MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN


Bảng 1.13: Kết quả mô hình DEA đánh giá hiệu quả sản xuất của ngân hàng trước và sau tái cấu trúc



tải về 2.4 Mb.
trang20/27
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích2.4 Mb.
#15399
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   27

Bảng 1.13: Kết quả mô hình DEA đánh giá hiệu quả sản xuất của ngân hàng trước và sau tái cấu trúc

STT

Ngân hàng

Hiệu quả sản xuất 2011

Hiệu quả sản xuất 2013

1

HDBank

0.61362

1.00000

2

Lienvietpostbank

0.62392

0.75447

3

Navibank

1.00000

0.46902

4

PVcombank

1.00000

n/a

5

SHB Bank

0.57565

1.00000

6

TPBank

0.18166

0.65768

7

Vietinbank

0.68691

0.84887

Với đầu vào là chi phí thanh toán cho nhân viên và nhà cung cấp, đầu ra là cho vay khách hàng và tiền gửi của khách hàng, những thay đổi về hiệu quả sản xuất của bảy ngân hàng trước và sau tái cấu trúc có một số điểm khác biệt so với sự thay đổi của hiệu quả về lợi nhuận.

Ngân hàng duy nhất bị suy giảm về hiệu quả sản xuất là Navibank. Đối với Navibank, hiệu quả sản xuất của Navibank thay đổi theo chiều hướng tiêu cực trong giai đoạn 2011- 2013 do quá trình tự tái cấu trúc chưa đạt được thành công rõ rệt.

Về PVcombank, sau khi hợp nhất PVFC và Westernbank vào tháng 9/2013 và đổi tên thành PVcombank, PVcombank chưa công bố báo cáo tài chính vào cuối năm 2013 để đưa ra được những nhận định ban đầu.

Cuối cùng, cả năm ngân hàng còn lại là HDBank, LienVietpostbank, SHB, Tienphongbank và Vietinbank đều có các chỉ số hiệu quả sản xuất tăng theo thời gian. Đối với HDBank, do sáp nhập DaiABank vào cuối năm 2013 nên hiệu quả sản xuất của HDBank chưa thể hiện sự suy giảm. Ngoài ra, trong khi LienVietpostbank và SHB chứng tỏ những thành công hậu mua bán sáp nhập thì Tienphongbank lại thể hiện ngân hàng này đang đi đúng hướng trong quá trình tự tái cơ cấu giai đoạn vừa qua. Vietinbank sau khi bán 20% cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài chiến lược là Bank of Tokyo đã có những sự chuyển biến đáng kể về hiệu quả sản xuất.

Tóm lại, kết quả đánh giá 7 ngân hàng đã thực hiện mua bán, sáp nhập và tái cấu trúc trong giai đoạn vừa qua cho thấy các ngân hàng có sự chuyển biến về hiệu quả lợi nhuận và hiệu quả sản xuất rất khác nhau. Vì vậy, việc lựa chọn phương án tái cấu trúc phù hợp và thực hiện tái cấu trúc một cách triệt để là điều rất quan trọng. Mỗi ngân hàng có đặc điểm, điều kiện và nguồn lực khác nhau, khiến quá trình tái cấu trúc đòi hỏi sự linh hoạt nhất định của nhà quản lý. Trong giai đoạn 2014 – 2015, các ngân hàng cần đẩy mạnh tiến độ tái cấu trúc của mình để đạt được các mục tiêu đã đề ra và góp phần làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam.

1.4. Những hạn chế của quá trình tái cơ cấu và các nguyên nhân chủ yếu

Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam theo Đề án 254 đã đi được 2/3 chặng đường. Bên cạnh các thành công đã chỉ ra tại phần trên, đối chiếu với các mục tiêu đề ra của Đề án, quá trình tái cơ cấu giai đoạn 2011-6/2014 vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, cụ thể như sau:



Một là, quá trình cơ cấu lại tài chính của các ngân hàng bị chậm trễ và không đạt mục tiêu đề ra.

Một nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2014 của Đề án 254 là hoàn thành căn bản cơ cấu lại tài chính của các tổ chức tín dụng hướng đến mục tiêu tăng cường năng lực và lành mạnh tài chính. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn 2011-2013 là giải quyết nợ xấu của các TCTD. Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu của các NHTM hiện nay đang rơi vào tình trạng bế tắc vì VAMC không thể bán hoặc xử lý được nợ xấu đã mua. Thời gian qua, ngành ngân hàng mới chỉ giải quyết được việc “dọn dẹp” phần lớn nợ xấu về một đầu mối VAMC với vai trò như một “kho” lưu giữ nợ xấu của các TCTD. Theo báo cáo của VAMC, tính đến hết tháng 8/2014, công ty đã mua được 59.511 tỷ đồng nợ gốc từ 35 tổ chức tín dụng. Tuy vậy, cho đến nay VAMC chưa bán được một khoản nợ xấu nào. Với cơ chế như hiện nay, sau khi mua lại nợ xấu từ các TCTD, VAMC thực hiện ủy quyền thu hồi nợ xấu cho các TCTD. Như vậy, có thể khẳng định việc cơ cấu tài chính của các TCTD thông qua xử lý thu hồi nợ xấu vẫn đang trong tình trạng bế tắc trong khi áp lực gia tăng nợ xấu đối với các TCTD ngày càng lớn. Theo số liệu NHNN vừa cập nhật, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống sau khi giảm xuống mức 3,5% vào tháng 12 năm 2013 đã bắt đầu tăng trở lại trong 6 tháng đầu năm 2014, đạt mức 4,84% vào cuối tháng 6/2014.



Hai là, xử lý sở hữu chéo trong các TCTD còn lúng túng và không đạt hiệu quả.

Hiện nay, xử lý sở hữu chéo đang là một trong hai vấn đề nổi cộm và nan giải nhất của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bên cạnh việc xử lý nợ xấu. Hệ thống các TCTD Việt Nam hiện đang tồn tại 6 nhóm sở hữu chéo khác nhau: Nhóm 1 là sở hữu của các ngân hàng trong nước và nước ngoài tại các ngân hàng liên doanh; Nhóm 2 là cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM trong nước; Nhóm 3 là cổ đông tại các ngân hàng là các công ty quản lý quỹ; Nhóm 4 là sở hữu của các NHTMNN tại các NHTMCP; Nhóm 5 là sở hữu lẫn nhau giữa các NHTMCP; Nhóm 6 là sở hữu ngân hàng cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân.

Cho tới nay, sở hữu chéo đã có xu hướng diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nhận thức được tác động tiêu cực của sở hữu chéo đối với an toàn hoạt động của từng TCTD nói riêng, an toàn của hệ thống TCTD nói chung, và đặc biệt là những cản trở của sở hữu chéo đối với quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD, NHNN Việt Nam đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm xử lý sở hữu chéo, gắn với quá trình cơ cấu lại hệ thống các TCTD. Nhìn về mặt tổng thể của quá trình xử lý sở hữu chéo được triển khai từ năm 2011 cho tới nay, các biện pháp được NHNN Việt Nam triển khai theo một hệ thống gồm ba nhóm đan xen, hỗ trợ lẫn nhau: Nhóm 1: Đánh giá tình trạng sở hữu chéo tại hệ thống TCTD; Nhóm 2: Xây dựng khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách và triển khai các biện pháp giám sát, ngăn ngừa sở hữu chéo gia tăng; Nhóm 3: Triển khai các biện pháp xử lý toàn diện và dứt điểm tình trạng sở hữu chéo. Trong số 45 giải pháp thực hiện tái cơ cấu trong Đề án 254, có đến 24 giải pháp có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến xử lý sở hữu chéo trong hệ thống các TCTD.

Một trong những giải pháp cơ bản và hiệu quả nhất được NHNN kỳ vọng để xử lý triệt để sở hữu chéo là yêu cầu các TCTD trong liên minh tiến hành sáp nhập hoặc hợp nhất. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2013 mới chỉ có 2 trường hợp sáp nhập và hợp nhất do quan hệ sở hữu chéo đó là trường hợp NHTMCP Sài Gòn được hợp nhất từ 03 ngân hàng gồm NHTMCP Sài Gòn, NHTMCP Đệ Nhất, NHTMCP Việt Nam Tín Nghĩa và trường hợp thứ hai là giữa Sacombank và Eximbank.

Giải pháp được kỳ vọng thứ hai để xử lý sở hữu chéo được đề cập trong Đề án 254 là yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thoái vốn trong các TCTD với mục tiêu hoàn thành trước 31/12/2015. Nghị định 15/NĐ-CP ngày 6/3/2014 về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp quy định 4 cách thức thoái vốn Nhà nước tại các NHTM72 song thực tế triển khai cả 4 cách thức này đều đang gặp nhiều khó khăn làm cho thời hạn hoàn thành thoái vốn Nhà nước tại các TCTD trước ngày 31/12/2015 có thể không đạt mục tiêu đề ra. Việc giải quyết sở hữu chéo trong các TCTD chậm trễ là một trong những cản trở lớn nhất đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiện nay. Một số ý kiến cho rằng, giải pháp dựa vào thị trường để tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém làm tăng tính nghiêm trọng và phức tạp của tình trạng sở hữu chéo. Theo nguyên tắc “tuyệt đối không dùng tiền của nhà nước để tái cấu trúc mà cần tiền thực của khu vực tư nhân”, nhưng nếu tiền thực của khu vưc tư nhân không có, mà vẫn phải thực hiện mua bán, hợp nhất hay sáp nhập trên hình thức thì tiền ảo của khu vực tư nhân phải được sử dụng. Điều đó có nghĩa là tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém sẽ làm gia tăng tính nghiêm trọng và phức tạp của tình trạng sở hữu chéo hiện nay hay nói cách khác chúng ta đối mặt với thực tế đang dùng sở hữu chéo để tái cấu trúc ngân hàng.

Nghị định 01/2014 về sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tín dụng Việt Nam cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính được sở hữu vượt quá 30% vốn điều lệ của một NHTM theo quyết định của Thủ tướng nhằm bơm được một lượng tiền thực vào ngân hàng gặp khó khăn qua đó giải quyết thanh khoản. Tuy nhiên, nếu nguồn tài chính không được minh bạch thì nguy cơ chính tình trạng sở hữu chéo hiện nay lại là cơ sở để các nhóm liên kết tăng cường sở hữu chéo dựa vào các đề án tái cấu trúc được thiết kế lỏng lẻo. Tóm lại, việc cho phép nhà đầu tư mới tham gia nhưng lại không dựa trên nguyên tắc giảm sở hữu chi phối hay giảm sở hữu chéo thì sẽ không thể xử lý được một cách bền vững những nút thắt trên.



Ba là, quá trình cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các NHTM còn chậm, chưa đạt yêu cầu của mục tiêu tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

Mục tiêu cơ bản và lâu dài của quá trình tái cơ cấu ngân hàng là tạo dựng được các NHTM lành mạnh, hoạt động an toàn và hiệu quả và có năng lực quản trị tiên tiến. Đề án 254 đã đề ra 7 giải pháp cơ cấu lại hoạt động và 13 giải pháp cơ cấu lại quản trị của các TCTD. Tuy vậy, sau gần 3 năm, kết quả cơ cấu lại hoạt động và quản trị của các NHTM còn khá khiêm tốn, hệ thống quản trị của các NHTM vẫn chưa có những thay đổi rõ nét. Nhiều vụ việc sai phạm điển hình của ngành ngân hàng như vụ Nguyễn Đức Kiên làm thất thoát 1400 tỷ đồng, Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo 4000 tỷ đồng của 3 ngân hàng, 9 tổ chức và 3 cá nhân đều xảy ra tại các NHTM được đánh giá cao về năng lực quản trị và chất lượng dịch vụ như Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank).

Cho đến nay, NHNN mới chỉ có dự thảo Thông tư quy định về hệ thống quản trị rủi ro tối thiểu làm cơ sở cho các TCTD xây dựng xây dựng hệ thống quản lý rủi ro, các quy định nội bộ theo quy định của Luật các TCTD. Chậm nhất đến ngày 01/6/2016, TCTD, chi nhánh NH nước ngoài phải hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro theo quy định tại Thông tư này để phù hợp với lộ trình cơ cấu lại hệ thống TCTD theo Đề án 254/QĐ-TTg và lộ trình thực hiện Basel II tại Việt Nam. Tuy nhiên, các văn bản luật này mới dừng lại chủ yếu đối với rủi ro tín dụng còn các loại rủi ro còn lại chưa được quan tâm nhiều hoặc chưa được đề cập chính thức trên một văn bản nào.

Bốn là, quá trình sáp nhập, hợp nhất và mua lại các TCTD còn chậm trễ và không đạt mục tiêu đề ra.

Năm 1991, số lượng ngân hàng thương mại tại Việt Nam chỉ có 9 ngân hàng thương mại song đến năm 2011 (thời điểm trước khi ban hành Đề án tái cơ cấu các TCTD), hệ thống các TCTD đã có 5 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) và NHTM có cổ phần chi phối của Nhà nước, 33 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), 1 ngân hàng hợp tác xã, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 29 công ty tài chính và cho thuê tài chính, 02 tổ chức tài chính vi mô và nhiều quỹ tín dụng nhân dân; trong đó hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) đã có mạng lưới bao phủ đến tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt có NHTM đã xây dựng hệ thống các chi nhánh bao phủ đến tận huyện, thậm chí là tới các xã, liên xã; mạng lưới của hệ thống NHTM trải rộng khắp đến các vùng, miền của đất nước. Như vậy hệ thống các TCTD của Việt Nam là khá lớn về số lượng song về năng lực tài chính của các TCTD còn rất hạn chế và hiệu quả kinh doanh thấp; mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam hết sức yếu và dễ đổ vỡ trước tác động bất lợi từ môi trường kinh doanh. Hiện nay, NHTM của Việt Nam có mức vốn điều lệ thấp hơn rất nhiều so với các NHTM của các nước trong khu vực. Khả năng sinh lời của các hệ thống TCTD ở mức khá thấp so với mức độ rủi ro cũng như các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Tính đến ngày 30.12.2010, theo Ngân hàng Nhà nước, tổng tài sản trong hệ thống đã lên tới gần 3,5 triệu tỉ đồng (175 tỉ USD) và dư nợ cho vay ở mức 125 tỉ USD, tương đương với 120% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế (Thái Lan là 100%, Hàn Quốc 80%). Với tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh hơn rất nhiều so với tăng trưởng GDP (30% năm trong 3 năm từ 2008 đến 2010), các ngân hàng đã tạo ra một lượng cung tiền cực kỳ lớn và hậu quả là lạm phát cao. Các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn rẻ trước đó đã đầu tư tràn lan kém hiệu quả và nợ xấu đang là vấn đề thời sự nhất của ngành ngân hàng.

Trước thực trạng trên, một trong những biện pháp quan trọng nhất được NHNN Việt Nam thực hiện để tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 là thực hiện M&A các TCTD yếu kém với nhau hoặc giữa các TCTD yếu kém với các TCTD mạnh hơn. Mục tiêu đặt ra là đến năm 2017, hệ thống NHTM còn lại khoảng 15 ngân hàng, trong đó đến cuối năm 2015 phấn đấu có 1-2 ngân hàng có quy mô và trình độ tương đương với các ngân hàng trong khu vực.

Từ năm 2011 cho đến nay, đã có 5 vụ sáp nhập và hợp nhất các TCTD, bao gồm: hợp nhất giữa Ngân hàng Liên Việt và Công ty dịch vụ tiết kiệm Bưu điện vào năm 2011; NHTMCP Sài Gòn (SCB) hợp nhất từ 3 ngân hàng SCB, Đệ Nhất và Tín nghĩa vào tháng 12/2011; HabuBank sáp nhập với SHB vào năm 2012; Western bank hợp nhất với PVFC thành Ngân hàng Đại chúng PvcomBank vào năm 2013; cuối cùng, vào tháng 11 năm 2013, DaiABank cũng chính thức được sáp nhập vào Ngân hàng TMCP Phát triển thành phố Hồ Chí Minh (HDBank). Như vậy, giai đoạn 2011-2013, sau quá trình sáp nhập và hợp nhất các TCTD đã có 5 NHTM yếu kém “biến mất” ra khỏi danh sách các NHTM của Việt Nam. Con số này so với số lượng các NHTM cũng trong tình trạng yếu kém mới chỉ chiếm tỷ lệ quá nhỏ. Năm 2014, mục tiêu đặt ra của NHNN là tiếp tục sáp nhập và hợp nhất 6-7 NHTM song cho đến nay vẫn chưa chính thức có vụ sáp nhập, hợp nhất nào hoàn thành do việc tìm các đối tác trong M&A là không dễ dàng cũng như có nhiều rào cản về pháp lý và sự hỗ trợ của Nhà nước.

Nhìn lại quá trình sáp nhập và hợp nhất các TCTD trong giai đoạn 2011-2013 cho thấy vai trò của NHNN là khá mờ nhạt, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các TCTD sau sáp nhập và hợp nhất dường như không có gì73. Việc chậm trễ trong M&A các TCTD yếu kém đang thách thức các mục tiêu của Đề án 254. Nếu như trong năm 2015, NHNN không có các đột phá trong M&A các TCTD thì chắc chắn các mục tiêu quan trọng của Đề án 254 là không hoàn thành.

Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011-2013 còn nhiều hạn chế là do các nguyên nhân chủ yếu sau:



Thứ nhất: quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng chưa có sự đồng bộ với tái cấu trúc đầu tư công và tái cơ cấu các DNNN.

Ba nhiệm vụ trọng tâm được xác định có quan hệ chặt chẽ với nhau trong tái cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2015 là:(i) tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, (ii) tái cấu trúc đầu tư công, và (iii) tái cơ cấu các DNNN. Tuy nhiên, giai đoạn 2011-2013, quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM chưa có sự gắn kết và phối hợp đồng bộ với 2 nhiệm vụ còn lại. Việc tái cơ cấu các DNNN thông qua cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước tại các DNNN không cần sự nắm giữ cổ phần của Nhà nước hết sức chậm trễ trong khi phần lớn nợ xấu của hệ thống NHTM lại đến từ các DNNN có quan hệ với ngân hàng74.



Thứ hai: mục tiêu và các ưu tiên cho tái cơ cấu được xác lập chưa phù hợp.

Đề án 254 đề ra quá nhiều mục tiêu và giải pháp tái cơ cấu các TCTD cho giai đoạn 2011-2015 cũng như cho từng năm75. Việc Đề án tái cơ cấu quá chú trọng vào việc ưu tiên thực hiện xử lý các TCTD yếu kém thông qua M&A trong khi chưa có các cơ chế xử lý kiên quyết và triệt để nợ xấu và vấn đề sở hữu chéo cũng như vấn đề quản trị trong các TCTD dẫn đến các kết quả tái cơ cấu không như mong muốn và không đảm bảo cho hệ thống các TCTD phát triển bền vững.



Thứ ba: thiếu khuôn khổ pháp lý cho tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.

Khuôn khổ pháp lý có liên quan đến các khía cạnh chủ yếu của quá trình tái cơ cấu các TCTD như: xử lý nợ xấu, M&A các TCTD, quản trị rủi ro của các TCTD, sở hữu chéo trong các TCTD, quản lý vốn Nhà nước và vấn đề thoái vốn Nhà nước tại các TCTD, sự can thiệp của Nhà nước vào các TCTD yếu kém, vấn đề phá sản của các TCTD…đều đang thiếu và không đồng bộ. Trong quá trình tái cơ cấu từ năm 2011 đến nay, NHNN đã ban hành một số văn bản hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho quản trị hệ thống ngân hàng song mang tính chắp vá và không đồng bộ. Những hạn chế về thể chế và khuôn khổ pháp lý đã làm cho quá trình tái cơ cấu giai đoạn 2011-2013 gặp nhiều khó khăn như: việc xử lý nợ xấu của các TCTD rơi vào tình trạng bế tắc, quá trình M&A các TCTD yếu kém không đạt mục tiêu đề ra, không quản lý được tình trạng sở hữu chéo trong các TCTD.



Thứ tư: thiếu quyết tâm chính trị và sự phối hợp chưa đồng bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước trong tái cơ cấu.

Trước khi Đề án 254 được được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành vào ngày 1/3/2012, đã có rất nhiều ý kiến cho rằng để quá trình tái cơ cấu đạt hiệu quả cần có sự quyết tâm lớn về chính trị trong thực hiện tái cơ cầu thông qua việc thành lập một Ủy ban liên ngành hoặc Ủy ban tái cơ cấu ngân hàng do Thủ tướng hoặc 1 Phó Thủ tướng đứng đầu. Kinh nghiệm tái cơ cấu của các nước cho thấy76, những kiến nghị này là có cơ sở khoa học và thực tiễn.

Tuy vậy, cuối cùng Đề án 254 được thông qua dưới hình thức quyết định của Thủ tướng và cơ quan thường trực triển khai Đề án là NHNN Việt Nam. Việc giao cho NHNN thường trực triển khai Đề án trong điều kiện vai trò và vị thế độc lập của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ còn khá hạn chế cũng như việc Đề án có mối quan hệ với nhiều Bộ, ngành khác như vấn đề tái cơ cấu các DNNN của Bộ Tài chính, vấn đề tái cấu trúc đầu tư công của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ ngành khác đã làm cho hiệu quả thực hiện Đề án trong giai đoạn 2012-2014 không cao như kỳ vọng cũng như mục tiêu đề ra của Đề án. Trước sự phối hợp không đồng bộ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, sau gần 3 năm thực hiện Đề án, ngày 11/3/2014, trên cơ sở Tờ trình của NHNN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 363/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành triển khai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD”. Việc thành lập Ban chỉ đạo liên ngành cho dù là quá chậm trễ song được kỳ vọng sẽ giúp cho việc thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD trong thời gian tới.

1.5. Bài học kinh nghiệm

Từ những thành công và hạn chế của quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD của Việt Nam giai đoạn 2011-2013, nhóm nghiên cứu rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:



Một là, việc chẩn đoán bản chất và hiện trạng hệ thống ngân hàng để xác lập mục tiêu, phạm vi và chiến lược tái cơ cấu là yếu tố quan trọng quyết định thành công của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

Đối với hệ thống các TCTD của Việt Nam, căn bệnh lớn nhất hiện nay là vấn đề nợ xấu và sở hữu chéo. Việc e ngại khi tính toán lại nợ xấu theo chuẩn mực quốc tế cũng như công bố các thông tin về nợ xấu và sở hữu chéo chỉ làm tăng nguy cơ phát bệnh trầm trọng hơn trong tương lai. Mục tiêu và các thứ tự ưu tiên của các giải pháp cần phải được xác lập lại. Nhóm nghiên cứu cho rằng từ bản chất căn bệnh của các TCTD Việt Nam hiện nay, năm 2015 nên tập trung vào xử lý dứt điểm nợ xấu của các TCTD thông qua tạo dựng hành lang pháp lý đủ thẩm quyền và khả thi cho VAMC và xử lý vấn đề sở hữu chéo. Cần thay đổi chiến lược và biện pháp M&A các TCTD như hiện nay từ hình thức “tự nguyện” sang “bắt buộc” thậm chí cho tuyên bố phá sản một số TCTD yếu kém để làm thanh lọc hệ thống.



Hai là, hoàn thiện thể chế và khuôn khổ pháp lý cho tái cơ cấu hệ thống ngân hàng phải là ưu tiên số một trong quá trình tái cơ cấu

Sau khi chẩn đoán bệnh của hệ thống, việc cần làm ngay là hoàn thiện thể chế và khuôn khổ pháp lý cho tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Một hành lang pháp lý đồng bộ và đầy đủ sẽ giúp cho quá trình tái cơ cấu nhanh chóng và giảm thiểu được chi phí. Đối với thực trạng cơ cấu TCTD như Việt Nam, khuôn khổ pháp lý phải thay đổi theo hướng tạo cho NHNN một quyền lực đủ mạnh để thực hiện tái cơ cấu hệ thống. Cần cho phép NHNN mua lại cổ phần tại một số NHTMCP để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà nước trong việc thoái vốn khỏi lĩnh vực ngân hàng, của các cổ đông hiện đang sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ, cũng như sự ổn định của hệ thống ngân hàng sau khi các cổ đông thoái vốn, tăng tính hiệu quả và đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu các TCTD; áp dụng biện pháp phá sản một số NHTM và TCTD phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và QTDND theo quy định của pháp luật sau khi đã áp dụng các giải pháp xử lý khác nhưng không thành công hoặc không có hiệu quả kinh tế - xã hội trên cơ sở không gây các tác động lớn về mặt xã hội cũng như hệ thống.



Ba là, cần sự đồng thuận chính trị mạnh mẽ trong thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Thực hiện tái cơ cấu đồng bộ hệ thống ngân hàng với tái cơ cấu các DNNN và tái cơ cấu đầu tư công.

Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng không chỉ là nhiệm vụ riêng của ngành ngân hàng vì hệ thống ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với các ngành và lĩnh vực khác. Đối với Việt Nam, để tái cấu trúc thành công hệ thống ngân hàng cần thực hiện đồng bộ với tái cơ cấu các DNNN và tái cơ cấu đầu tư công.



2. Đề xuất hoàn khuôn khổ pháp lý chủ yếu cho tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Để thực hiện thành công các mục tiêu của quá trình tái cơ cấu hệ thống các NHTM giai đoạn 2014-2015 và giai đoạn 2016-2020, kinh nghiệm quốc tế cho thấy Việt Nam cần có thể chế và khuôn khổ pháp lý có tính chất đặc biệt và đột phá, đảm bảo nguyên tắc vận hành theo cơ chế thị trường, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thể chế và hành lang pháp lý cho tái cơ cấu phải thay đổi quan điểm hiện nay là “không để đổ vỡ các tổ chức tín dụng thay đổi bằng quan điểm "không để người gửi mất tiền". Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tóm lược những đề xuất chủ yếu về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý theo 6 khía cạnh pháp lý chính có liên quan đến tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam:



2.1. Khuôn khổ pháp lý về xử lý nợ xấu của các NHTM

Việt Nam đang song song thực hiện cả hai mô hình xử lý nợ xấu phổ biến trên thế giới hiện nay là mô hình tập trung và mô hình phi tập trung. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy mô hình phi tập trung tại Việt Nam đang thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả khi các công ty quản lý tài sản của các NHTM chưa thể thực hiện tốt được chức năng vai trò của mình. Đối với VAMC, bản thân công ty này cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc bán nợ vì thiếu một thị trường mua bán nợ cùng các tiêu chuẩn đồng bộ.

Dựa trên kinh nghiệm của cả những quốc gia thành công và quốc gia thất bại trong quá trình xử lý nợ xấu và kết quả khảo sát, phỏng vấn sâu tại VAMC và một số NHTM, nhóm nghiên cứu đề xuất giải quyết những vướng mắc pháp lý trong xử lý nợ xấu của các NHTM như sau:

Thứ nhất, cần xây dựng lộ trình phù hợp đối với từng nhóm ngân hàng cho việc áp dụng phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro:Với lộ trình cụ thể cho từng nhóm ngân hàng lành mạnh và yếu kém, việc áp dụng Thông tư 02 và Thông tư 09 sẽ không gây sốc cho thị trường, tránh làm tổn thương niềm tin của thị trường do việc hoãn hiệu lực nhiều lần.

Thứ hai, xây dựng quy trình đánh giá doanh nghiệp trước khi công bố trên CIC: Cần phải có quy trình đánh giá toàn diện thực trạng của từng doanh nghiệp đối với từng khoản vay, từng dự án đầu tư trước khi xác định nhóm nợ của doanh nghiệp trên CIC, tránh gây khó khăn cho những doanh nghiệp gặp rủi ro tạm thời đối với những dự án nhất định.

Thứ ba, phát triển đồng bộ mô hình xử lý nợ xấu phi tập trung cùng với mô hình tập trung: Mô hình tập trung là mô hình xử lý nợ xấu ngắn hạn trong 5 năm, trong khi đó mô hình phi tập trung là mô hình hoạt động dài hạn cả trong và hậu tái cơ cấu. Vì vậy việc phát triển đồng bộ cả hai mô hình sẽ giúp kết quả quá trình xử lý nợ xấu được duy trì và phát huy, ngay cả khi giai đoạn tái cơ cấu 2011- 2015 đã kết thúc.

Thứ tư, đề xuất cơ chế đặc biệt cho VAMC: VAMC cần có được những quyền hạn đặc biệt như có một đạo luật riêng về xử lý nợ xấu, giúp giảm thiểu các vướng mắc trong việc xử lý nợ xấu và đẩy nhanh tốc độ mua bán nợ. Đạo luật về xử lý nợ xấu cho VAMC cần có những cơ chế đặc biệt cho VAMC như sau:

(1) Trao cho VAMC quyền xử lý các khoản nợ xấu đứng trên cương vị của người cho vay và không cần thông qua sự chấp thuận của những khách hàng nợ trong quá trình mua bán nợ. Như vậy, VAMC có thể bán nợ trực tiếp cho bên mua sau khi khoản nợ được định giá bởi một tổ chức định giá độc lập mà không cần có sự đồng ý của cả bên cho vay (tổ chức tài chính) và bên vay (khách hàng nợ). Điều này sẽ giúp VAMC đẩy nhanh quá trình mua bán nợ và tránh được những tranh chấp phát sinh.

(2) VAMC cần có quyền chỉ định quản trị viên đặc biệt xử lý nợ đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn và không có khả năng trả nợ. Quản trị viên này sẽ lên kế hoạch và thực hiện phương án triển khai xử lý tài sản sau khi đã được thông qua. Trong khoảng thời gian đó, những hoạt động chống lại công ty và hoạt động xử lý nợ của quản trị viên đặc biệt sẽ bị nghiêm cấm. Khi đó, VAMC sẽ tránh được những cản trở của khách hàng nợ và tập trung toàn bộ vào quá trình xử lý nợ.

(3) Liên quan đến tài sản đảm bảo, VAMC cần có quyền hạn đủ lớn để tịch thu tài sản đảm bảo, bao gồm cả bất động sản, mà không cần phải thông qua tòa án.

Có thể thấy, cả ba điều khoản trên sẽ giúp VAMC giải quyết được những vướng mắc hiện thời làm chậm trễ quá trình xử lý nợ, bao gồm: quy trình thủ tục khi xảy ra kiện tụng tài tòa án, sự không đồng thuận giữa các bên về giá bán nợ và khó khăn trong việc xử lý và tịch thu tài sản.

(4) Đối với ban điều hành của VAMC, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các bên liên quan. Cụ thể, cần có đại diện từ Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, lĩnh vực tư nhân, và lĩnh vực đầu tư nước ngoài tham gia vào ban điều hành của VAMC, từ đó có thể huy động hết nguồn lực và các kinh nghiệm về quản lý, đầu tư và các kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình xử lý nợ xấu.

(5) Cuối cùng, VAMC cũng cần được xem xét tăng vốn điều lệ nhằm tạo sự tin tưởng với các nhà đầu tư nước ngoài và xây dựng cơ chế lương cho nhân viên theo kết quả đạt được, thay vì cơ chế lương cào bằng như hiện nay, nhằmthúc đẩy hiệu quả công việc lên mức cao nhất.

Thứ năm, cần cóhướng dẫn cụ thể về việc xử lý các khoản nợ xấu đối với NHTM. Trước hết, NHNN cần ban hành các hướng dẫn cụ thể về việc ủy quyền của VAMC cho các NHTM trong việc xử lý nợ xấu. Đồng thời, việc ban hành các hướng dẫn cụ thể về xử lý các khoản nợ xấu (tỷ lệ chiết khấu, thời gian xử lý) cũng sẽ giúp các ngân hàng chủ động hơn trong việc loại bỏ các khoản nợ xấu ra khỏi báo cáo tài chính.

Thứ sáu, xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Theo kinh nghiệm về xử lý nợ xấu thành công của Hàn Quốc và sự thất bại của Nhật Bản, các nhà đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với quá trình xử lý nợ xấu. Vì vậy, việc xây dựng các chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có việc điều chỉnh sửa đổi Luật đất đai và Luật kinh doanh bất động sản, là rất cần thiết đối với Việt Nam trong thời điểm hiện nay.

Thứ bẩy, xây dựng thị trường mua bán nợ.Một thị trường mua bán nợ thật sự bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp sẽ giúp huy động đa dạng các nguồn lực trong và ngoài nước tham gia xử lý nợ xấu. Để xây dựng thị trường, cần đồng bộ hóa các thủ tục quy trình mua bán nợ và quốc tế hóa các chuẩn mực kế toán cho thị trường mua bán nợ hoạt động hiệu quả. Việc xác lập mối quan hệ trực tiếp giữa VAMC và AMCs của các NHTM để tạo lập thị trường cũng là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Thứ tám, phát triển thị trường trái phiếu và tạo hành lang pháp lý cho chứng khoán hóa các khoản nợ xấu. Xây dựng một thị trường vốn sâu rộng với nhiều công cụ khác nhau, đặc biệt là việc thiết lập thị trường trái phiếu giúp tạo ra một kênh huy động vốn thay thế cho ngân hàng. Một số chính sách thúc đẩy thị trường trái phiếu như: Đơn giản hóa quy trình phát hành trái phiếu với các quy định về phân loại trái phiếu theo các mức độ rủi ro phù hợp với nhà đầu tư, bảo hiểm cho thị trường trái phiếu…

Chứng khoán hóa là một hoạt động có vai trò quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM khi giúp các ngân hàng có thể chuyển giao rủi ro sang cho các tổ chức khác, làm thay đổi vai trò của ngân hàng từ việc cho vay và “nắm giữ” rủi ro tín dụng thành cho vay, chứng khoán hóa, và “chuyển giao” rủi ro tín dụng, qua đó góp phần đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM.

Bên cạnh việc bán toàn bộ khoản nợ xấu, còn một kênh để đẩy nợ xấu ra hệ thống ngân hàng là chứng khoán hóa các khoản nợ, thông qua việc phát hành trái phiếu được đảm bảo các tài sản có giá trị còn lại. Các khoản vay của khách hàng được tập hợp theo từng nhóm có cùng mức xếp hạng tín dụng. Dựa trên cơ sở đảm bảo bởi dòng tiền mặt tương lai sẽ thu được từ nhóm tài sản tài chính sẵn có, ngân hàng phát hành các chứng khoán nợ. Các nhà đầu tư mua chứng khoán nợ và chấp nhận rủi ro liên quan tới danh mục TSBĐ được đem ra chứng khoán hóa. Phương pháp này cho phép phát hành đa dạng các chứng khoán với các kỳ hạn và lãi suất khác nhau, do đó có lợi thế là thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn và giảm được chi phí quản lý của các AMC tại các doanh nghiệp. Trái phiếu có thể được phát hành bằng đồng nội tệ hay dưới các ngoại tệ khác nhau rất linh hoạt. Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc chủ yếu vào sự phát triển của thị trường chứng khoán và đòi hỏi phải có một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện về chứng khoán hóa. Do đó, để có thể phát triển hoạt động chứng khoán hóa, không thể chỉ dựa vào nỗ lực của các NHTM mà cần có sự đảm bảo về hành lang pháp lý và sự hỗ trợ của Chính phủ.

NHNN Việt Nam cần sớm nghiên cứu ban hành quy chế về chứng khoán hóa trong điều kiện hướng đến đảm bảo hạn chế tối đa các rủi ro cho từng ngân hàng đơn lẻ cũng như toàn hệ thống. Việc ban hành quy chế này nên thực hiện trên cơ sở nghiên cứu những thất bại trong phát triển chứng khoán hóa của các quốc gia, đặc biệt là Mỹ. Bên cạnh đó, NHNN Việt Nam cần phối hợp với các Bộ ban ngành liên quan để sớm xây dựng các văn bản pháp quy và các tổ chức trong điều hành các thị trường phái sinh (cụ thể là thị trường hoán đổi tín dụng) cũng như các thị trường liên quan đến chứng khoán hóa (thị trường chứng khoán, thị trường BĐS và thị trường bảo hiểm). Theo đó, các văn bản pháp lý và các tổ chức được xây dựng theo hướng hạn chế tối đa sự nguy hiểm bắt nguồn từ tính liên thông giữa các thị trường trên khi kinh tế vĩ mô trở nên bất ổn.



2.2. Khuôn khổ pháp lý về mua bán, sáp nhập, hợp nhất các TCTD

Để thúc đẩy hoạt động mua bán, sáp nhập và hợp nhất các TCTD trong thời gian tới, nhóm nghiên cứu kiến nghị cần hoàn thiện các vấn đề sau:



Thứ nhất, các văn bản pháp luật cần thống nhất khái niệm mua lại tổ chức tín dụng. Cụ thể, mua lại tổ chức tín dụng cần được hiểu là mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng bị mua lại. Sau khi mua lại, tổ chức tín dụng bị mua lại trở thành công ty trực thuộc của tổ chức tín dụng mua lại.

Thứ hai, cần có thêm quy định về bảo vệ cổ đông thiểu số và bổ sung các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể gián tiếp tham gia vào hoạt động mua bán, sáp nhập các TCTD. Bên cạnh yêu cầu tổ chức tín dụng mua lại cổ phiếu của mình, đối với các cổ đông chiến lược của tổ chức tín dụng trước khi bị mua lại, hợp nhất, sáp nhập, các cổ đông này có thể yêu cầu công ty phát hành thêm cổ phiếu cho mình để họ đảm bảo được tỷ lệ nắm giữ như trước. Đối với trường hợp cổ đông chiến lược là cổ đông nước ngoài có thể cho phép tỷ lệ vượt quá 30%.

Ngoài ra, các văn bản pháp luật cần bổ sung những chủ thể gián tiếp tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng (công ty luật, công ty kiểm toán, công ty môi giới), kèm theo các điều kiện chặt chẽ để các chủ thể này được tham gia hoạt động mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.



Thứ ba, các văn bản pháp luật cần nghiên cứu và xây dựng quy định định giá tài sản khi thực hiện mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng. Đặc biệt, các văn bản này cần phản ánh được đầy đủ giá trị hữu hình và vô hình của tổ chức tín dụng. Việc định giá một tổ hức tín dụng không nhất thiết sử dụng một phương pháp cụ thể, mà có thể áp dụng nhiều phương pháp tuỳ vào điều kiện của từng tổ chức tín dụng. Do trong giao dịch M&A luôn tồn tại hai lợi ích trái ngược nhau của bên mua và bên bán, bên mua luôn muốn mua tổ chức tín dụng với giá rẻ, còn bên bán muốn bán tổ chức tín dụng với giá cao nhất, nên nhiều thương vụ M&A thất bại chủ yếu là do vấn đề không xác định được mức giá phù hợp cho cả bên mua và bên bán. Chính vì vậy, việc định giá tài sản khi thực hiện M&A có thể được quy định giao cho một chủ thể gián tiếp thực hiện, ví dụ là công ty kiểm toán hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp, nhằm đảm bảo tính khách quan và đưa ra được một mức giá phù hợp.

Thứ tư, cần chuẩn hóa lại mẫu hợp đồng mua bán, sáp nhập các TCTD. Ngoài những nội dung chính được nêu trong Luật Doanh nghiệp và Thông tư 04/2010/TT-NHNN, hợp đồng mẫu mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng cần được nghiên cứu và xây dựng và quy định các lĩnh vực đặc thù như (i) điều kiện mua lại và sáp nhập, (ii) quyền và nghĩa vụ các bên, (iii) Việc phối hợp giải quyết các khoản nợ tồn đọng của tổ chức tín dụng bị mua lại/sáp nhập, (iv) các điều khoản khác như giải quyết tranh chấp và phương án lao động.

Thứ năm, cần quy định cụ thể thời điểm cung cấp thông tin khi mua bán, sáp nhập các TCTD. Ngoài ra, các thông tin liên quan đến hoạt động mua bán và sáp nhập tổ chức tín dụng là những thông tin quan trọng, có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng bị sáp nhập hoặc bị mua lại hoặc của các bên tham gia hợp nhất. Vì vậy, để đảm bảo không có bất kỳ ảnh hưởng hay biến động nào trong hoạt động của các tổ chức tín dụng tham gia mua bán, sáp nhập, thời điểm công bố quy định nên được quy định là sau khi các tổ chức tín dụng đã được ngân hàng nhà nước chấp thuận.

Cần bổ sung quy định hợp đồng sáp nhập chỉ được ký khi các bên đã được NHNN chấp thuận sáp nhập vào khoản 4 Điều 8 của Thông tư 04/2010/TT-NHNN. Bên cạnh đó, cần quy định rõ các nội dung của hợp đồng phải được công bố cho các chủ nợ và người lao động và những nội dung không cần công bố. Để tiết kiệm chi phí và thời gian gửi hợp đồng đến các chủ nợ và người lao động, có thể công bố những nội dung phải công bố của hợp đồng lên website chính thức của tổ chức tín dụng có liên quan.



Thứ sáu, cần ban hành các chính sách đặc biệt ưu đãi về thuế cho các tổ chức tín dụng mua lại hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng yếu kém trong thời gian 2 năm.

2.3. Khuôn khổ pháp lý về sở hữu chéo trong các TCTD

Một trong những nguyên nhân chủ quan lớn nhất tạo kẽ hở cho tình trạng sở hữu chéo phát triển tràn lan là hệ thống các quy định pháp luật về quản lý và hạn chế sở hữu chéo chưa chặt chẽ hoặc chưa đồng bộ với các văn bản khác. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm kiểm soát sở hữu chéo là vô cùng cần thiết.



Thứ nhất, đối với quy định về công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu cổ phần.

Cụ thể, theo Điều 26, Thông tư số 52/2012/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán: cá nhân, tổ chức và nhóm người có liên quan nắm giữ từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của một công ty đại chúng (trong trường hợp này là ngân hàng) mới phải báo cáo về tỷ lệ sở hữu cho các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, theo Khoản 1, Điều 55, Luật các TCTD, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một TCTD. Do vậy, kết hợp hai quy định này với nhau, sẽ có rất ít cổ đông cá nhân của ngân hàng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu. Mặc dù khoản 3, điều 55 của Luật các TCTD đã quy định: cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD, nhưng quy định về “người có liên quan” hiện nay cũng chưa rõ ràng, do vậy, việc lách luật như trên hoàn toàn có thể xảy ra. Với những phân tích như vậy, có thể thấy để phát hiện được các mối quan hệ sở hữu chéo, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin, đặc biệt là nhóm đối tượng là người có liên quan, đồng thời cần hạ tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu ngân hàng mà ở đó chủ sở hữu phải công bố thông tin. Cụ thể, các đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu ngân hàng là: (i) Các cổ đông có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1% trở lên; (ii) người có liên quan của các cổ đông phải công bố thông tin có tỷ lệ sở hữu NHTMCP từ 1%. Việc quy định này sẽ giúp cho việc xác định quan hệ sở hữu chéo dễ dàng hơn.



Thứ hai,bổ sung phạm vi quy định người có liên quan, người sở hữu cuối cùng và mở rộng đối tượng phải công bố thông tin về tỷ lệ sở hữu.

Theo Điều 55, luật Các TCTD 2010: cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một TCTD; Cổ đông cá nhân không được sở hữu quá 5%, tổ chức không quá 15% vốn điều lệ của TCTD; Các tỷ lệ sở hữu trên bao gồm cả phần vốn ủy thác cho các tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần. Tuy nhiên, như đã nêu ở phần 3.4.1, quy định hiện hành về người có liên quan của cổ đông không bao trùm hết, dù có mở rộng đối tượng phải công bố thông tin sở hữu thì sự nhập nhằng trong các mối quan hệ liên quan vẫn tạo cơ hội cho sở hữu chéo được che giấu, không xác định được ai là người sở hữu cuối cùng. Thông qua những pháp nhân và thể nhân khác nhau, một cá nhân có thể sở hữu vượt những quy định trên. Do vậy, để khắc phục khó khăn trong quản lý, giám sát sở hữu, đầu tư chéo, cần hoàn thiện quy định hiện hành về xác định rõ “người liên quan“, bổ sung quy định về “người sở hữu cuối cùng“ và trao cho Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng quyền xác định “người sở hữu cuối cùng“ dựa trên nguyên tắc theo luật định. Cụ thể, đối với quy định về người có liên quan, trước mắt, đối với trường hợp, cổ đông cá nhân tuy chỉ sở hữu một lượng cổ phần tuân thủ Điều 55 Luật các TCTD 2010 nhưng nếu tính cả các bên liên quan của họ như vợ/chồng, gia đình của vợ/chồng có thể sẽ làm cho tỷ lệ sở hữu cao hơn mức quy định. Trong Luật hiện nay chỉ quy định cổ đông và các bên liên quan bao gồm gia quyến của chính cổ đông đó mà chưa bao gồm gia quyến của gia đình vợ/chồng của cổ đông đó. Do đó, NHNN cần mở rộng đối tượng về các bên liên quan trong Luật các TCTD 2010.



Thứ ba, đối với các quy định về thành phần của ban quản trị và ban điều hành:NHNN quy định số lượng thành viên ban quản trị của NHTM trong trường hợp điều lệ của của NHTM không có quy định.

Như đã nêu ở Chương 3, theo thông lệ quốc tế, ban quản trị phải có tối thiểu 5 thành viên và tối đa 11 thành viên. Đồng thời, phải có xấp xỉ 1/3 số thành viên là các thành viên độc lập và không thuộc ban điều hành của ngân hàng (IFC, 2011). Sau cuộc khủng hoảng 1997, Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc đã buộc các công ty muốn niêm yết phải có tối thiểu là 1/4 thành viên của ban quản trị là các thành viên độc lập từ bên ngoài. Thành viên độc lập phải có những tiêu chí khắt khe như là cá nhân không đang làm việc cho ngân hàng, hoặc công ty trực thuộc ngân hàng, hoặc đã làm việc cho ngân hàng hoặc công ty trực thuộc ngân hàng trong một thời gian nhất định; không có mối quan hệ với những người có liên quan mà người đó sở hữu một lượng cổ phần nhất định của ngân hàng… Các thành viên độc lập có vai trò đưa ra các quyết định có tính khách quan và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực tới các cổ đông nhỏ lẻ do các cổ đông lớn, cổ đông có quyền kiểm soát NHTM thông qua sở hữu chéo gây ra.

Ngoài ra, cần tách biệt rõ ràng gữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, theo đó không cho phép thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của ngân hàng kiêm nhiệm chức vụ trong ban điều hành. Trên thực tế, tại Việt Nam, theo khoản 1, điều 48, luật các TCTD cho phép hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của TCTD là công ty cổ phần, công ty TNHH được quyền bổ nhiệm một trong số các thành viên của mình làm Tổng giám đốc/Giám đốc. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm này có thể dẫn đến việc xung đột về lợi ích khi Tổng giám đốc (là một trong những chủ sở hữu) đưa ra những quyết định phục vụ cho một nhóm lợi ích mà không quan tâm đến quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ.

Hơn nữa, cần xác định rõ một pháp nhân không thể là thành viên ban quản trị cho dù một cá nhân đại diện cho pháp nhân đó có thể được bầu vào ban quản trị. Như vậy, cá nhân được bầu vào ban quản trị của NHTM chỉ có thể hành động với tư cách là một thành viên ban quản trị chứ không phải với tư cách là đại diện của pháp nhân, tức là cá nhân đó phải hành động vì lợi ích của tất cả các cổ đông chứ không phải chỉ vì riêng lợi ích của pháp nhân được cá nhân đó đại diện.

Tương tự, NHNN cũng cần có quy định về ban điều hành của NHTM nhằm hạn chế tình trạng sở hữu chéo có thể xảy ra như tổng giám đốc/giám đốc không được đồng thời là tổng giám đốc/giám đốc của một doanh nghiệp khác. Theo thông lệ quốc tế, tổng giám đốc/giám đốc không nên tham gia vào bất cứ hoạt động kinh doanh nào ngoài những việc liên quan tới vai trò quản lý, điều hành doanh nghiệp và việc quản trị các công ty con của ngân hàng.

Thứ tư, tách bạch chức năng ngân hàng đầu tư và NHTM.

Từ điều 103 về góp vốn, mua cổ phần và điều 107 quy định về các hoạt động kinh doanh khác của NHTM trong Luật các TCTD 2010, có thể thấy những quy định này đã xóa đi ranh giới giữa chức năng ngân hàng đầu tư và NHTM trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Đây là một trong những “lỗ hổng” tạo điều kiện cho sở hữu chéo gây ra những sai phạm về đảm bảo an toàn hoạt động của TCTD, từ đó làm gia tăng nguy cơ rủi ro chéo giữa các khu vực thị trường (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) trên thị trường tài chính quốc gia.

Cụ thể, mặc dù Thông tư 13/2010/TT-NHNN đã quy định hoạt động của ngân hàng đầu tư phải được tách khỏi hoạt động của NHTM, theo đó, ngân hàng không được cấp tín dụng cho công ty trực thuộc hoạt động kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, bằng việc sở hữu chéo, ngân hàng A có thể dễ dàng lách quy định này bằng cách tác động bằng những phương pháp khác nhau để ngân hàng B (mà ngân hàng A đang đồng sở hữu) mua trái phiếu của Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ của ngân hàng A. Những hoạt động này vô hình chung đã gắn rủi ro trong hoạt động đầu tư vào huy động và cho vay thương mại của các ngân hàng Việt Nam hiện nay, dẫn đến khả năng lan truyền rủi ro giữa các khu vực của thị trường tài chính. Trong khi tình trạng nhập nhằng giữa hai chức năng đang diễn ra như vậy, nhiều ngân hàng Việt Nam lại thông báo sẽ trở thành tập đoàn tài chính. Bản chất của tập đoàn tài chính là vừa có chức năng đầu tư, vừa có chức năng thương mại, điều này khiến cho vấn đề quản lý càng trở nên khó khăn.

Do vậy, trong thời gian tới, luật cần bổ sung thêm các quy định liên quan đến tập đoàn tài chính đồng thời cơ quan quản lý cần có những biện pháp chế tài hạn chế các NHTM thực hiện những nghiệp vụ như ủy thác đầu tư chứng khoán.



Thứ năm, luật đã có quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa của các cá nhân cũng như các tổ chức trong NHTM. Tuy nhiên, để quy định này có hiệu quả hơn, luật nên bổ sung quy định cụ thể rõ ràng hơn về mức sở hữu cổ phần tối đa với từng loại cổ đông.

Với cổ đông cá nhân có thể phân chi tiết hơn như: cá nhân tham gia quản lý, cá nhân không tham gia quản lý…Với cổ đông là tổ chức có thể phân thành các nhóm: tổ chức tài chính, tổ chức phi tài chính, tổ chức là cơ quan, DNNN…



Thứ sáu, cần nghiêm cấm các hành vi lợi dụng sở hữu chéo để vượt qua các quy định về tỷ lệ sở hữu, giới hạn góp vốn, mua cổ phần; các quy định về hạn chế cho vay, giới hạn tín dụng cũng như phân loại, trích lập dự phòng rủi ro. Với những sai phạm bị phát hiện, cần có cơ chế xử phạt thật nghiêm bao gồm nâng các mức phạt hành chính nhằm gia tăng kỷ luật đối với các NHTM khác.

2.4. Khuôn khổ pháp lý về quản trị rủi ro và đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM

Việc tuân thủ các quy định an toàn hoạt động ngân hàng và chuẩn mực an toàn vốn là những giải pháp quan trọng trong cơ cấu lại tài chính của hệ thống NHTM theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015. Để đảm bảo an toàn hoạt động toàn bộ hệ thống ngân hàng đặc biệt trong giai đoạn tái cấu trúc, NHNN cần có các giải pháp toàn diện đối với vấn đề này. Cụ thể, các giải pháp có thể thực hiện trong thời gian tới gồm:

Trong năm 2014, NHNN cần hoàn thiện Thông tư số 13/2010/TT-NHNN với mục tiêu hướng các NHTM tiếp cận việc quản lý rủi ro theo Basel II. Điều này sẽ tạo hành lang cho quá trình tái cấu trúc NHTM nói chung và tăng cường nội lực cho việc xử lý nợ xấu nói riêng. Cụ thể:

Thứ nhất, thay đổi cách tính CAR. Theo đó, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN nên quy địnhlại phần tính mẫu số của công thức tính CAR với việc cộng cả rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp.

Thứ hai, Basel II đã đưa ra các cách tiếp cận khác nhau cho các ngân hàng có quy mô, đặc điểm khác nhau và các ngân hàng có thể tự lựa chọn cách tiếp cận riêng cho mình; Thông tư 13/2010/TT-NHNN cũng cần xây dựng việc tính mức độ đủ vốn căn cứ theo quy mô và phạm vi hoạt động của các NHTM.

Thứ ba, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN nên khắc phục những bất cập trong quy định về hệ số rủi ro của các tài sản có trong công thức tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tại điều 5. Cụ thể, Thông tư 13 cần phân loại tài sản chi tiết và tính đến sự khác biệt giữa các mức độ rủi ro riêng biệt. Đối với các khoản phải thu, hệ số rủi ro được xác định dựa trên loại hình TSBĐ (giấy tờ có giá, BĐS…) và đối tượng (Chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương, công ty trực thuộc, các TCTD khác…), nhưng đồng thời phải chi tiết cho rủi ro theo mức độ tín nhiệm của đối tác hoặc theo đặc điểm khoản tín dụng.

Thứ tư, cần bổ sung quy định về giới hạn liên quan đến đòn bẩy tài chính (Vốn tự có/Tổng Tài sản) của các NHTM. Hệ số này sẽ tồn tại song song với hệ số an toàn vốn tối thiểu (Vốn tự có/Tổng tài sản rủi ro) khi đánh giá về mức độ an toàn vốn của NHTM trong Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Theo đó, NHNN cần khảo sát và xây dựng mô hình đo lường để xác định chính xác giới hạn tối thiểu của hệ số Vốn tự có so với Tổng tài sản có của NHTM. Điều này đúng với khuyến nghị của ủy ban Basel (cụ thể trong Basel III) về việc sử dụng hệ số đòn bẩy tài chính để đánh giá mức độ an toàn của các NHTM đang phải kinh doanh trong điều kiện môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn hoặc suy giảm. Trên thực tế, khi nền kinh tế vĩ mô bất ổn, cho vay bảo đảm bằng BĐS đôi khi có mức độ rủi ro tương đương cho vay không bảo đảm, bởi lẽ, trong bối cảnh thị trường BĐS đóng băng, NHTM cũng không thể bán BĐS để thu hồi nợ xấu.

Thứ năm, bên cạnh việc sửa đổi Thông tư 13/2010/TT-NHNN, NHNN Việt Nam cần có lộ trình cụ thể về thời gian trong việc áp dụng Basel II và Basel III trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước đã triển khai.

Thứ sáu, tăng cường yêu cầu an toàn vốn với mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng. Đối với việc quản lý mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng, để tránh tối đa rủi ro chéo, NHNN nên dựa theo khuyến nghị của Ủy ban Basel.

Điều này có nghĩa là đối với các tập đoàn tài chính, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cần được xác định ở mức cao hơn so với mô hình tổ chức tài chính chỉ hoạt động lĩnh vực ngân hàng. Trong điều kiện cụ thể, các tập đoàn tài chính cần duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lớn hơn mức 9% hiện nay được quy định trong Thông tư 13/2010/NHNN. Mức chênh lệch phải đủ đảm bảo tránh tối đa rủi ro chéo phù hợp với giới hạn đầu tư vào các công ty con trực thuộc ngân hàng mẹ.



2.5. Khuôn khổ pháp lý về cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các TCTD thực hiện tái cơ cấu

Thứ nhất, đề xuất cần có các chính sách, quy định về miễn, giảm thuế, phí hợp lý liên quan đến mua bán nợ xấu và các tài sản bảo đảm tiền vay (đặc biệt là thuế VAT); Miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 2 năm đối với các TCTD sau khi thực hiện mua lại, sáp nhập, hợp nhất; Miễn, giảm thuế, phí hợp lý đối với QTDND nhằm khuyến khích các TCTD tham gia tích cực vào quá trình xử lý các TCTD yếu kém, hỗ trợ các TCTD giảm gánh nặng về tài chính trong quá trình cơ cấu lại và xử lý nợ xấu.

Thứ hai, thực hiện cho vay, hỗ trợ nguồn vốn với mức lãi suất hợp lý dưới hình thức tái cấp vốn đối với các TCTD tham gia tái cơ cấu các TCTD yếu kém từ nguồn tiền cung ứng của NHNN để bảo đảm khả năng chi trả và tạo nguồn vốn cho mở rộng hoạt động.

Thứ ba, kiến nghị cho phép TCTD yếu kém, các TCTD tham gia xử lý các TCTD yếu kém thực hiện có lộ trình việc trích lập dự phòng rủi ro theo quy định nhằm hỗ trợ về thời gian cho TCTD khắc phục tồn tại tài chính cũng như hỗ trợ các TCTD tái cơ cấu, sáp nhập, hợp nhất giảm bớt áp lực về thời gian xử lý tổn thất.

Thứ tư, cho phép các TCTD yếu kém, các TCTD tham gia xử lý các TCTD yếu kém (thông qua sáp nhập, hợp nhất) được duy trì và có lộ trình xử lý một số vi phạm phát sinh do việc sáp nhập, hợp nhất, cơ cấu lại như sở hữu cổ phần, cấp tín dụng … vượt giới hạn, chưa đáp ứng đầy đủ các tỷ lệ an toàn hoạt động.

2.6. Khuôn khổ pháp lý cho sự can thiệp của Nhà nước trong xử lý các TCTD yếu kém

Thứ nhất, cần xác lập cơ chế cho phép NHNN mua lại cổ phần tại một số NHTMCP để góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp nhà nước trong việc thoái vốn khỏi lĩnh vực ngân hàng, của các cổ đông hiện đang sở hữu cổ phần vượt tỷ lệ, cũng như sự ổn định của hệ thống ngân hàng sau khi các cổ đông thoái vốn, tăng tính hiệu quả và đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu các TCTD.

Thứ hai, áp dụng biện pháp phá sản một số TCTD, trước hết là đối với các TCTD phi ngân hàng như công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và QTDND, sau đó là các NHTM yếu kém theo quy định của pháp luật sau khi đã áp dụng các giải pháp xử lý khác nhưng không thành công hoặc không có hiệu quả kinh tế - xã hội trên cơ sở không gây các tác động lớn về mặt xã hội cũng như hệ thống. Đối với một số NHTM yếu kém, biện pháp cần làm ngay là công khai các thông tin liên quan đến các ngân hàng này để sau đó có thể xem xét cho phá sản./.
Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 2.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   16   17   18   19   20   21   22   23   ...   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương