải về 2.21 Mb.
trang18/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   29

137. Thư trả lời cư sĩ Hoàng Bảo Việt
Hôm qua nhận được thư, khôn ngăn cảm kích. Chuyện ấy đã làm mệt trí các hạ, chịu lỗi khôn xiết. Ông Đối Phù chẳng chú trọng cho đỡ tốn kém, chỉ mong cho tâm nguyện này sớm được hoàn tất mà thôi. Nay đã chẳng thay đổi những gì đã bàn định trước đây, đã cho tiến hành gấp những việc ấy. Vẫn mong không lâu nữa các hạ sẽ lại tiến hành điều tra coi có thực sự in được hay không? Nếu chẳng điều tra, chắc sẽ đến nỗi nói rồi không xét tới, lại cứ chất đống bỏ đó mà thôi. Còn chuyện in ra sách xong sẽ biếu tặng, Quang thật sự chẳng cần đến, chỉ cần bảo người giao sách tới chùa Thái Bình [tiện dịp] gởi một phần cho Quang xem là được rồi, không cần nhiều!

Hỏi đến chuyện sang đất Hỗ (Thượng Hải) thì sợ không có dịp nữa! Quang đã ngoài bảy mươi rồi, đâu còn được bao lâu nữa, ở yên trong quan phòng đợi chết mà thôi! Nếu ra khỏi quan phòng thì tổn hại cho chính mình, mà cũng vô ích cho người. Do vậy, chỉ mong sớm vãng sanh, chẳng mong tới lui những chỗ đại chúng tụ hội nữa. Nguyện các hạ phát Bồ Đề tâm, hành phương tiện sự, khiến cho con cái phước huệ ngày càng tăng, có thành tựu lớn lao vậy! (Ngày mồng Chín)

Hôm qua tôi đã đem nguyên thư [của ông] gởi cho Đối Phù để [ông ta được] thỏa lòng khát vọng.
138. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ nhất)
Hôm qua do Phổ Đà chuyển thư đến, biết đất Tần (Thiểm Tây) của tôi vẫn còn có người phát tâm mộ đạo, tu trì Tịnh nghiệp, khôn ngăn vui mừng, an ủi. Quang sống tại Phổ Đà ba mươi bảy năm, do tuổi già khó thể thù tiếp, nên tháng Bảy năm ngoái xuống núi, tính sang Hương Cảng (hai năm trước đây có đệ tử nhiều lần thỉnh, đã chấp thuận rồi). Bạn bè sợ vượt biển trúng gió, chắc đến nỗi bị tổn thương, giữ lại bế quan ở Tô Châu, hết thảy [mọi chuyện] bên ngoài đều tạ tuyệt. Các hạ đã đọc Văn Sao, hãy nên hành theo đó thì nhất định sẽ được lợi ích lớn lao. Đừng do đọc kinh Đại Thừa hoặc gặp những vị tri thức Tông, Giáo, Mật v.v… liền vui thích sự sâu mầu rộng lớn của những pháp môn ấy và vì [nghĩ] những khai thị ấy thân thiết, cao xa, huyền diệu, bèn bỏ Tịnh Độ để tu hành các pháp môn khác thì sẽ chẳng đến nỗi chỉ gieo nhân liễu sanh tử, quyết khó thể đạt được cái quả liễu sanh tử ngay trong đời này!

Vì sao vậy? Vì hết thảy pháp môn đều cần phải tự lực tu trì đến lúc “nghiệp tận, tình không” rồi mới có thể liễu sanh tử. Nếu không, dẫu cho ông công phu sâu xa, kiến địa cao vời, công đức lớn lao, nhưng nếu còn một mảy phiền não chưa đoạn sạch thì vẫn là người trong luân hồi y như cũ. Đã ở trong luân hồi thì người từ mê tiến vào ngộ rất ít, kẻ từ mê tiến vào mê rất nhiều! Lại chẳng biết có còn gặp được Phật pháp nữa hay không? Dẫu gặp được Phật pháp mà chẳng gặp được pháp môn Tịnh Độ thì vẫn y như cũ, không có thuở thoát khổ. Cậy vào tự lực [để thoát sanh tử] thì cả cõi đời khó được một hai người [thành công]. Cậy vào Phật lực thì muôn người chẳng sót một ai! Pháp môn Tịnh Độ dùng sự tín nguyện trì danh của chính mình để cảm Phật, Phật dùng thệ nguyện nhiếp thọ. Ví như ngồi tàu thủy vượt biển, sức của chính mình chẳng thể sánh bằng được. Nhưng đã muốn liễu sanh tử ngay trong đời này thì phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật.

Dùng những điều này để tự hành, lại còn dùng những điều ấy để khuyến hóa cha mẹ, anh em, vợ con, xóm làng, thân thích, bạn bè để bọn họ đều cùng được thấm nhuần pháp, cùng tu Tịnh nghiệp thì công đức của chính mình càng lớn, chắc chắn được vãng sanh không nghi ngờ chi! Nếu ngoài mặt tỏ vẻ từ thiện, trong tâm ôm lòng độc ác thì tâm trái với Phật, chắc chắn khó thể vãng sanh! Ví như uống thuốc, chẳng thể uống chung với những thứ kỵ thuốc! Nếu cùng uống sẽ có thể bị mất mạng, không cách chi lành bệnh được! Nay gởi cho ông hai gói sách để làm căn cứ tự hành, dạy người. Quang đã bảy mươi mốt tuổi rồi, tinh thần chẳng đủ, đừng thường gởi thư đến. Đã có Văn Sao, Gia Ngôn Lục làm chủ, các sách khác giúp thêm thì cũng chẳng thiếu sót, tiếc nuối chi! Đây là nói về người thật sự vì sanh tử, chứ nếu muốn làm bậc đại thông gia thì sách trong cả thế gian đều phải nên đọc. Dẫu có thể trở thành bậc đại thông gia, nhưng liễu sanh thoát tử đã trở thành vô vọng rồi! (Ngày Mười Tám tháng Giêng năm Dân Quốc 20 - 1931)

139. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ hai)
Thư và hai gói sách đều nhận được. Sau này không cần phải gởi sách xuống phương Nam vì thiện tín ở phương Nam in sách rất nhiều. Chẳng gởi cho nơi không có sách lại gởi sang chỗ có [nhiều sách] tức là đã làm chuyện ngược ngạo rồi đấy! Trong bộ Đạt Sanh Phước Ấu Hợp Biên đã in vào năm trước, ắt có bài Ma Chẩn Bí Phương (Toa thuốc bí truyền trị bệnh sởi). Do vùng Quan Trung chúng ta không có sách ấy nên cũng không mong ông đi kiếm thử. Ông là người đã có tín tâm từ đời trước, muốn quy y thì hãy nên sốt sắng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới là đệ tử thật sự của đức Phật. Thường thấy những kẻ học Phật cũng là giả vờ làm, chứ thật ra suy nghĩ, cư xử vẫn chú trọng nơi lợi, nơi dục, vẫn mê nhân mờ quả y như cũ, dối Phật, lừa người. Những kẻ giả thiện ấy quả thật là lũ giặc trong cửa Phật, hãy nên răn dè sâu xa!

Đừng nói “đối với chuyện lớn chẳng thể dối mình, lừa người”, ngay cả nơi khởi tâm động niệm cũng phải chú trọng lòng Thành. Nếu có thể chân thành chẳng dối thì lâu ngày chầy tháng ắt được người ta tin tưởng. Người khác đã tin tưởng thì thiên địa quỷ thần sẽ thường che chở, gia hộ, khiến cho thường được tốt lành. Huống chi Phật, Bồ Tát đại từ đại bi có khi nào chẳng rủ lòng Từ gia bị ư? Đường bộ ở đất Tần đây kia qua lại bất tiện, thật khó thể hội ngộ với người cùng chí hướng. Hãy nên bầu bạn với cổ nhân và thường đọc Văn Sao, Gia Ngôn Lục, An Sĩ Toàn Thư v.v… để giống như được một vị thầy kèm cặp, hằng ngày nhận lãnh giáo huấn, đức sẽ tự tăng tấn. Chớ nên giao du với những kẻ giả vờ là thiện nhân hoặc tu pháp luyện đan vận khí của ngoại đạo để khỏi bị họ lây nhiễm.

Ông đã phát tâm quy y, nay đặt cho ông pháp danh là Đức Tấn. Tấn là tiến lên. Nếu có thể nương theo Phật pháp để tu trì liền có thể dự vào bậc thánh hiền ngay nơi thân này, lâm chung lên cõi Cực Lạc. Đấy gọi là Đức Tấn. Cần phải phát Bồ Đề tâm, tùy cơ khuyên dạy, sẽ có lợi ích lớn lao cho sự tu tập của chính mình. Hãy nên thường nói với bác gái của ông về lợi ích, cách tu pháp môn Tịnh Độ, khuyên bà ta đừng học pháp của ngoại đạo, cũng như đừng niệm Phật để cầu phước báo trong đời sau, ngõ hầu bà ta được vãng sanh thì mới thật sự là đại hiếu. Phải biết chuyện liễu sanh tử chẳng thể coi giống như chuyện nhỏ nhặt. Đại Vũ là bậc đại thánh nhân vẫn chưa thể giữ cho cha chẳng bị biến thành con Hoàng Nai (chữ Hùng (熊) đọc thành âm Nãi (乃), giọng ngang, [tức là đọc thành Nai], chính là con ba ba (cua đinh) ba chân. Cũng có người đọc là Năng (能), nhưng [đa số] đều đọc thành Nãi, giọng ngang). Suy tưởng đến đây, chúng ta thật sự được may mắn không chi lớn bằng! Cũng nên tùy phần tùy cơ chỉ dạy người em thứ ba của ông.

Từ nay về sau chỉ nên đọc kỹ Văn Sao v.v… chớ nên tự tiện gởi thư đến vì Quang không có sức chịu đựng. Văn Sao, Gia Ngôn Lục chính là niềm tin chung cho khắp hết thảy những ai chuyên tu Tịnh Độ. Nếu học tràn lan các tông thì chẳng phải là đương cơ để bàn luận rồi! Người đời nay nếu chẳng chuyên tu Tịnh Độ dẫu có thể thông suốt kinh tạng sâu xa, triệt ngộ tự tâm, nhưng sanh tử xảy đến vẫn chẳng sử dụng được gì! Vì sao vậy? Nếu chẳng niệm Phật cầu sanh Tây Phương, ắt phải đoạn sạch phiền não Hoặc nghiệp thì mới có phần liễu sanh tử! Chỉ thông đạt kinh luận, ngộ rõ tâm tánh, nhưng Phiền Hoặc chưa đoạn thì vẫn luân hồi y như cũ. Huống chi kẻ chưa thể thông hiểu sâu xa kinh tạng lẫn tự tâm ư? Niệm Phật liễu sanh tử hoàn toàn cậy vào Phật lực, do sức lực của lòng tin chân thật, nguyện thiết tha của chính mình để niệm Phật ngõ hầu cảm được Phật rủ lòng Từ tiếp dẫn, vì thế có thể đới nghiệp vãng sanh. Ông hãy dốc chí nhé!

Lại nữa, hôm nay có một đệ tử, nói mẹ và vợ ông ta năm ngoái cùng bị bệnh sốt rét hai ba tháng. Do vậy, tôi nghĩ bệnh này khá độc hại, nay tôi giới thiệu bài thuốc tuyệt diệu trị bệnh sốt rét, mong ông hãy ấn tống lưu truyền rộng rãi, đấy quả thật là một đầu mối để lợi người vậy (Viết dưới đèn vào ngày Hai Mươi Bốn tháng Hai)
* Toa thuốc thần diệu trị bệnh sốt rét
Ô Mai (hai quả), Hồng Táo (hai quả), Hồ Đậu (Một tuổi thì một hạt, người mười tuổi liền viết mười hạt, mười một tuổi liền viết mười một hạt, những người khác từ đây mà suy).

Dùng một tờ giấy trắng viết ba loại ấy, gập lại, xếp thành lớp. Trước khi bệnh sốt rét phát ra độ một tiếng, tức là một nửa thời thần200 - do trong làng quê không có đồng hồ nên phải nói là “nửa thời thần” - quấn quanh bắp tay, tức phần trên bàn tay, phía dưới khủy tay thì [bệnh sốt rét] sẽ chẳng phát ra, cũng chẳng cần phải mua thuốc. Chỉ viết tên ba thứ này, quấn trên tay là được! Cần phải phân ra “nam tả, nữ hữu”. Lúc quấn đừng nói với người khác. Cách này cực hay, được chép phía sau bộ An Sĩ Toàn Thư, do chữ quá nhỏ, sợ người ta chẳng để ý đến nỗi chẳng được lợi ích thật sự.


140. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ ba)
Nhận được thư mấy hôm trước, gặp đúng lúc phải giảo chánh sách cho người bạn. Hơn nữa, người bạn ấy đã định ngày trở về (người ấy ở Tô Châu nói mồng Một tháng Tư sẽ đi, cuối tháng Ba đã phải giao sách) nên phải căn theo kỳ hạn ấy để giao phó, khá là bận bịu, chẳng rảnh rang để phúc đáp được. Tiếp đó là ảnh chụp được gởi tới, rồi đến bột sen để điểm tâm được gởi đến. Trong thư có bưu phiếu mười hai đồng, đều nhận được cả rồi. Mười mấy hôm trước, tôi đã bảo gởi thêm mười gói sách, chắc ông đã nhận được rồi! Ông thật chẳng biết thời thế, từ xa mấy ngàn dặm gởi thức ăn đến, đôi bên mất công, phí tiền, rốt cuộc có ích chi đâu? Chỉ xé cái bao này không thôi đã tốn khá nhiều thời gian rồi; hộp đựng điểm tâm và món điểm tâm đều bị ép nát nhừ. Mấy chục năm qua, Quang chẳng thích ăn những thứ lặt vặt. Hễ có ai tặng cho bột ngó sen, bột sắn dây, chưa hề pha tới, đem biếu hết cho mọi người dùng. Từ đây về sau, muôn phần xin đừng đem những chuyện này khuấy nhiễu tôi. Nhà ông có của ăn của để, sao lại vì nhận chức Khu Trưởng mà đến nỗi kết oán với bọn nhỏ nhen, gây hại cho mai sau? Nay may mắn vì niệm Phật mà từ chức, đấy cũng là do đức Phật mở cái tâm cho ông, bảo vệ gia đình ông, hãy nên sanh lòng cảm kích, thật tâm tu trì. Chớ nên hữu danh vô thật, hoặc cầu hư danh thì lợi ích chẳng cạn đâu!

Nếu muốn đề xướng, hãy nên biết cái thân là gốc. Nếu chính mình có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, lại còn bảo những ai thông hiểu văn lý đọc các sách Văn Sao, Gia Ngôn Lục, An Sĩ Toàn Thư v.v… và kể với họ những chuyện niệm Phật cảm ứng trong cõi đời gần đây. Bọn họ lậm sâu chất độc của bọn Âu, Hàn, Trương (Hoành Cừ)201, Trình, Châu, Lý (Nhị Khúc)202. Do vậy, cũng chẳng thể không dần dần chuyển biến tà chấp của bọn họ để lòng họ hướng về chánh pháp. Điều quan trọng là làm cho hết thảy nam nữ ai nấy ở trong nhà mình thực hành đạo “giữ vẹn luân thường, niệm Phật”. Đừng học theo thói của những kẻ đề xướng hiện thời: Trước hết xây dựng một cơ sở kiến trúc lớn lao, tốn kém chẳng ít, kêu gào người khác quyên tiền, người ta chẳng bội phục cho lắm. Huống hồ sự việc lớn lao, không có người trông nom sẽ không được! Mướn người thì lương bổng phải lấy từ tiền quyên mộ, sẽ thành trở ngại lớn. Quang nói với ông một biện pháp tuyệt diệu nhất: Ở trong thôn hoặc chính mình có căn nhà trống thì [dùng nơi đó để] lập một cơ sở. Nếu không, thì một ngôi miếu hoặc từ đường ở vùng phụ cận đều được. Mượn chỗ ấy để tiến hành, dùng bảng hiệu linh động, có thể treo lên hoặc gỡ xuống dễ dàng.

Ước định mỗi tháng một lần, giảng nói cách tu và lợi ích của Tịnh Độ ở cơ sở ấy. Tuy chẳng thể cự tuyệt nữ nhân, nhưng ai tuổi tác quá nhỏ thì xin họ đừng đến nghe để [người ngoài] khỏi sanh lời bàn tán, hoặc đến nỗi bọn cuồng đồ do vậy sanh sự! Ngoài ra, nếu ông không phải chuyên lo nghề nông, nghề buôn, nếu có một hai gia đình tin tưởng, muốn cho thân quyến thuộc phái nữ của họ đều được hưởng lợi lạc nơi pháp thì sẽ ước định kỳ hạn để mời đến nhà người ấy giảng diễn pháp môn Tịnh Độ cho các bà, các cô. Gia đình đứng ra thỉnh phải có người đàn ông đã đủ độ tuổi hiểu biết thì mới nên nhận lời thỉnh. Nếu chỉ có nữ nhân, hoặc bé trai, hoặc ông già chẳng thể đi đứng được thì đều chẳng nhận lời thỉnh. Loại giảng diễn ấy chớ để cho người ngoài đến dự, chỉ hạn chế trong vòng gia quyến của người đứng ra thỉnh và người trong nhà họ cùng thân quyến mà thôi!

Đến nhà ấy, hãy nên lập một pháp vị (chỗ để giảng pháp). Không cần phải bày tượng Phật, chỉ cần coi chỗ ấy như là chỗ đức Phật ngự, liền hướng về chỗ ấy đảnh lễ một lạy, bảo người nghe cũng lễ một lạy, rồi liền ngồi diễn thuyết. Nói xong, ra trước pháp tòa lễ một lạy, cũng bảo người mời [ông đến giảng] và người nghe giảng lễ một lạy, không ăn uống, không nhận cúng dường. Như thế mới khỏi bị dị nghị. Về sau, nếu có ai muốn làm thì cũng phải giống như thế. Liên xã ấy nên đặt tên là Đôn Luân Liên Xã. Phàm những ai dự vào Liên Xã ấy và người diễn thuyết đều phải chú trọng giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Gặp cha nói từ, gặp con nói hiếu, anh nhường, em kính, chồng hòa, vợ thuận, chủ nhân từ, tớ trung thành, ai nấy đều trọn hết thiên chức của chính mình. Làm cha mẹ dạy dỗ, uốn nắn con cái quả thật là căn bản để thiên hạ thái bình. Muốn cho ai nấy trọn hết bổn phận mà không sốt sắng đề xướng nhân quả báo ứng, chắc chắn sẽ chẳng có hiệu quả thật sự. Ông làm được như thế ắt sẽ có người khác nhìn theo làm lành.

Ngoài ra, chớ nên nắm níu đồng môn lung tung. Dẫu bọn họ lấy tình đồng môn đến thăm hỏi, cũng đừng giao thiệp với họ ngay vì hiện thời những kẻ giả danh người lành đông lắm. Nếu giao du bừa bãi, ắt sẽ mang lụy. Lời tựa và bạt cho Liên Xã, đợi khi rảnh rỗi sẽ viết rồi gởi đến. Đối với hai người em trai, ông nên đưa thư cho họ đọc trước, cho biết vì sao ông đã thay họ xin quy y. Trước hết, đem pháp danh gởi đi, bảo họ gởi thư đến lễ tạ để tôi tiện thể ban lời khai thị chân thật. Nếu trọn chẳng có mảy may sắp đặt nào mà tôi liền gởi lời khai thị tới ngay, sợ họ sẽ chẳng nghe, lại còn thiếu sót lễ tiết nữa! Nếu họ gởi thư đến, phải dùng danh xưng “đệ tử Ninh… pháp danh Đức… đảnh lễ”. Chuyện ấy cố nhiên không cần phải nói nữa. Nhưng có kẻ chẳng biết thời thế, muốn cầu quy y mà vẫn chẳng chịu dùng một chữ khuất mình, trở thành khinh pháp mạn người. Nếu chấp nhận [cho kẻ ấy quy y] thì đôi bên đều bị mắc lỗi. Quang già rồi, chớ nên thường gởi thư đến. Những điều tôi đã nói với ông, hãy tham khảo thêm những điều đã nói trong Văn Sao để châm chước mà làm. Đợi sau này, Chánh Tín Lục được in ra, sẽ gởi bao nhiêu đó cuốn để làm cho những kẻ lậm sâu thuốc độc đều ói sạch cả ra, để làm một nhà Nho chân chánh mới mẻ.

Bọn Trình - Châu không chỉ trái nghịch Phật pháp mà còn hoàn toàn trái nghịch tâm pháp của thánh nhân. Những kẻ phế kinh điển, phế luân thường, vứt bỏ lòng hiếu, không biết hổ thẹn, giết cha, giết mẹ ngày nay đều do bọn Lý Học đả phá nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi mà ra. Họ cho rằng “có làm điều gì để làm lành thì chính là ác”; ngăn cản cái tâm vui mừng hâm mộ làm lành của người khác. Họ cho rằng “con người chết đi, hình hài đã mục nát, thần hồn cũng phiêu tán”, tức là mở ra con đường không kiêng sợ cho người khác. Thật ra, họ muốn đối nghịch đức Phật để Nho giáo được hưng thịnh lớn lao, chẳng biết Nho giáo bởi đấy mà bị diệt vong, chẳng đáng buồn sao? Nhưng ông học vấn chưa rộng lớn, hãy cứ sốt sắng đề xướng [pháp môn Tịnh Độ], còn những chỗ đả phá bài xích Lý Học hãy để từ từ. Nếu không, chắc sẽ bị bọn hẹp hòi câu nệ ám hại ngầm, chẳng thể không biết [điều này]! Mong hãy sáng suốt soi xét.

Tôi một bề chẳng so đo, cứ tiện tay dùng giấy để viết nên khổ giấy lớn -nhỏ bất nhất. Tờ giấy này dùng để dán vào cửa kiếng trong mùa Đông vừa rồi, vứt đi cũng đáng tiếc; vì thế, dùng [để viết thư] cho kẻ tri kỷ. Người em thứ hai tên là Trung Vũ, pháp danh là Đức Hằng. Nếu con người
“vô hằng” (không có ý chí chẳng đổi dời) thì chẳng những không thể học Phật mà cũng chẳng thể làm người. Hãy nên dùng hằng tâm để nghiêm túc giữ luân thường đạo lý hòng trọn hết bổn phận làm người. Lại còn dùng hằng tâm kiền thành tu pháp môn Tịnh Độ để thực hiện đạo “tự lợi, lợi người” thì gọi là Đức Hằng. Người em thứ ba tên là Hiến Vũ pháp danh là Đức Phục. Bản tâm của chúng ta cùng bản tâm của Phật không hai, do mê muội nên ngược ngạo làm chúng sanh. Nếu có thể tận lực thực hành đạo “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận” và pháp tín nguyện niệm Phật, sẽ khôi phục nguồn tâm sẵn có, tức là như câu nói: “Thánh do mất niệm mà thành cuồng”, nay vẫn dùng cái tâm này để cầu ngược lại, liền có thể khôi phục được nguồn tâm sẵn có, [tức là] “khắc niệm thành thánh” vậy! Xin hãy sao lại những điều này, gởi sang cho họ (Ngày mồng Ba tháng Tư năm Dân Quốc 20 - 1931)
141. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ tư)
Bài tựa duyên khởi cho Đôn Luân Liên Xã203 đã soạn xong gồm tám trăm sáu mươi tám chữ. Văn tuy vụng về, chất phác, nhưng nghĩa vốn lấy từ kinh Phật, lời Tổ, thật đáng để nương theo, trọn chẳng có nghĩa nào đáng ngờ! Hãy nên thỉnh người viết chữ đẹp viết theo lối chữ Khải. Nếu dùng lối nửa chữ Hành, nửa chữ Thảo, chen thêm kiểu chữ Lệ, chữ Triện v.v… thì chỉ có thể làm vật gây sướng mắt cho người đọc, chứ không thể dùng làm căn cứ để lợi người! Vì thế, muốn cho hết thảy mọi người hễ xem đến đều cùng hiểu rõ ngay, chắc chắn chớ nên dùng những kiểu chữ Hành, Thảo, Triện, Lệ! Hơn nữa, mỗi chữ đều viết theo lối Chánh Thể, phàm những lối Tục Thể, Thiếp Thể, Phá Thể đều thuộc loại khinh nhờn, thiếu trang trọng, cũng chớ nên dùng.

Lại có những người viết chữ thuê thường viết thừa nét hoặc viết thiếu nét các chữ, nhưng đều chẳng chịu sửa đổi, chỉ ghi chú ở cuối bài, [những lối viết ấy] cũng đều chẳng đáng để noi theo! Hễ sửa cho đúng thì văn lẫn nghĩa đều rõ ràng. Bọn họ chỉ mong cho đẹp mắt, không màng tới văn nghĩa, đấy chính là thói xấu của bậc đại thông gia. Nếu chữ nhiều thì dùng một chấm to chấm trên mỗi chữ, hoặc dùng một hình tam giác (△) để đánh dấu bên cạnh. Nếu sót chữ thì viết chèn vào chỗ giao nhau giữa chữ trên và chữ dưới để vừa nhìn liền biết ngay. Hơn nữa, hãy nên chấm câu để ai nấy đều đọc thành câu [trọn vẹn]. Nếu chẳng chấm câu, lại gặp phải người chưa hề nghe đến Phật pháp sẽ thật khó thể lãnh hội được ý nghĩa lời văn. Đối với những nghĩa được nói và người được nói trong bài văn ấy, hãy xem nhiều trước thuật Tịnh Độ sẽ tự biết. Do tinh thần không đủ nên chẳng thể sao chép cặn kẽ cho ông được. Bốn vị đại sư Thiện Đạo, Pháp Chiếu, Phi Tích, Huệ Nhật đều là bậc hoằng dương Tịnh Độ ở đất Tần204 vào đời Đường. Muốn biết tường tận hãy nên tra trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục sẽ tự biết (Mồng Năm tháng Năm)


142. Thư trả lời cư sĩ Ninh Đức Tấn (thư thứ năm)
Mồng Ba tháng này nhận được thư ông, biết ông vẫn chưa nhận được bài tựa cho Đôn Luân Liên Xã được gởi bằng thư bảo đảm ngày mồng Năm tháng Năm, vì thế không trả lời ngay, chờ nhận được tin hồi báo rồi sẽ trả lời. Nay đã mồng Chín mà vẫn chưa nhận được tin, sợ bị thất lạc rồi, hoặc đã quên ghi. May là lần này vẫn còn giữ bản nháp. Nếu chưa nhận được, xin hãy nói rõ cho biết, sẽ sao lại gởi đi. Người em trai thứ tư của ông tuổi còn thơ bé đã muốn xin quy y, tánh tình minh mẫn, nếu chẳng giữ nết khiêm tốn thì chẳng những không được ích mà ngược lại còn bị hại. Những kẻ thông minh xưa nay phần nhiều đều mắc họa vì thông minh là do cậy mình thông minh rồi khinh người miệt thánh, hoặc báng Phật hủy pháp, hoặc lầm lạc nẩy sanh ý kiến ức đoán, cầu mong danh lợi trong đời này và hư danh sau khi đã chết. Chẳng biết đã thiếu đức khiêm cung thì thiên địa quỷ thần đều ghét, huống chi con người? Vì thế, thường đều trở thành phường cuồng vọng, hoặc trở thành lũ gian ác. Nếu giữ lòng khiêm cung thì càng thông minh càng có lợi ích thật sự, ắt sẽ có thể nghèo cùng thì riêng mình thiện, hễ hiển đạt thì làm cho người khác được cùng thiện. Huống hồ có thể nương theo pháp môn Tịnh Độ trong Phật pháp để tự lợi, lợi tha ư?

Con ông sẽ có pháp danh là Tông Tâm. Cháu ông sẽ có pháp danh là Tông Huệ. Do có thể chú trọng cái gốc nơi tâm, nơi huệ thì ruộng ấy sẽ thâu hoạch được. Nhỏ là hiền nhân, thiện nhân trong thế gian; lớn là thánh nhân xuất thế gian, do chính mình có siêng năng cày cấy hay không và cày cấy có đúng cách, có được hạt giống tốt nhất hay không? Thầy Minh Đạo là đệ tử của người bạn Quang là sư Chân Đạt, trước đây cũng quy y với Quang. Nhưng Quang thề chẳng thâu nhận đồ đệ, nên theo xuất gia với người bạn. Hoàng Hàm Chi bận bịu gần chết, đừng gởi thư cho cho ông ta! Lời đề bạt cho Tam Dư Đường205, trong nhất thời trọn chẳng có lúc rảnh rỗi. Phàm diễn thuyết đều có chuyện lập pháp tòa, nhưng người nói đứng, kẻ nghe ngồi, chẳng những không hợp nghi thức mà còn kẻ mệt nhoài, người nhàn nhã quá mức, quyết chẳng thể theo cách ấy được. Hãy nên ai nấy cùng ngồi để nói, để nghe. Nhiễu Phật nhưng không thể nhiễu quanh Phật, chỉ [có thể] nhiễu quanh trước Phật thì cũng giống như nhiễu quanh đức Phật. Niệm ra tiếng hay niệm thầm đôi đằng đều có ích; nhưng niệm rõ tiếng chẳng thể niệm lâu được, hãy nên phần nhiều chủ yếu là niệm thầm thì chẳng đến nỗi bị tổn thương thành bệnh.

Chữ Nam-mô cả cõi đời đều đọc là Nạp Mồ (Namó), sao ông lại chiếu theo âm gốc [của mặt chữ] để đọc206. Công đức niệm Phật vô lượng vô biên, chẳng thua công đức niệm kinh. Giảm thọ để cầu phước thọ khỏe mạnh, bình yên, sao bằng khuyên người ta niệm Phật ăn chay, cầu sanh Tây Phương chẳng tốt hơn hay sao? Toa thuốc trị bệnh sởi đã gởi trước kia, tôi đã bảo một danh y xem xét, ông ta nói toa thuốc ấy tuy hay nhưng cần phải xét coi bệnh tình như thế nào; nếu nhất loạt sử dụng cũng có khi bất lợi. Vì thế chẳng cho in vào cuối sách Đạt Sanh Biên nữa. Hiện nay, hơi khó hiện được thân tể quan207; nếu có thể kiếm sống, sẽ không coi làm quan là cao cả nhất. Lời ông nói tựa hồ có lý, nhưng thật ra tệ vô cùng. Cần phải phân biệt thân - sơ, gần - xa, rồi mới đối xử bình đẳng với hết thảy thì rất tốt. Nếu từ trước đến nay chẳng phân biệt thì không đủ sức để lo liệu thấu đáo, ắt sẽ coi thân giống như sơ, sẽ trở thành người chẳng bằng cầm thú. Từ nay trở đi, ông ăn nói phải châm chước cẩn thận. Nếu không, sẽ mang tội khiến cho người khác bị lầm lạc, họa ấy chẳng nhỏ đâu, há nên nói rối tung đạo lý hay sao? Những kẻ phế bỏ luân thường hiện thời nói cha và con gái, mẹ và con trai đều có thể tự do luyến ái, cũng là ăn nói đảo loạn đạo lý, do thói tệ tự cho mình là đúng mà ra! Cõi đời rối loạn là vì chẳng biết nhân quả, báo ứng, sanh tử, luân hồi; nếu như thật sự biết, đâu dám mặc tình làm càn để đời đời kiếp kiếp mang họa?

Bài văn của Lưu Bá Ôn208 chính là bài văn hết sức phàm tục, thiển cận; tuy nói có vẻ có lý, nhưng Huyết Bồn Kinh do tăng sĩ thô tục ngụy tạo để dụ dỗ kẻ ngu tục. Ông ta quả quyết đấy là kinh Phật, quả thật đã bộc lộ sự hiểu biết thiếu rộng rãi. Những điều khác đều là cưỡng nói đạo lý, so với bọn Tống Nho đả phá bài xích nhân quả luân hồi [thì đều cùng có tác dụng] khiến cho những gã Nho sĩ chẳng cao minh mà muốn [làm ra vẻ] cao minh cùng bị hãm trong hầm sâu tà kiến nhưng vẫn chẳng biết. Nay có sách Chánh Tín Lục có thể chuyên trị căn bệnh của Tống Nho. Chất độc Tống Nho đã tiêu thì [bài văn ấy của] Lưu Bá Ôn có còn giá trị để nhắc tới nữa hay không? Sách ấy đã được sắp chữ xong xuôi, cuối tháng Bảy hoặc sau Trung Thu sẽ gởi [cho ông] vài gói. Sách này được in bằng loại giấy in báo dày bốn mươi mấy trang, phỏng định [giá tiền] chừng khoảng năm xu [một cuốn]. In trước một vạn bản. Nếu muốn tiêu chất độc Tống Nho, chỉ có sách này là hợp thời cơ nhất!

Tâm niệm của ông cao đến độ những gì thánh nhân đã lập ông cũng không vừa ý, thấp thì cứ muốn hiện thân cứu người trong cõi đời cực loạn này! Ấy đều là do chẳng lượng sức mình, cho nên mới có những thứ tri kiến, mong mỏi ấy! Thầy Minh Đạo bữa sau đi Thượng Hải, tôi bảo đem gởi Linh Phong Tông Luận209 cho ông. Tô Châu Kinh Phòng không có [sách ấy]. Ông xin khởi sự đặt ra [thể lệ chọn] pháp danh, kể ra mấy chục chữ húy, để sau này nếu có ai xin [quy y] thì phải dựa theo đó đặt pháp danh [để khỏi phạm húy]. Quang cũng không có lòng dạ đâu mà nhớ những chuyện ấy của ông! Ông lại còn [đề nghị] những pháp danh đã đặt cũng đều phải kê khai hết để khỏi đến nỗi đặt tên trùng lập. Quang đã không có môn đình, nên chẳng nghĩ đến thường trụ. Tất cả những người quy y, ngoại trừ những ai thường gởi thư đến hoặc có chuyện dính líu tới, đều nhất loạt chẳng ghi sổ.

Ông [viết thư nói] dùng một trăm đồng để in một ngàn bộ Đạt Sanh Biên, lại dùng mười đồng biếu Quang xài vặt, lại đem mười đồng để Hoằng Hóa Xã [ấn tống những văn bản] phát nguyện giữ giới. Số tiền còn dư lại đều dùng hết để in Gia Ngôn Lục, [số sách được in ra ấy sẽ được] giữ tại Hoằng Hóa Xã để tặng cho người khác, hoặc căn cứ theo số lượng để gởi sang huyện Hộ210. Sao ông chẳng biết tính toán như thế? Đủ biết rằng ông cũng mắc bệnh nói lời chẳng thật! Tôi không trách ông nói lời ấy chẳng thật, nhưng quả thật sợ ông trong hết thảy cách cư xử đều phạm phải cái bệnh hư trương thanh thế này. Món tiền một trăm đồng ấy, trừ đi khoản tiền dùng để in một ngàn cuốn Đạt Sanh Biên và chi phí gởi đi, lại trừ ra hai chục đồng thì số còn dư cũng chẳng được mấy mà vẫn dùng kiểu ăn nói lớn lối đó ư? Tôi biếu sách cho người ta cũng chẳng dám ăn nói lớn lối với người ta, chỉ sợ người ta nói tôi mang tâm kiêu căng. Nếu người khác phạm phải bệnh này, tôi cũng không nói. Do ông có lẽ cũng muốn là người tận tụy thực hành, do chuyện này chắc bạch khuê211 có vết, nên chẳng thể không nói. Pháp danh hay bút danh có gì mà không viết được? Trang đầu tiên viết: “Đặt pháp danh cho hai đứa em trai khiến chúng cùng nhờ ơn Phật được thấm đẫm pháp nhuận. Ân đức tột cùng, dẫu trời che đất chở cũng khó thể sánh ví được muôn một”, sao mà chuộng những câu chữ rỗng tuếch đến thế? Cái thói ấy chắc chỉ có thể sử dụng được trước mặt hoàng đế vào thời đại chuyên chế mà thôi! Sử dụng vào những chỗ khác sẽ chẳng thành lời lẽ gì đâu! (Viết dưới đèn ngày mồng Chín tháng Sáu).


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương