Mục tiêu nghiên cứu



tải về 0.85 Mb.
trang7/13
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích0.85 Mb.
#16949
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   13

So sánh với các tác giả nước ngoài, trọng lượng của trẻ sơ sinh ở các đường bách phân vị trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn hẳn so với nghiên cứu của tác giả Alex làm tại Mỹ năm 1996. Chênh lệch cao nhất ở lớp tuổi thai 33-34 tuần, lên tới hơn 500g. Tuy nhiên đến gần đủ tháng và đủ tháng thì mức chênh lệch này giảm đi. Trong tất cả các nghiên cứu các tác giả đều nhận thấy chủng tộc da trắng có trọng lượng trung bình của trẻ sơ sinh cao hơn hẳn so với các chủng tộc da vàng ở tất cả các lớp tuổi thai.

So với các nghiên cứu của Hàn Quốc (2008) và Hongkong (2009), trọng lượng của trẻ sơ sinh ở tất cả các đường bách phân vị trong nghiên cứu của chúng tôi cũng thấp hơn ở tất cả các lớp tuổi thai, mặc dù sự chênh lệch không nhiều bằng khi so sánh với trẻ Âu Mỹ. Điều đó cho thấy trọng lượng tương ứng với các đường bách phân vị của trẻ sơ sinh Việt Nam thấp hơn so với một số chủng tộc khác ở Châu Á.

Qua nghiên cứu này đã chứng minh rõ về tính đặc trưng dân tộc của biểu đồ bách phân vị về cân nặng và các biểu đồ nhân trắc khác của trẻ sơ sinh. Do vậy cần thiết phải có một biểu đồ tăng trưởng thai của riêng người Việt Nam chứ không thể áp dụng biểu đồ của nước khác để đánh giá thai CPTTTC và hình thái trẻ sơ sinh sau sinh liên quan đến dinh dưỡng và các bệnh lý. Ngay cả khi áp dụng biểu đồ của các nước châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc cũng không phù hợp. Thực vậy, nếu áp dụng biểu đồ của các nước có trọng lượng trung bình của trẻ sơ sinh cao hơn, chúng ta sẽ chẩn đoán những trẻ có cân nặng bình thường là trẻ CPTTTC hoặc bỏ sót những trẻ thai to nhưng lại cho là bình thường.

4.3.2. Bàn luận về biểu đồ bách phân vị chiều dài của trẻ sơ sinh theo tuổi thai

Chiều dài của trẻ được đo trong vòng 1 ngày sau khi sinh. Giống như cân nặng, chiều dài trẻ sơ sinh khác nhau giữa các chủng tộc. Các nghiên cứu đều nhận thấy chiều dài trẻ sơ sinh của các chủng tộc Âu Mỹ đều lớn hơn so với các chủng tộc châu Á khoảng 1cm ở các lớp tuổi thai.

Khi so sánh chiều dài của trẻ sơ sinh trai ở đường bách phân vị 50 với một số tác giả nước ngoài, chúng tôi nhận thấy chiều dài của trẻ sơ sinh trai trong nghiên cứu của chúng tôi lúc 28 tuần tương đương với các tác giả khác. Sau đó vì chiều dài của trẻ trong nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn (Ví dụ từ 28 đến 29 tuần, tốc độ tăng trưởng của trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,4cm, của Israel là 3,3cm, của HongKong là 2,5cm và của Mỹ là 1,5cm) nên ở các lớp tuổi thai từ 30-37 tuần chiều dài của trẻ trong các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, kể cả các tác giả châu Á đều cao hơn của chúng tôi khoảng từ 1-1,5cm. Tuy nhiên đến đủ tháng tốc độ tăng trưởng chậm lại nên sự chênh lệch về chiều dài của trẻ Việt nam so với các tác giả nước ngoài không cao lắm.

4.3.3. Bàn luận về biểu đồ bách phân vị vòng đầu của trẻ sơ sinh theo tuổi thai

Số đo vòng đầu lúc mới đẻ là một trong những thông số cơ bản để đánh giá tình trạng của trẻ trong lâm sàng. Biểu đồ bách phân vị về vòng đầu của trẻ sơ sinh có tầm quan trọng không kém so với biểu đồ cân nặng. Nó cho phép đánh giá vòng đầu của trẻ có bình thường hay không. Một vòng đầu to quá hoặc nhỏ quá có thể nghĩ đến các bệnh lý như não úng thủy hoặc tật não nhỏ. Vòng đầu so với cân nặng có thể cho phép đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Ví dụ nếu cân nặng nhỏ hơn so với tuổi thai mà vòng đầu bình thường thì có thể nghĩ đến thai CPTTTC do các yếu tố dinh dưỡng do suy giảm tuần hoàn tử cung rau trong những tháng cuối.

So với vòng đầu trẻ sơ sinh Mỹ, vòng đầu của trẻ sơ sinh Việt Nam thấp hơn khoảng 0,5 cm/tuần ở các lớp tuổi thai non tháng. Đến đủ tháng thì sự chênh lệch không đáng kể. So với một số nghiên cứu khác ở châu Á thì vòng đầu của trẻ sơ sinh trong nghiên cứu này tương đương ở các lớp tuổi thai. Cũng tương tự như các số đo nhân trắc khác, vòng đầu của trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng theo giới và chủng tộc. Trong đó vòng đầu của trẻ sơ sinh Âu Mỹ cao hơn so với trẻ Châu Á, vòng đầu của trẻ sơ sinh trai cao hơn của trẻ sơ sinh gái. Tuy nhiên vòng đầu không nhất thiết phản ánh dung tích hộp sọ và không ảnh hưởng đến trí thông minh giữa các chủng tộc.

4.3.4. Chỉ số cân nặng chiều dài (Ponderal index) của trẻ sơ sinh tương ứng với tuổi thai

Chỉ số cân nặng/chiều dài (ponderal index) cho phép phân biệt giữa trẻ CPTTTC thể cân đối và không cân đối.

Chỉ số cân nặng-chiều dài được tính bằng cân nặng của trẻ nhân 100 chia cho chiều dài lập phương (PI = gr x100/cm3). Chỉ số này cho thấy trẻ nặng như thế nào so với chiều dài và tuổi thai của nó. Nếu chỉ số này cao chứng tỏ trẻ nặng so với chiều dài và nếu chỉ số này thấp chứng tỏ trẻ nhẹ hơn so với chiều dài của nó. Nếu trẻ CPTTTC thể không cân đối, chỉ số cân nặng-chiều dài sẽ thấp.

Trong bảng 3.5, chỉ số cân nặng chiều dài thấp ở thai non tháng. Tuổi thai càng lớn chỉ số này càng tăng. Lúc thai 28 tuần chỉ số này là 2,02. Đến 39 tuần chỉ số này là 2,58. Từ 39 tuần chỉ số cân nặng chiều dài tăng rất ít. Kết quả này cho thấy khi thai càng lớn thì càng nặng so với chiều dài của nó. Đến đủ tháng thì tỉ lệ này tăng không đáng kể.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tuân theo quy luật như của một số tác giả khác. Lubchenco (1966) cũng thấy cân nặng tăng mạnh so với chiều dài khi thai được 30-31 tuần kinh, sau đó tăng từ từ ở độ tuổi 34-38 tuần. Sau 38 tuần, có sự hằng định tương đối giữa chiều dài và cân nặng.

4.4. Kiểm định giá trị ứng dụng lâm sàng của các biểu đồ bách phân vị

4.4.1. Xác định đường bách phân vị tương ứng với ngưỡng cân nặng và chỉ số cân nặng-chiều dài để chẩn đoán trẻ sơ sinh CPTTTC.

Từ lâu các nhà nghiên cứu đã nhận thấy thai CPTTTC là một yếu tố quan trọng liên quan đến tình trạng bệnh lý của trẻ sơ sinh sau sinh. So với những trẻ phát triển bình thường ở cùng độ tuổi thai tương ứng, trẻ CPTTTC có tỉ lệ tử vong và bệnh lý cao hơn . Biểu đồ tăng trưởng của trẻ sơ sinh theo tuổi thai được ứng dụng để xác định những trẻ CPTTTC cho cả hai mục đích lâm sàng và nghiên cứu. Thông thường các nhà lâm sàng chọn đường bách phân vị 10 làm ngưỡng cân nặng để chẩn đoán trẻ nhẹ cân so với tuổi thai (small-for-gestational age), tuy nhiên trẻ nhẹ cân so với tuổi thai chưa hẳn là trẻ CPTTTC mà chỉ đơn thuần đó là những trẻ nhỏ bé nhưng hoàn toàn khỏe mạnh do yếu tố thể tạng (do gen hoặc di truyền). Vì vậy cần tìm ra ngưỡng cân nặng mà ở đó trẻ tăng tỉ lệ bệnh tật và tử vong để cảnh báo cho các nhà sản khoa và nhi khoa quan tâm can thiệp và chăm sóc.



tải về 0.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương