MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN



tải về 2.4 Mb.
trang22/27
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích2.4 Mb.
#15399
1   ...   19   20   21   22   23   24   25   26   27

2. Những hạn chế

  • Các ngân hàng sau hợp nhất, sáp nhập, mặc dù đã có sự tăng lên đáng kể về quy mô vốn và tài sản nhưng các thương vụ sáp nhập, hợp nhất thời gian qua mới chỉ là sự sáp nhập, hợp nhất về mặt cơ học, chứ chưa có sự cải thiện đáng kể về mặt tài chính và quản trị.

Chúng ta đều biêt rằng tái cơ cấu chỉ có hiệu quả sau khi việc mua bán, sát nhập tạo ra một sắc diện mới cho chủ thể cũ. Phần lớn các ngân hàng được tái cơ cấu vừa qua đã có sự thay đổi ban đầu, chủ trương tái cơ cấu các tổ chức tín dụng bước đầu có hiệu quả khi tổ chức mạnh mua tổ chức yếu. Song, phải thừa nhận một thực tế, tái cơ cấu mới chỉ dừng lại ở "bình mới rượu cũ", chưa có sự thay đổi mạnh mẽ cả về chất lẫn lượng, cũng như phương thức hoạt động.

  • Tốc độ tăng nợ xấu tuy có giảm nhưng quy mô vẫn lớn.

Nợ xấu ngày càng khó xác định và đến nay vẫn chưa có biện pháp xử lý cơ bản và bài toán giải quyết “nợ xấu” vẫn nan giải. Ðề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 - 2015 đặt ra lộ trình đến năm 2015 hoàn thành cơ bản xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, mục tiêu này khó có thể thực hiện được bởi cho đến nay, mặc dù tốc độ tăng nợ xấu có giảm nhưng quy mô nợ xấu còn rất lớn, rủi ro hệ thống vẫn còn và khủng hoảng thanh khoản vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào do ảnh hưởng của nợ xấu.

Đáng chú ý, sau khi NHNN ban hành Quyết định 780 cho phép các tổ chức tín dụng cơ cấu lại nợ theo hướng giãn, hoãn kỳ hạn nợ để tránh áp lực nợ bị “nhảy nhóm”, không ít đơn vị đã lạm dụng quá mức chính sách này để tránh áp lực về số liệu nợ xấu. Chính hành vi này dẫn đến nợ xấu không được phản ánh thực chất và không trích lập đủ mức cần thiết.

Theo báo cáo tài chính ngân hàng 6 tháng đầu năm 2014, cho thấy lợi nhuận của nhiều ngân hàng sụt giảm so với cùng kỳ. Đặc biệt, nợ xấu của các ngân hàng cũng đồng loạt tăng. Theo công bố của NHNN, tỷ lệ nợ xấu trên toàn hệ thống hiện cuối tháng 6/2014 ở mức 4,17% tổng dư nợ cao hơn mức 4,07% vào cuối tháng 5/2014 và mức 3,61% cuối năm 2013. Đến thời điểm này, tổng nợ xấu đã xử lý khoảng 210.000 tỷ đồng, hiện còn lại khoảng 161.000 tỷ đồng. Nợ cũ chưa giải quyết dứt điểm lại phát sinh nợ mới. Vì vậy, nếu không giải quyết dứt điểm thì đây là điểm nghẽn của nền kinh tế; còn tồn tại nợ xấu cao thì nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn. Trong khi đó hãng xếp hạng tín dụng Moody's ước tính là 10-15%. Nợ xấu vẫn là 'ung nhọt' của các ngân hàng thương mại. Nếu xét về tỷ lệ nợ xấu, thì đáng nói nhất nằm ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần khi đa số các tổ chức có tỷ lệ vượt 3% - ngưỡng an toàn do NHNN và các tổ chức quốc tế đặt ra.

Liên quan đến nợ xấu nhiều ý kiến cho rằng việc xử lý nợ xấu hiện nay còn gặp nhiều khó khăn và chúng ta mới chỉ thực hiện khoanh vùng nợ xấu chứ chưa xử lý dứt điểm được, xử lý nợ xấu còn nhiều nan giải. Quý 4 năm ngoái khi công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) đi vào hoạt động và những khoản nợ đầu tiên được mua, người ta đã hy vọng nhìn thấy khả năng xử lý nợ xấu. Nhiều người cho rằng một cơ chế xử lý nợ đã ra đời, giống như ở các nước trong các cuộc khủng hoảng trước đây, và cơ chế này sẽ mang lại hiệu quả.

Cơ chế hoạt động của một tổ chức như VAMC ở các quốc gia khác thực chất là Nhà nước bỏ tiền ra mua nợ, ôm khoản nợ đó một thời gian, sau đó khi kinh tế phục hồi, thị trường tài chính, bất động sản ấm lên, nhưng VAMC của Việt nam không như vậy. VAMC mua nợ bằng giấy, giấy đó là trái phiếu đặc biệt, được mang lên giao dịch với Ngân hàng Nhà nước để vay tiền. Bán nợ, cầm giấy, ngân hàng vẫn phải tiếp tục đòi nợ và thêm một công đoạn mới là mỗi năm trích dự phòng rủi ro 20% tổng giá trị tờ giấy cầm ấy. Hiện VAMC đang gặp khó khăn trong việc phát mãi tài sản đảm bảo thông qua đấu giá. VAMC đã tổ chức ba lần đấu giá nhưng đều thất bại. VAMC đấu giá theo cách thông thường, giá bán không linh hoạt, nên không làm cho thị trường nợ chuyển động, thất bại là ở đó. VAMC công bố đến cuối tháng 8 năm 2014 đã mua được tổng cộng 59.000 tỉ đồng nợ xấu. Con số này có thể thấp hơn số nợ xấu phát sinh từ tháng 10 năm 2013 đến nay. VAMC ôm nợ, mà chưa xử lý được thì làm sao nợ giảm được? Cái cần hiện nay là cho VAMC một cơ chế thị trường và một nguồn lực tài chính khoảng 3.000 – 5.000 tỉ đồng để xử lý nợ xấu. Cơ chế ấy là cho phép VAMC bán đấu giá tài sản theo giá thị trường, bán đến khi có người mua. Vướng mắc này cần được tháo gỡ. Còn cứ với cách thức tiến hành hiện tại, sẽ chẳng có ngân hàng nào giải thể, phá sản vì nợ, nhưng sẽ nợ đến chết.

- Vấn đề sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng vẫn chưa được hạn chế và kiểm soát hiệu quả.

Nghị định 141/2006/NĐ-CP, ngày 22/11/2006 yêu cầu tất cả các NHTM phải có vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ đồng vào cuối năm 2010. Áp lực tăng vốn điều lệ đã buộc các ngân hàng phải liên kết với nhau thông qua nắm giữ cổ phần của nhau. Việc NHNN thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng trong một thời gian dài từ năm 2006 đến năm 2010 đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bùng nổ một cách mạnh mẽ. Để có đủ vốn cung cấp cho nền kinh tế với quy mô lớn và thường xuyên, thì các tổ chức tín dụng buộc phải liên kết sở hữu với nhau. Việc sáp nhập các tổ chức tín dụng với nhau theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 đến năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ đã khiến cho một nhóm ngân hàng hoặc cá nhân trở thành chủ sở hữu của nhiều ngân hàng khác.

Hiện trạng mạng lưới sở hữu chéo ở Việt Nam vẫn đang hết sức phức tạp, đã tạo thành một ma trận chằng chịt đến mức báo động, dù các quy định khống chế tình trạng này không thiếu, mà rất ít thông tin được công khai.

Trên thực tế, luật các tổ chức tín dụng năm 2010 đã có những quy định rõ ràng về vấn đề sở hữu cổ phần của các cá nhân và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, để lách luật, các tổ chức tín dụng đã hoặc thông qua trung gian để mua cổ phần của các tổ chức tín dụng đã mua cổ phần của mình, hoặc cá nhân thì tìm cách núp bóng người khác để sở hữu cổ phần ngân hàng vượt quá con số quy định là 5% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng như quy định.

Vấn đề sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam đang có xu hướng diễn biến phức tạp, tiềm ẩn rủi ro và ảnh hưởng đến an toàn hoạt động của từng tổ chức tín dụng nói riêng cũng như toàn hệ thống tổ chức tín dụng nói chung, gây cản trở nhất định đến quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng. Sở hữu chéo đã gây nên một số tác động tiêu cực đến hoạt động quản trị, điều hành, tính minh bạch trong hoạt động của một số tổ chức tín dụng gây ra những cản trở nhất định đến quá trình cơ cấu lại hệ thống.

Có nhiều ý kiến phản ánh vấn đề sở hữu chéo và sở hữu có tính lũng đoạn trong hoạt động ngân hàng ngày càng nóng hơn, nhất là khi tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.

- Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng triển khai còn chậm, chưa thật sự hiệu quả.

Thủ tướng cũng đã nhiều lần nhắc NHNN quyết liệt và đẩy nhanh tái cơ cấu. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2014 vừa qua, một lần nữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lại nhấn mạnh đến việc thúc đẩy tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, mà nếu cần thiết sẽ cho phá sản ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, có những vướng mắc vượt tầm giải quyết của ngân hàng đó, hay của chính NHNN. Nhiều chuyên gia kinh tế vẫn cho rằng, phải quyết liệt hơn nữa tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, mà trọng tâm đầu tiên vẫn là xử lý nợ xấu phải mạnh mẽ và dứt điểm. Tại các kỳ họp Quốc hội (khóa XIII) yêu cầu đặt ra là NHNN phải tạo cho được chuyển biến tích cực trong việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính gắn với thị trường chứng khoán, thị trường tài chính, bảo đảm đến năm 2015 có một hệ thống ngân hàng lành mạnh. Nhưng hơn 2 năm qua tái cơ cấu hệ thống ngân hàng chưa chuyển biến tích cực như mong đợi.


  • Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các ngân hàng chuyển biến chậm.

Bộ máy quản lý và quy trình hoạt động còn cồng kềnh với số lượng lao động và số lượng chi nhánh, phòng giao dịch quá nhiều nhưng phân bổ không hợp lý và làm việc kém hiệu quả. Ngoài ra việc triển khai mô hình mới còn chậm và trình độ nhân lực còn chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển thể chế quản trị ngân hàng hiện đại.

  • Năng lực quản trị điều hành còn nhiều hạn chế ở mọi cấp điều hành.

Trình độ quản trị ngân hàng vẫn chưa đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế. Việc thiểu các thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị, sự hạn chế về trình độ của những người điều hành vẫn là nhân tố hạn chế hiệu quả hiệu quả quản lý tại các ngân hàng. Sự thiếu rõ ràng và minh bạch trong mối quan hệ giữa hội đồng quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát cũng như chưa có được những cơ chế giải quyết triệt để dẫn tới giảm tính độc lập của ban kiểm soát khi thực hiện vai trò của mình.

Hiệp ước Basel I ra đời năm 1988, nhưng phải 17 năm sau Việt Nam mới bắt đầu thực hiện với sự ra đời của hai quyết định quan trọng: Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, ngày 19/04/2005, Quyết định này sau đó đã được thay thế bằng Thông tư 13/2010/TT-NHNN, ngày 20/05/2010 và Thông tư 19/2010/TT-NHNN, ngày 27/09/2010, về đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng; Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Các quy định này nhìn chung đã theo tinh thần của Basel I. Tuy nhiên, mức độ vận dụng Basel I của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ do thiếu hạ tầng kỹ thuật và cơ sở dữ liệu. Cụ thể, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM lớn dù đã đạt mức 8%, nhưng các tỷ lệ này được tính toán trên cở sở các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Vậy, bao giờ hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể tuân thủ hoàn toàn Basel I? Còn Basel II đến khi nào? Kinh nghiệm ở nhiều quốc gia châu Á đã triển khai Basel II cho thấy, thường phải mất từ 5 năm đến 7 năm kể từ lúc bắt đầu đến khi hoàn toàn tuân thủ. Do đó, nếu không triển khai nghiêm túc từ đầu, hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn cách đích Basel II khá xa. Trên thực tế, các NHTM tuy đã đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% theo Basel II, nhưng nếu trích lập dự phòng rủi ro đúng và đủ theo quy định của NHNN, chắc chắn tỷ lệ này sẽ sụt giảm, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi con số nợ xấu chưa xác định chính xác là bao nhiêu.

Hiện tại tỷ lệ nợ xấu, sở hữu chéo, can thiệp của chính quyền trung ương và địa phương trong hoạt động cho vay của ngân hàng, công tác thanh tra giám sát ngân hàng… chưa thực sự phản ánh chính xác hoạt động của thị trường tài chính Việt Nam.

3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế


  • Nguyên nhân từ thể chế và kinh tế vĩ mô

Hệ thống pháp luật về lĩnh vực hoạt động ngân hàng còn thiếu, chóng chéo, bất cập hoặc chậm sửa đổi, bổ sung, áp dụng những quy định quan trọng tạo điều kiện cho ngành phát triển phù hợp với các chẩn mực quốc tế và lộ trình hội nhập, như Luật phá sản, Luật Mua & Bán, Sát nhập, hợp nhất ngân hàng,…Hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng chưa có hiệu quả cao trong bối cảnh các NHTM phát triển nhanh về quy mô và hội nhập quốc tế sâu rộng. Các tiêu chuẩn cấp phép, các chuẩn mực an toàn chưa chặt chẽ, chưa kiềm chế mức độ rủi ro gia tăng trong hoạt động ngân hàng. Nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng và kỷ cương, kỷ luật, an toàn trong hoạt động ngân hàng không được đề cao. Sự thiếu minh bạch về thông tin và các hành vi cố ý làm trái quy định pháp luật trong ngân hàng chưa đuợc xử lý nghiêm.

Việc quản lý, giám sát của NHNN và Chính phủ chưa hiệu quả. Chẳng hạn theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư 19/2010/TT-NHNN về hoạt động giám sát từ xa của NHNN mới chỉ được thể hiện trong nội dung giám sát chất lượng tài sản bằng việc thống kê các khoản nợ quá hạn, hoặc trong việc giám sát các giới hạn tín dụng của NHTM mà điều này chưa đủ để đánh giá mức độ rủi ro tín dụng của NHTM, vì cần phải có thêm những đánh giá định tính khác như đánh giá tiêu chuẩn cấp tín dụng và đánh giá quy trình cấp tín dụng của ngân hàng. Hoạt động giám sát của NHNN đối với các NHTM chủ yếu vẫn mang tính theo dõi, giám sát một cách riêng lẻ với từng ngân hàng, mà chưa thấy được xu hướng chung của cả hệ thống; chưa chú trọng vào hoạt động cảnh báo sớm của các NHTM. Do vây, rủi ro hệ thống và khủng hoảng thanh khoản có thể xẩy ra bất cứ lúc nào do ảnh hưởng của nợ xấu vẫn còn.

Kinh tế vĩ mô tuy bước đầu có sự phục hồi, song sự chuyển biến chưa thực sự rõ nét, thể hiện: thị trường bất động sản chưa được phá băng, hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, sức mua còn thấp, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn rất thấp,… nên việc việc xử lý nợ xấu còn nhiều khó khăn. Cùng với nó là thị trường tài chính trong nước và quốc tế vẫn còn nhiều khó khăn nên việc huy động các nguồn vốn và tìm kiếm các nhà đầu tư cũng hạn chế.


  • Nguyên nhân từ các NHTM

Chưa chủ đông tự tái cơ cấu, nợ xấu chưa được xác định một cách đầy đủ, chưa thực sự nghiêm túc chấp hành những quy định về cho vay và đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Trình độ và năng lực của các cấp lãnh đạo, cũng như nhân viên còn nhiều hạn chế, chưa nỗ lực trong việc phát triển sản phẩm, dịch vụ mới, chưa tìm ra hướng đi riêng trong hoạt động ngân hàng.

Việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng và xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém là vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của nhiều bên và mất nhiều thời gian với nhiều thủ tục, quy định. Do vậy, việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, việc xử lý cần có lộ trình, từng bước, thận trọng và bằng nhiều giải pháp đồng bộ, nhưng cũng cần quyết liệt hơn nữa.



III. KHUYẾN NGHỊ

Để đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng trong những thời gian còn lại của đề án để đạt được những mục tiêu đã định, xin có một số khuyến nghị sau:



  1. Hoàn thiện môi trường pháp lý

Rà soát hệ thống văn bản pháp lý theo hướng đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đồng thời vẫn đảm bảo tính đặc thù của nền kinh tế Việt nam, tạo điều kiện thông thoáng cho các NHTM Việt nam, nâng cao hiệu lực quản lý.

Chẳng hạn hệ thống pháp luật về M&A. Tuy những quy định pháp luật hiện hành đã đề cập đến hoạt động M&A, nhưng khái niệm chưa được chuẩn hóa, chưa thống nhất với các văn bản khác. Các quy định này mới chỉ dừng lại ở việc xác lập về mặt hình thức của hoạt động M&A. Nhưng bản chất của M&A là một giao dịch thương mại, tài chính, đòi hỏi phải có những quy định cụ thể như: kiểm toán, định giá, tư vấn, môi giới, cung cấp thông tin, bảo mật, chuyển giao xác lập sở hữu, chuyển dịch tư cách pháp nhân, cổ phần , cổ phiếu, các nghĩa vụ tài chính, thương hiệu , cơ chế giải quyết tranh chấp,… Hiện cũng chưa có các văn bản hướng dẫn các thủ tục, quy trình M&A rõ ràng, cụ thể, gây khó khăn trong việc xác lập các giao dịch, địa vị mỗi bên mua bán cũng như hậu quả pháp lý sau M&A. Hoặc vấn đề sử hữu chéo cần có văn bản pháp quy cũng như việc kiểm soát việc thực thi các điều khoản quy định. Ví dụ bổ sung thuật ngữ sở hữu chéo vào trong Thông tư 13/2010/TT-NHNN đồng thời hình sự hóa các vấn đề liên quan đến sở hữu chéo để ngăn ngừa hành vi này (bổ sung vào luật dân sự). Hoàn thiện các văn bản pháp lý khác chi phối hoạt động của các NHTM, đến việc đổi mới hệ thống quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro, minh bạch hóa trong hoạt động ngân hàng.



  1. Nâng cao vai trò định hướng, quản lý, giám sát của NHNN và Chính phủ

NHNN cần tham gia, hỗ trợ sâu hơn để xử lý những vấn đề liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau. Ví dụ, một khoản nợ xấu có thể do một vài nhân hàng quản lý, khi giải quyết mỗi ngân hàng đều cố gắng giành phần lợi cho mình, dẫn đến những chi phí phát sinh không đáng có. Trong trường hợp này NHNN cần tham gia với vai trò tư vấn, sắp xếp, góp phần đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và giảm chi phí xã hội phát sinh. Hoặc trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, đó là vấn đề huy động vốn. Việc tăng vón có thể dẫn tới tình trạng sở hữu chéo ngày càng trầm trọng. Do vậy, việc kiểm soát từ xa, giám sát tại chỗ NHNN phải kiểm soát được tính minh bạch của các luồn tiền khi NHTM tăng vốn. Vấn đề nợ xấu, NHNN cần đôn đốc, giám chặt chẽ qúa trình bán, xử lý nợ xấu giữa các NHTM và VAMC theo đề án Chính phủ đã phê duyệt.

Chính phủ theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng một cách thường xuyên. Chính phủ cho triển khai cổ phần hóa sâu rộng hơn bằng cách bớt tỷ lệ sở hữu của Nhà nước trong các ngân hàng đã cổ phân hóa là: VCB, BIDV, Vietinbank và MHB. Đối với NHTM Nhà nước lớn nhất Việt Nam – Agribank cần được cổ phần hóa, nhưng vẫn đảm bảo Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Bởi hoạt động của Agribank chưa hiệu quả, nợ xấu cao. Tuy nhiên, trước khi cổ phần hóa cần được tái cấu trúc lại, phấn đấu giảm nợ xấu.

Từng bước nâng dần tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với NHTM trong nước, đặc biệt là những định chế tài chính quốc tế có uy tín, với những kinh nghiệm, nguồn lực (về con người, quản trị rủi ro, phát triển sản phẩm, tiếp cận thị trường vốn quốc tế) sẽ là nhân tố thúc đẩy phát triển hệ thống ngân hàng Việt nam.


  1. Đối với việc xử lý nợ xấu

Một trong những vấn đề mang tính quyết định đối với chương trình tái cơ cấu hệ thống và cũng là nhiệm vụ nặng nề đối với các tổ chức tín dụng là phương án xử lý nợ xấu. Để xử lý tận gốc vấn đề nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng, trước mắt cần minh bạch hóa thông tin nợ xấu của từng tổ chức tín dụng. Để thực hiện vấn đề này, NHNN phải có biện pháp kiểm tra và giám sát chặt chẽ hoạt động của từng tổ chức tín dụng, đảm bảo các thông tin về nợ xấu do các tổ chức này cung cấp phải phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế. Tăng cường công tác thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng chấp hành các quy định về hoạt động ngân hàng, xử lý nợ xấu; đổi mới về tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế; ban hành các cơ chế, quy định an toàn hoạt động ngân hàng như phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, quy chế cho vay, mua trái phiếu doanh nghiệp,ủy thác; xử lý dứt điểm tình trạng sở hữu chéo giữa các tổ chức tín dụng... Cần có biện pháp xử phạt thích đáng đối với các tổ chức tín dụng vi phạm.

Đối với các tổ chức tín dụng cần tích cực xử lý nợ xấu: thường xuyên đánh giá lại, phân loại đúng chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ; tiếp tục cơ cấu lại nợ; hỗ trợ vốn để khách hàng khắc phục khó khăn và phục hồi sản xuất kinh doanh; kiểm soát chặt chẽ và giảm chi phí hoạt động; tăng cường trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu; các tổ chức tín dụng tăng cường năng lực quản trị rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng, nhằm hạn chế nợ xấu mới phát sinh, đồng thời phối hợp chặt chẽ với công ty Quản lý tài sản (VAMC) để triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp xử lý nợ xấu theo quy định của pháp luật. Đối với khách hàng vay: củng cố, chấn chỉnh, tái cơ cấu hoạt động, nâng cao năng lực tài chính, quản trị, tăng cường ứng dụng công nghệ và khả năng cạnh tranh; phối hợp với tổ chức tín dụng xây dựng và triển khai các phương án cơ cấu lại nợ.

NHNN điều hành linh hoạt, thận trọng chính sách tiền tệ, tín dụng; triển khai các giải pháp xử lý hàng tồn kho, nợ đọng trong xây dựng cơ bản; khuyến khích đầu tư, tiêu dùng, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; phát triển thị trường bất động sản; chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan đề xuất xây dựng và ban hành chính sách về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng đối với công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam và hoạt động mua, bán tài sản bảo đảm để thúc đẩy phát triển thị trường mua bán nợ và hỗ trợ xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng cũng như sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện một số quy định liên quan đến giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm và các quyền của chủ nợ, nghĩa vụ của bên vay, bên bảo đảm tại Luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự.

VAMC đã được thành lập hơn một năm, cho tới nay mới phát huy tác dụng ở góc độ là góp phần làm sạch bảng cân đối tài sản của các tổ chức tín dụng trước mắt, trong ngắn hạn để giúp chúng trở nên lành mạnh hơn nhằm khai thông tín dụng cho nền kinh tế và giúp hệ thống ngân hàng hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài hơn. VAMC đang vừa làm vừa điều chỉnh, và nhiệm vụ chính cũng chỉ là cái túi để nợ xấu của ngành ngân hàng. Muốn VAMC giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu thì tốt nhất là hãy tạo ra một sân chơi chung, rộng hơn về quy mô và thông thoáng hơn về luật lệ với sự tham gia của các tổ chức AMC hiện thời hay sẽ thành lập từ nhiều nguồn lực khác mà không nhất thiết phải làm tổn hại đến ngân sách nhà nước. Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thuận lợi để cho các tổ chức quốc tế cũng như cá nhân quan tâm đến việc đầu tư vào các khoản nợ xấu này có cơ hội tiếp cận. Theo đó, để đẩy nhanh việc bán nợ xấu cho đối tác ngoại thì các thủ tục hành chính, pháp lý cũng cần phải được cải cách theo hướng đơn giản và rút gọn hơn để tạo thuận lợi nhất cho nhà đầu tư sau khi họ quyết định mua. Cần phải nhận thức được rằng Việt Nam cần phải tìm một giải pháp toàn diện, triệt để, và hữu hiệu hơn cho vấn đề nợ xấu, chứ không nên đơn thuần quan niệm rằng thành lập VAMC là điều kiện cần và đủ để giải quyết vấn đề này, hoặc đặt quá nhiều hy vọng vào VAMC trong việc giải quyết nợ xấu.

Vấn đề xử lý nợ xấu đến nay được hy vọng hơn khi NHNN - Bộ Tư pháp - Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư 16 hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 22 tháng 7 năm 2014. Theo thông tư, tổ chức tín dụng được trao quyền rộng hơn so với trước trong quá trình xử lý tài sản của khách hàng để thu hồi nợ như được quyền bán tài sản không qua đấu giá, quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã hỗ trợ việc thu giữ tài sản, quyền ký trên các giấy tờ chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong trường hợp bên bảo đảm không tự nguyện thi hành... Song, một vấn đề đặt ra liệu các tổ chức tín dụng có thể tự mình tiến hành theo những quy phạm pháp luật nêu trên hay vẫn phải trông chờ vào sự phối hợp của các ngành hữu quan. Trên thực tiễn việc thi hành án dân sự cho thấy hiệu lực pháp luật trong quá trình xử lý thu hồi nợ xấu theo các quyết định tòa tuyên án hiện vẫn còn quá nhiều bất cập. Đây là lý do còn hoài nghi Thông tư 16 liệu có đi vào cuộc sống hay không.

Đã đến lúc cần hình thành một thị trường mua bán nợ giữa các doanh nghiệp ngoài các tổ chức tín dụng.



  1. Về sở hữu chéo

Phải xác định sự tồn tại sở hữu chéo là một tất yếu khách quan, đặc biệt là trong tiến trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, cần cấp bách giải quyết vấn đề tiêu cực trong sở hữu chéo đang hình thành một cách mạnh mẽ, khó kiểm soát hiện nay. Có 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng, đó là thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo, từ đó dẫn đến rủi ro mang tính hệ thống.

Vấn đề sở hữu chéo của các tổ chức tín dụng Việt Nam cần được xử lý từng bước, thận trọng và bằng nhiều giải pháp đồng bộ. Trước hết, cần phải đánh giá đúng thực trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng. Muốn vậy, phải minh bạch hóa thông tin về tỷ lệ và đối tượng sở hữu, thậm chí cần phải cưỡng chế bằng những biện pháp hành chính, cũng như xử phạt nặng đối với các cá nhân và tổ chức tín dụng tìm cách lách luật, lạm dụng vấn đề sở hữu chéo để vi phạm pháp luật, tư lợi cá nhân, thao túng thị phần, làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng. NHNN coi việc thúc đẩy các NHTM nhanh chóng niêm yết trên sàn chứng khoán là biện pháp để minh bạch hóa hoạt động của ngân hàng. NHNN phải có kế hoạch buộc các NHTM phải có lộ trình hiện thực hóa quá trình niêm yết. Để góp phần giải quyết tình trạng cổ đông lớn chi phối và biểu hiện gia đình trị trong hệ thống, cần thúc đẩy nhanh tiến trình lên sàn niêm yết của tất cả các NHTM cổ phần. Đồng thời, nên nới “room” sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Có rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu để chỉnh sửa. Ví dụ, vấn đề hệ thống giám sát tài chính, vấn đề minh bạch hóa thông tin, vấn đề tách ra đến mức nào giữa cái gọi là ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Tình trạng nhập nhèm giữa chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay cũng là một trong những yếu tố gây nguy hại cho toàn hệ thống. Việc các ngân hàng thương mại tham gia đầu tư là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính thời gian qua.


  1. Каталог: Uploads -> Articles04
    Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
    Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
    Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
    Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
    Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
    Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
    Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
    Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
    Articles04 -> Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ
    Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

    tải về 2.4 Mb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   19   20   21   22   23   24   25   26   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương