Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 33 (2014): 1-14
3
nhau hiểu bởi những người tham gia trong sự kiện
đó và xuất hiện trong một bối cảnh chức năng thay
vì bối cảnh xã hội hay cá nhân” (tr. 10, chúng tôi
dịch). Cũng theo Swales (1981), việc khái niệm
hóa thể loại từ cách tiếp cận này sẽ thuận lợi cho
việc thiết lập các tuyên bố khái quát có thể ứng
dụng được trong giảng dạy nhờ vào việc giới hạn
phạm vi mục đích giao tiếp, xem xét tính chất qui
ước, và mối quan hệ giữa chức năng và hình thức
ngôn ngữ sử dụng của một loại văn bản.
Swales (1990) đã phát triển khái niệm thể loại
ông giới thiệu năm 1981 sau khi xem xét tổng quan
khái niệm này được sử dụng trong các nghiên cứu
văn hóa dân gian (folklore), văn chương, ngôn ngữ
học, và tu từ học (rhetoric) trong tiếng Anh. Ông
nhận xét rằng thể loại là khái niệm rất hấp dẫn,
nhưng mang tính không rõ ràng (fuzzy). Tuy nhiên,
trên cơ sở tổng quan này, Swales đã phát hiện được
những đặc điểm chung quan trọng sau đây của các
nghiên cứu về khái niệm thể loại trong bốn lĩnh
vực ông tìm hiểu:
(i) Không tin vào việc phân loại và áp đặt vội
vàng hay dễ dãi.
(ii) Cảm nhận tầm quan trọng của thể loại trong
việc tích hợp quá khứ với hiện tại.
(iii) Thừa nhận rằng thể loại nằm trong cộng
đồng diễn ngôn. Trong các cộng đồng diễn ngôn,
niềm tin và tập quán đặt tên thể loại mang tính có
liên quan.
(iv) Nhấn mạnh mục đích giao tiếp và hành
động xã hội.
(v) Hứng thú với cấu trúc thể loại (và lý do tồn
tại của thể loại).
(vi) Hiểu khả năng sản sinh kép của thể loại:
thiết lập các mục đích tu từ và phát triển thành tựu
của các mục đích này.
Những đặc điểm chung quan trọng của khái
niệm thể loại ở trên đã giúp Swales (1990) phát
triển định nghĩa tạm thời nhưng được coi là đầy đủ
về thể loại cho các nghiên cứu trong lĩnh vực
Tiếng
Anh cho mục đích chuyên biệt (Hancioglu
và ctv,
2008):
Một thể loại bao gồm một lớp các sự kiện giao
tiếp mà những thành viên của lớp sự kiện giao tiếp
này có chung một số mục đích giao tiếp. Những
mục đích này được nhận ra bởi các thành viên là
chuyên gia của cộng đồng diễn ngôn chứa thể loại
và như thế tạo ra lý do cho sự tồn tại của thể loại
ấy. Lý do này tạo khuôn hình cho cấu trúc của diễn
ngôn, ảnh hưởng và giới hạn sự lựa chọn nội dung
và phong cách. Mục đích giao tiếp vừa là tiêu chí
ưu tiên, vừa hoạt động để giữ cho phạm vi của thể
loại được xem là chỉ tập trung vào hành động tu từ
có thể so sánh được. Ngoài mục đích, những ví dụ
của một thể loại cho thấy nhiều mức độ giống nhau
về cấu trúc, phong cách, nội dung, và đối tượng
độc giả mà thể loại hướng đến. Nếu tất cả những
kỳ vọng xác suất cao đều được đáp ứng thì ví dụ đó
được xem là mang tính điển hình bởi cộng đồng
diễn ngôn chứa thể loại. Tên của thể loại được
thừa hưởng, tạo ra bởi cộng đồng diễn ngôn, và
được những cộng đồng diễn ngôn khác tiếp thu.
Tên của thể loại góp phần xây dựng sự giao tiếp
mô tả nhân chủng có giá trị, nhưng thông thường
cần phải được xác định giá trị thêm.
(Swales, 1990, tr. 58, chúng tôi dịch)
Định nghĩa về thể loại ở trên của Swales (1990)
đã có ảnh hưởng cực kỳ lớn cho các nghiên cứu
trên cơ sở thể loại trong lĩnh vực nghiên cứu ESP -
Tiếng Anh cho mục đích chuyên biệt từ thời gian đó
đến nay (Paltridge, 2013). Qua định nghĩa này,
Swales (1990) đã tạo bước phát triển mới cho lĩnh
vực phân tích diễn ngôn trước đó bằng cách chuyển
trọng tâm khái niệm thể loại từ việc xem xét các
đặc điểm ngôn ngữ của văn bản dùng cho mục đích
phân loại sang khái niệm thể loại như một lớp các
sự kiện giao tiếp có mục đích giao tiếp chung và
được thừa nhận bởi các thành viên của cộng đồng
diễn ngôn, đặc biệt là các thành viên chuyên gia.
Nói cách khác, với định nghĩa này, Swales (1990)
đã mở rộng phạm vi phân tích diễn ngôn theo cách
tiếp cận văn bản truyền thống trước đó với việc
bước đầu xem xét bối cảnh tu từ xã hội của văn bản
bằng việc đặt khái niệm thể loại trong mối quan hệ
với khái niệm cộng đồng diễn ngôn và mục đích
giao tiếp khi xem xét khái niệm thể loại trong lý
thuyết của mình.
Swales (1990) cho rằng các sự kiện giao tiếp
được xem là thể loại bao gồm không chỉ văn bản,
mà còn là các qui trình mã hóa và giải mã hóa được
điều chỉnh bởi các khía cạnh của vai trò văn bản và
môi trường văn bản. Bhatia (2004) diễn giải quan
điểm trên của Swales (1990) rõ ràng hơn, giải thích
rằng Swales (1981, 1990) và những người nghiên
cứu thể loại theo truyền thống ESP -
Tiếng Anh cho
mục đích chuyên biệt khác (ví dụ, Bhatia, 1993;
Kanoksilapatham, 2005; Samraj, 2002) diễn giải
cấu trúc diễn ngôn trong các văn bản không phải
đơn giản xét theo khuôn mẫu lược đồ (schematic
patterns) mang tính cá nhân tác giả, mà xem xét
cấu trúc diễn ngôn văn bản theo các hành động tu
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 33 (2014): 1-14
4
từ (moves) mà phần lớn các tác giả của một cộng
đồng diễn ngôn sử dụng để xây dựng và diễn giải
các diễn ngôn chuyên biệt. Do vậy, có thể nói rằng
các khuôn mẫu tổ chức văn bản thường xuyên
được sử dụng trong cộng đồng diễn ngôn mang
tính nhận thức xã hội (Bhatia, 2004).
Đồng thời, định nghĩa này của Swales (1990)
cũng bổ khuyết một hạn chế lớn trong các nghiên
cứu diễn ngôn trước đó: tuy các nhà nghiên cứu
xác định và thống kê được tần suất xuất hiện của
một hay một số đặc điểm ngôn ngữ (ngữ pháp
hoặc/và từ vựng) trong một hay một tập hợp các
văn bản nhưng các tác giả nghiên cứu không đưa ra
lời giải thích tại sao các tác giả văn bản sử dụng
nhiều hoặc ít các đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản
của mình (ví dụ: Barber, 1962; Huddleston, 1971,
dẫn
theo Swales, 1990). Định nghĩa của Swales
(1990) giúp giải thích được lý do tồn tại của thể
loại là dựa vào mục đích giao tiếp của thể loại như
được thừa nhận bởi cộng đồng diễn ngôn. Đến lượt
nó, lý do tồn tại của thể loại qui định cấu trúc tu từ
của thể loại, nội dung trình bày và việc sử dụng các
đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản. Cách tiếp cận
thể loại của Swales (1990) còn có nhiều ưu điểm
quan trọng khác như tính điển dạng, theo đó các
văn bản thuộc về một thể loại có thể có các mức độ
tương ứng khác nhau so với một văn bản điển hình
cho thể loại đó (Paltridge, 2001). Bên cạnh đó, do
tên gọi của thể loại dựa vào cách gọi tên của những
người trong cộng đồng diễn ngôn chứ không phải
do người bên ngoài cộng đồng diễn ngôn đặt cho,
nên tên gọi của thể loại mang tính giá trị chính
xác cao.
Trong lĩnh vực nghiên cứu ESP -
Tiếng Anh
cho mục đích chuyên biệt, có thể thấy khái niệm
thể loại, qua sự giới thiệu, sử dụng và phát triển
của Swales (1981, 1990), đã trở thành khái niệm
nghiên cứu then chốt, đóng góp to lớn cho sự bùng
nổ nghiên cứu cho lĩnh vực, đặc biệt từ những năm
1990 đến nay (xem Bax 2011; Bawarshi & Reiff
2010; Bhatia, 2004; Bruce 2009, Freedman và
Medway 1994; Hyland 2009; Hyon 1996; Johns
và
ctv. 2006; Paltridge 2001; Swales 1990, 2004).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: