MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN


V. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI CƠ CHẾ PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ NHÀ NƯỚC VÀ TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ



tải về 2.4 Mb.
trang17/27
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích2.4 Mb.
#15399
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   27

V. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI CƠ CHẾ PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ NHÀ NƯỚC VÀ TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH TÁI CƠ CẤU ĐẦU TƯ

1. Hoàn thiện hệ thống khung pháp lý cho quản lý đầu tư công

Cần nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm đẩy nhanh các nội dung tái cơ cấu đầu tư công nói chung và đổi mới phân cấp quản lý đầu tư công nói riêng.

Một số nội dung hiện có trong khuôn khổ pháp lý hiện nay cũng cần được điều chỉnh nhằm tăng hiệu quả thực hiện các chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm được phân cấp ở các Bộ, ngành và địa phương.

Chuẩn hóa quy trình hình thành, phê duyệt, tổ chức triển khai, vận hành duy tu bảo dưỡng một dự án đầu tư công.

Hoàn hiện cơ chế pháp lý cần thiết cho việc thực hiện quản lý, cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn.

2. Đổi mới công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển

Cách làm quy hoạch hiện nay vừa làm tăng tính cục bộ của các bộ, ngành, địa phương vừa làm giảm kỷ luật và khả năng phối hợp của trung ương. Kết quả là nguồn lực đầu tư công của quốc gia trở nên phân tán, chồng chéo, kém hiệu quả.

Đổi mới việc lập quy hoạch theo hướng:


  • Xác định rất rõ ràng các mục tiêu và ưu tiên chiến lược của đầu tư công, để từ đó có cơ sở loại bỏ những đề xuất đầu tư không thích hợp ngay từ đầu.

  • Xác lập cân đối ưu tiên giữa quy hoạch kinh tế với quy hoạch xã hội (đặc biệt là giáo dục, y tế và môi trường).

  • Quy hoạch phải có tính khả thi, nghĩa là những đề xuất đầu tư nhưng không có cơ sở rõ ràng và thuyết phục về nguồn lực sẽ không được đưa vào trong quy hoạch.

  • Tuân thủ kỷ luật quy hoạch, nghĩa là không cho phép điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nếu như không có luận chứng thực sự xác đáng.

  • Quy hoạch phải có tính điều phối giữa các cấp, các ngành. Cụ thể là các quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ đặc biệt, địa phương v.v. phải có đầu mối tổng hợp và phối hợp để tránh sự chồng chéo, phân tán.

  • Cần cơ chế để thực hiện yêu cầu thẩm định độc lập với những dự án quy hoạch có vai trò quan trọng trong phát triển ngành, lĩnh vực, địa phương.

3. Tăng cường công tác thẩm định, đánh giá kết quả kinh tế xã hội của dự án

Tập trung thẩm quyền và năng lực thẩm định dự án vào một cơ quan quản lý, tốt nhất là Bộ Tài chính hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Áp dụng các chuẩn mực quốc tế về thẩm định dự án đối với tất cả các dự án đầu tư công.

Áp dụng chế độ thẩm định khác nhau với ba nhóm dự án

Xây dựng bộ tiêu chí để đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội cho các nhóm dự án để làm căn cứ cho việc đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án cũng như có thể so sánh được giữa các dự án.

4. Đổi mới cơ chế lựa chọn dự án và lập kế hoạch ngân sách

Cần tiếp tục tuân thủ nguyên tắc chỉ phê duyệt dự án nếu như nó có phương án bố trí nguồn vốn đầy đủ và đáng tin cậy.

Bộ Tài chính (phối hợp với các bộ ngành hữu quan) cần thẩm định chặt chẽ về khả năng bố trí vốn, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư công quan trọng.

Có chế tài xử lý nghiêm minh các trường hợp quyết định chủ trương đầu tư không đúng quy định, bố trí dự án khi chưa cân đối được nguồn vốn.



5. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân cấp trong đầu tư công

Phân cấp nhiều hơn cho các Bộ, ngành và địa phương không có nghĩa là các cơ quan, đơn vị này có thể phê duyệt mọi dự án. Yêu cầu về bố trí vốn theo thẩm quyền quản lý vốn nhằm tránh việc phê duyệt dự án tràn lan. Tuy nhiên, ngay cả khi các dự án bố trí đủ vốn thì vai trò điều phối ở cấp vùng và cấp toàn quốc là rất cần thiết để tránh dự án trùng lặp, đồng thời giúp từng dự án được phê duyệt sẽ mang lại tính hiệu quả ngay cả sau khi hoàn thành. Chính ở đây, Quốc hội cần thể hiện vai trò mạnh mẽ hơn trong việc đưa ra các chủ trương lớn về các dự án quan trọng ở tầm quốc gia và giám sát quá trình thực hiện các dự án đó.



6. Tăng cường vai trò của các bên hữu quan trong giám sát đầu tư công

Nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác giám sát các dự án đầu tư nhà nước thông qua việc tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, công tác kiểm toán các dự án đầu tư công cũng như cơ chế giám sát của người dân và các tổ chức xã hội đối với hoạt động đầu tư công.



7. Tăng cường kỷ luật trong thực hiện các dự án đầu tư công

Tăng cường hiệu quả của việc triển khai dự án.

Siết chặt kỷ luật đối với việc điều chỉnh dự án.

Tăng cường trách nhiệm với việc quản lý vận hành dự án.



8. Tăng cường hoạt động kiểm toán và đánh giá sau khi dự án kết thúc

Quy định đánh giá và kiểm toán dự án sau khi hoàn thành là một khâu quan trọng, không thể tách rời của quy trình quản lý đầu tư công.

Xem xét việc rút ngắn thời gian đánh giá và kiểm toán dự án để tăng hiệu lực của các biện pháp chế tài đối với những sai phạm nếu có./.




ĐỔI MỚI CƠ CHẾ PHÂN BỔ VỐN ĐẦU TƯ CÔNG, CHÚ TRỌNG ĐẦU TƯ TƯƠNG XỨNG: ĐỘT PHÁ PHÁT TRIỂN TAM NÔNG “NÔNG NGHIỆP – NÔNG DÂN – NÔNG THÔN”

CEO Đặng Đức Thành

Chủ nhiệm Câu lạc bộ Các nhà kinh tế (VEC)

Ủy viên BCH Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Nghị quyết hội nghị Trung ương 7 khóa X Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 07-2008 đánh giá nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam: “Đóng vai trò chiến lược, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội”.

Nhiều năm qua, nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn đóng vai trò trụ đỡ vững chắc cho nền kinh tế trước nhiều ảnh hưởng bất lợi từ bên ngoài. Giáo sư Michael Porter (Chuyên gia về lợi thế cạnh tranh quốc gia của Đại học Harvard – Hoa Kỳ) khi được hỏi có điều gì đáng nói nhất về Việt Nam, Giáo sư đã trả lời: lao động và nông nghiệp (trả lời Đài Truyền hình Việt Nam).



  1. Sơ lược tình hình ngành nông nghiệp năm 2013

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê ngày 22-12-2013: “Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2013 bị ảnh hưởng lớn của thời tiết nắng hạn kéo dài đầu năm và tình trạng xâm nhập mặn diễn ra ở nhiều địa phương phía Nam làm hàng trăm nghìn hecta lúa, hoa màu và cây công nghiệp bị ngập úng, dẫn đến năng suất nhiều loại cây trồng giảm so với năm trước. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ sản phẩm cả trong và ngoài nước bị thu hẹp; giá bán nhiều sản phẩm, nhất là sản phẩm chăn nuôi, thủy sản ở mức thấp trong khi giá vật tư, nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng cao gây nhiều khó khăn cho phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn xảy ra rải rác ở khắp các địa phương gây tâm lý lo ngại cho người nuôi. Do đó, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt mức thấp hơn năm trước.

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2013 theo giá so sánh với năm 2010 ước tính đạt 801,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,95% so với năm 2012, bao gồm: nông nghiệp đạt 602,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,47%; lâm nghiệp đạt 22,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,04%; thủy sản đạt 176,5 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2%.”

“Về cơ cấu quy mô nền kinh tế cả năm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 18,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,3% và khu vực dịch vụ chiếm 43,3%” (năm 2012 các tỷ trọng tương ứng là 19,7%, 38,6% và 41,7%).

Thời gian qua Việt Nam đã trở thành một trong các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về các mặt hàng như gạo, cao su, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, sản phẩm gỗ và các sản phẩm thủy sản.

Tuy nhiên chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại sản phẩm còn thấp, đa phần nông sản xuất khẩu dưới dạng gia công, dạng thô chưa tăng giá trị, chưa có thương hiệu, không đảm bảo chất lượng…


  1. Hàng loạt những câu hỏi đang chờ lời giải đáp.

1. Vì sao giá gạo xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn so với giá gạo thế giới?

2. Vì sao cần phải xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam? (Trong đó có cây lúa Việt Nam).

3. Vì sao giá cả của nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi biến động liên tục làm cho người chăn nuôi gánh chịu nhiều rủi ro? (Chiều hướng tăng…).

4. Vì sao người nông dân Việt Nam trồng trọt cây lúa không giàu lên trong khi Việt Nam đang xuất khẩu lúa gạo ngày càng tăng? (Thậm chí người nông dân ngày càng có nhiều khó khăn?).

5. Vì sao nước ta đã chủ động sản xuất được phần lớn nhu cầu phân urê (cung cấp đủ cho nhu cầu); nhưng người nông dân vẫn mua phân urê với giá cao?

6. Cần làm gì để cứu ngành nông nghiệp? Giá gà bán rẻ hơn rau? Ngành chăn nuôi bế tắc? Sản xuất nông nghiệp trước nguy cơ đình đốn? Nguy cơ vỡ nợ hàng loạt trong ngành cà phê… Giá nhiều mặt hàng nông sản, thực phẩm rớt thảm hại dẫn đến người sản xuất thua lỗ?...

7. Vì sao hạt gạo Việt Nam ngày càng mất giá? (Trên thị trường thế giới) – (Hiện nay, giá gạo Việt Nam đang thuộc nhóm thấp nhất thế giới, thậm chí còn thấp hơn cả gạo cùng loại của Ấn Độ, Pakistan…).

8. Vì sao chương trình GlobalGAP Việt phá sản từ trứng nước? (Hàng loạt chương trình phá sản).

9. Vì sao đầu tư cho nông nghiệp – nông dân, nông thông Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng phát triển? (Chỉ đáp ứng 55 – 60% yêu cầu)

10. Biện pháp đột phá nào nhằm nâng cao khả năng thu hút FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) vào khu vực nông thôn Việt Nam? (Hiện nay đang rất hạn chế)

11. Người nông dân Việt Nam cần Nhà nước hỗ trợ gì?

12. Vì sao chất lượng và khả năng cạnh tranh của nhiều loại sản phẩm nông nghiệp Việt Nam còn thấp?

Phần lớn nông sản xuất khẩu ở dạng sơ chế; xuất khẩu thô chưa qua chế biến; giá trị gia tăng rất thấp; chưa có thương hiệu; mẫu mã bao bì không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật.

13. Vì sao hiệu quả sản xuất nông nghiệp giảm? Nông dân giảm động lực sản xuất?

14. Vì sao sản xuất nông nghiệp chưa trở thành là một trong những động lực quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng bền vững?

C. Các biện pháp đột phá trong lĩnh vực nông nghiệp – nông dân – nông thôn

Có rất nhiều công việc cần giải quyết và có rất nhiều biện pháp cần triển khai thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp – nông dân – nông thôn. Tuy nhiên đề xuất cần có các biện pháp đột phá tập trung.



  1. Thực hiện quy hoạch chi tiết tổng thể ruộng đất, vùng nuôi trồng

Đây là một trong những biện pháp quyết định giải quyết vấn đề “Đầu ra cho nông sản phẩm” thông qua công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu thổ nhưỡng đất đai từng vùng, miền phù hợp với sản xuất cây gì? Con gì?… Trên cơ sở công tác điều tra khoa học và tổng hợp nhu cầu sản lượng cần cho xuất khẩu, nhu cầu sử dụng nội địa, nhu cầu dự trữ an ninh lương thực quốc gia để có thể định ra quy hoạch tổng thể từng vùng, miền cho những mặt hàng nông sản phẩm chủ lực. Chú ý phân tích chất lượng đất, xây dựng bản đồ kỹ thuật hạ tầng địa chất, trên cơ sở đó xây dựng bản đồ đất nông nghiệp. Quy hoạch tổng thể vùng, miền trong sản xuất nông nghiệp phải được xem là kim chỉ nam và xem là pháp lệnh để quản lý đất đai và điều hành sản xuất nông nghiệp. Hạn chế tối đa việc chuyển quyền sử dụng đất với mục đích khác mục đích sản xuất nông nghiệp.

Cần công bố công khai quy hoạch kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp, quy hoạch rừng. Chú trọng quy hoạch vùng trồng lúa, vùng trồng cà phê, vùng trồng cây cao su và những mặt hàng nông sản chủ lực…

Trong một thời gian nhất định (từ 05 năm) hoặc khi có những biến động lớn của thị trường nông sản thế giới cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch diện tích vùng sản xuất các mặt hàng chủ lực nông sản phẩm cho phù hợp.

Hiện nay luật đất đai chỉ mới quy định quyền cho thuê ruộng đất đối với hộ gia đình và cá nhân, còn đối với các công ty thì quyền này không được đề cập. Nhà nước cần bổ sung quy định: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên sản xuất và kinh doanh nông sản phẩm cũng được giao ruộng đất ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, Nhà nước cần xóa bỏ chính sách hạn điền để có thể tích tụ ruộng đất, từ đó mới phát triển sản xuất hàng hóa lớn được. Cần phải gia tăng thời hạn giao đất từ 50 năm trở lên, thay vì 20 năm trước đây làm khó khăn cho việc góp vốn liên doanh bằng giá trị, quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất.

Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp: phải hạn chế tối đa lấy đất nông nghiệp chuyển sang đầu tư khu công nghiệp và dịch vụ (sân golf…). Hiện nay, nhiều nơi quy hoạch khu công nghiệp, sân golf nhưng nhiều năm bị bỏ không, không khai thác được, trong khi đất cho sử dụng sản xuất nông nghiệp thì lại thiếu. Đồng thời quy hoạch sau khi được xây dựng kỹ lưỡng sẽ phải trở thành pháp lệnh.

Cần thiết phải quy hoạch tổng thể, vùng ruộng đất, vùng nào sản xuất cây gì? Chăn nuôi con gì?

Hiện nay, bình quân mỗi hộ nông dân (với 05 nhân khẩu) ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ sở hữu 01 ha đất, đất manh mún khó thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp.

Qua tổng kết thực hiện trên khoảng 100 ha cánh đồng mẫu tại chợ mới An Giang vụ hè thu 2008, thu hoạch năng suất rất cao 09 tấn lúa/ha, (thay vì trước đây 7 đến 8 tấn/ha). Với diện tích lớn sử dụng máy móc nông nghiệp, tiết kiệm được khoảng 20% phân bón và các loại phí khác.

Trên cơ sở khảo sát kỹ lưỡng các số liệu hàng năm dựa trên thu hoạch từng vùng, trong sản xuất trong nước, trong xuất khẩu, sau khi cân đối dự trữ dành cho an ninh lương thực, các chuyên gia của các sở, ngành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu các mặt hàng nông nghiệp chủ lực, đề ra quy hoạch những vùng trọng điểm cho từng sản phẩm chủ lực: cà phê, chè, tiêu, lúa,…

Tình trạng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp tự phát, chạy theo phong trào, sản xuất tự phát theo tín hiệu thị trường ngắn hạn dẫn đến sản phẩm các mặt hàng nông sản chủ lực: lúa gạo, cà phê, tiêu, điều,… rơi vào tình trạng lúc thừa, lúc thiếu, “lúc trồng, lúc chặt bỏ”.

Để chủ động khắc phục được tình trạng này, một trong những biện pháp quan trọng quyết định là quy hoạch lại tổng thể ruộng đất, quy hoạch vùng sản xuất, chăn nuôi.

Đặt vấn đề quy hoạch tổng thể ruộng đất, vùng nuôi trồng không phải là vấn đề mới, nhưng cần thiết phải tổ chức lại, trên cơ sở xem xét kỹ lưỡng những biến động trong thực tế nhiều năm qua. Mặt khác, cần có những biện pháp chế tài hoặc khuyến khích chặt chẽ thực hiện quy hoạch quy hoạch đất nông nghiệp như:



  1. Chính phủ chỉ đạo ngành ngân hàng chỉ cho các đơn vị, hộ sản xuất nông nghiệp vay tiền khi các hộ sản xuất này tổ chức sản xuất đúng theo quy hoạch vùng trồng trọt, chăn nuôi áp dụng gần giống như quy hoạch sử dụng đất ngành xây dựng, nơi nào đất được dùng làm nhà, nơi nào đất chỉ được xây dựng trường học, nơi nào đất chỉ được quy hoạch trồng cây xanh, công viên, nơi nào đất chỉ được chăn nuôi thủy sản…

  2. Từ việc thực hiện chặt chẽ theo quy hoạch vùng sản xuất, ngành sẽ chủ động sản xuất ra số lượng nông sản phẩm có hạn, chủ động được giá đầu ra. Từ đó khắc phục tình trạng dư thừa nông sản phẩm “được mùa mất giá, được giá thì mất mùa” kể cả chủ động trong dự trữ hàng, đảm bảo an ninh lương thực.

  3. Khi được hưởng chế độ vay ưu đãi, hưởng chế độ hỗ trợ lãi suất trong gói kích cầu của Chính phủ dành cho nông nghiệp, dành cho đầu tư máy móc, thiết bị dùng cho sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cùng ngành ngân hàng sẽ không áp dụng chế độ hỗ trợ đối với hộ nông dân, đơn vị sản xuất nông nghiệp ở những nơi không chấp hành quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp, kể cả kinh phí dành cho đào tạo nghề.

  4. Rà soát lại, kiên quyết thu hồi đất nông nghiệp không sử dụng đúng theo quy hoạch. Nhất là các dự án sân golf, dự án xây dựng khu công nghiệp, đầu tư “xí đất” trong thời hạn có hiệu lực của việc triển khai thực hiện dự án nhưng chậm hoặc không triển khai.

  5. Nhà nước phải gắn việc giao nhiệm vụ cho các Lãnh sự quán, các Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước, các vùng trọng điểm sản xuất và xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ lực của nông sản trên thế giới.

Các tham tán thương mại phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nắm chắc những biến động về thu hoạch, về tồn kho tại các nước sở tại.

Trên cơ sở đó, cung cấp dịch vụ thông tin (có thu tiền phí dịch vụ). Định kỳ hàng quý hoặc khi có những biến động mạnh sẽ xuất bản đột xuất những bản tin đưa ra những dự báo chính xác về tình hình sản xuất và tiêu thụ nông sản, vật tư nguyên liệu có liên quan đến các mặt hàng chủ lực xuất nhập khẩu nông sản phẩm của Việt Nam. Từ đó các nhà kinh doanh Việt Nam có cơ sở tham khảo, tránh được những rủi ro đem đến do biến động thất thường của giá cả thế giới.



  1. Giải quyết vấn đề chủ động “tiền” cho người nông dân

Nhà nước có thể giải quyết vấn đề chủ động đất đai cho sản xuất quy mô lớn của người nông dân bằng cách khuyến khích thành lập càng nhiều các công ty trách nhiệm hữu hạn càng tốt; thành lập các công ty cổ phần với chức năng tổ chức sản xuất nông nghiệp và kinh doanh các mặt hàng sản phẩm nông nghiệp tại các địa bàn trọng điểm tại các vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh khác… (có nghĩa là thành lập các doanh nghiệp nông nghiệp). Các công ty này thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp được đăng ký tại các Sở Kế hoạch và Đầu tư của các tỉnh, thành phố.

Hiện nay trong thực tế đã và đang có mô hình “trang trại” và mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Đây là một hình thức cấp thấp (trước khi chuyển sang mô hình công ty) nhưng cũng đạt một số hiệu quả nhất định: đã tập trung vốn (chủ động được tiền), tập trung diện tích đất nông nghiệp lớn để có thể tiến hành cơ giới hóa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp có đủ điều kiện pháp lý vay vốn ngân hàng. Một số địa phương đã hình thành được khu vực nông sản chuyên canh hàng hóa chủ lực: cà phê, lúa cao cấp, tiêu, điều… vùng sản xuất bưởi Năm Roi, vú sữa Lò Rèn xuất khẩu.

Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và thể chế hóa bằng luật pháp, tạo điều kiện cho việc thành lập các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (mô hình doanh nghiệp nông nghiệp). Ví dụ mô hình một công ty sở hữu diện tích tổ chức sản xuất từ 100 hecta trở lên đến 500 hecta và hơn thế nữa tổ chức sản xuất phù hợp cho quy mô áp dụng cơ giới trong sản xuất nông nghiệp tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.

1. Với tư cách chủ thể của một loại mô hình doanh nghiệp là “doanh nghiệp nông nghiệp” ngân hàng có thể quản lý tập trung cho doanh nghiệp vay đầu tư, thậm chí sau một thời gian xem xét hoạt động, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp nông nghiệp được vay tín chấp một phần nào, thay vì chỉ cho vay trên cơ sở có thế chấp bằng tài sản là ruộng đất.

Doanh nghiệp nông nghiệp có điều kiện tập trung nhiều người góp vốn vào (có thể góp vốn bằng tiền hoặc bằng quyền sử dụng ruộng đất…). Đồng thời doanh nghiệp có xây dựng phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh từng vụ mùa hoặc từng năm; tập trung được nguồn vốn; có thể vay đầu tư ngắn hạn (vốn lưu động) để mua vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu khắc phục tình trạng người nông dân phải ứng vốn của các công ty cấp 3, cấp 4 hoặc ứng vốn của người chuyên cho vay nặng lãi tại nông thôn.

Doanh nghiệp nông nghiệp cũng có thể vay đầu tư dài hạn (10 năm – 30 năm) để mua máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cho chế biến, hoặc đầu tư xây kho chứa lúa thành phẩm…

Các doanh nghiệp nông nghiệp chủ động được nguồn tiền với lãi suất thấp để có thể chủ động mua vật tư nông nghiệp, nguyên vật liệu với giá rẻ (ai bán rẻ thì mua); chủ động bán sản phẩm sau thu hoạch với giá cao (ai mua được giá thì bán), và cũng không “bán đổ, bán tháo” vì “kẹt” tiền… khắc phục được tình trạng “được mùa thì mất giá, được giá thì mất mùa”.



2. Từ mô hình “doanh nghiệp nông nghiệp” (dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hợp tác xã nông nghiệp…) các doanh nghiệp nông nghiệp có khả năng dễ dàng tiếp cận những chính sách lãi suất kích cầu, vay ưu đãi, hoặc nhiều ưu đãi khác được triển khai từ phía Nhà nước giúp đỡ cho ngành nông nghiệp như: Chương trình tổ chức dạy nghề cho 01 triệu người nông dân hàng năm.

3. Cũng từ mô hình “doanh nghiệp nông nghiệp” các doanh nghiệp có điều kiện tổ chức xây dựng thương hiệu, nâng cao trình độ quản lý, trình độ tri thức; đồng thời trên cơ sở quy mô của mình, doanh nghiệp nông nghiệp có nhiều chương trình hợp tác dễ dàng với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước (thành lập các website giao lưu giữa những người sản xuất và mua bán nông sản phẩm), chủ động ký kết hợp đồng mua bán sản phẩm của mình có thể trước hoặc sau khi thu hoạch sản phẩm, chủ động giải quyết được đầu ra cho nông sản phẩm.

Người nông dân trước nay hoạt động mang tính chất manh mún, riêng lẻ, khó chủ động hợp tác được. Vì vậy, nông dân và cả doanh nghiệp nông nghiệp phải thông thạo các phương tiện hiện đại (công nghệ thông tin, internet…) để có thể tiếp thị bán sản phẩm tới tận các công ty đa quốc gia…



4. Từ việc giải quyết chủ động “tiền” cho nông dân; cần xây dựng các tiêu chuẩn cho các sản phẩm để tổ chức nhiều sàn giao dịch nông sản phẩm, sàn giao dịch vật tư nông nghiệp, công khai tại các vùng trọng điểm sản xuất nông sản sản phẩm trong nước, kể cả tổ chức gọi thầu quốc tế cung cấp vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu…). Trước mắt, là các sàn giao dịch cafe, gạo, cao su, rau (quả),… Thông qua các sàn giao dịch nông sản phẩm, vật tư nông nghiệp, các doanh nghiệp nông nghiệp có quyền chủ động mua vật tư giá thấp nhất, cạnh tranh nhất, đồng thời bán được nông sản thành phẩm giá tốt nhất.

5. Thông qua mô hình “doanh nghiệp nông nghiệp”, giải quyết chủ động “đất đai cho sản xuất quy mô lớn” của người nông dân.

Muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp theo chủ trương của Đảng và Nhà nước cần thiết phải có từng vùng sản xuất quy mô lớn, sử dụng được hết công suất máy móc, cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Phương pháp nhanh nhất, ít tốn kém nhất là kêu gọi góp vốn thành lập công ty cổ phần trên cơ sở quy ra giá trị quyền sử dụng đất ruộng…

Chỉ có trên cơ sở đó công ty, doanh nghiệp nông nghiệp mới có điều kiện vốn, nguồn nhân lực để có thể từng bước đưa công nghệ sinh học vào sản xuất, phục vụ cho việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành tối đa, tiết kiệm được nhiều chi phí quản lý. Đây là một điểm then chốt để chủ động được đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp trên thị trường quốc tế. Cũng từ đó doanh nghiệp nông nghiệp dễ dàng sản xuất theo quy trình hiện đại đòi hỏi chất lượng cao: quy trình Global GAP, thực hiện công nghệ sản xuất sạch; từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa sản xuất chế biến và tiêu thụ nông sản. Sử dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, làm tăng giá trị và tạo ra thương hiệu mạnh cho nông sản phẩm Việt Nam.

6. Trên cơ sở mô hình doanh nghiệp nông nghiệp, từng bước doanh nghiệp nông nghiệp tiến hành mua bảo hiểm từng vụ, từng mặt hàng nông sản phẩm của mình, đảm bảo giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh triền miên của ngành sản xuất nông sản phẩm từ nhiều năm nay.


  1. Cần giảm bớt tầng lớp trung gian trong việc bán hàng thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu đến người nông dân.

Nguyên nhân

Giá đầu vào của nông sản phẩm chính là giá của thức ăn gia súc, giá phân bón, thuốc trừ sâu…

Hàng năm nước ta phải nhập khẩu một số lượng lớn từ các nước: Mỹ, Nga, Trung Quốc, các nước Trung Đông (Quatar, Ả rập Seut)… do sản xuất trong nước không đủ cho sử dụng.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã mạnh dạn đầu tư với động thái hết sức tích cực, nhằm mục đích chủ động nguồn phân bón tại chỗ: xây dựng một số nhà máy sản xuất phân bón như Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Nhà máy Khí điện Đạm Cà Mau, Nhà máy sản xuất DAP Đình Vũ (Hải Phòng)… từng bước giảm hướng nhập khẩu phân bón hàng năm. Tuy nhiên, hiệu quả để giảm được giá cả đầu vào của nông sản phẩm hầu như chưa có tác dụng đáng kể.

Có 02 nguyên nhân chính gây thường xuyên tăng giá đầu vào của nông sản phẩm:


  1. Các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu phân bón của Việt Nam thường xuyên mua phân bón, nguyên liệu thức ăn gia súc… qua trung gian của các nước khác mà không mua trực tiếp được tận gốc những nơi có hàng

Các doanh nghiệp Việt Nam vốn ít, còn non trẻ, đa phần kinh doanh nhập khẩu phân bón, nguyên vật liệu… dựa trên thông tin của những công ty trung gian (của Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc…), tức là mua bán dựa trên thông tin được cung cấp bởi người bán như thông tin giá cả chuẩn bị lên xuống, trữ lượng tồn kho nguyên vật liệu, phân bón của thế giới. Đây thường là những thông tin khó tin cậy chỉ có lợi cho người bán.

Mặt khác, do các nhà máy sản xuất phân bón của thế giới thường có những quan hệ lâu đời về tài chính (như ứng vốn trước lấy hàng sau…) với các công ty trung gian mua bán thương mại của Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc… cho nên việc các công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành của Việt Nam khó mua thẳng tận gốc hàng mà đa phần phải mua qua các công ty trung gian, đa phần bị mua giá cao.

Doanh nghiệp Việt Nam còn quá mới mẻ, yếu về nhiều mặt trên thương trường quốc tế: hiện tại, hầu như chưa có đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nào củaViệt Nam đặt đơn vị của mình (văn phòng đại diện, ban kinh doanh xuất nhập khẩu…) tại những vùng sản xuất trọng điểm của nước ngoài, do đó trong mua bán ngoại thương thường rất đói thông tin, đa phần là những thông tin sai lệch, thiếu chính xác.Từ đó dẫn đến những quyết định mua hàng thường bị “hớ” giá. Và đó chính là tại sao giá nhập nguyên vật liệu, phân bón… vào Việt Nam thường cao.

Trong khi đó, mặc dù chỉ là những công ty trung gian thương mại như Mitsubishi của Nhật, Toffer của Đức, Samsung của Hàn Quốc,… lại đặt văn phòng nghiên cứu chuyên sâu rất nhiều chuyên gia, nhiều năm (vài chục năm nay) tại các vùng trọng điểm sản xuất phân bón, sản xuất lương thực trên toàn thế giới. Chính vì nguyên nhân này, mà ngành kinh doanh xuất nhập khẩu phân bón, nguyên vật liệu, thức ăn gia súc,… nhiều năm nay thường xuyên là ngành kinh doanh bấp bênh không ổn định, đầy rủi ro và thỉnh thoảng có những công ty bị phá sản do không nắm được thông tin: giá thế giới đang xuống mạnh, trong lúc người bán lại thông tin đang “khan hiếm hàng” dẫn đến người mua thua lỗ nặng (nhập hàng trong lúc giá cao, bên cạnh đó lại mua số lượng lớn).

Một đặc điểm khác của ngành vật tư phân bón thế giới luôn thường xuyên bị biến động do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ động từ Chính phủ của các nước. Ví dụ: Trung Quốc hiện nay đang giảm thuế xuất khẩu phân bón trong nước từ 110% xuống còn 10%. Ngay lập tức toàn bộ phân bón xuất đi từ Trung Quốc giảm giá mạnh gây tác động mạnh vào giá phân bón, ảnh hưởng giá phân bón thế giới xuống sâu.Trong khi đó nhiều nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Nam hoàn toàn bất ngờ.

Nhà nước Việt Nam giao nhiệm vụ cho các Tham tán thương mại của Việt Nam tại các nước nắm thông tin để cung cấp cho Việt Nam những thông tin kinh tế không chuyên ngành, nhưng trách nhiệm được giao cũng không rõ ràng và chỉ mang tính chất tham khảo, không ràng buộc về quyền lợi vật chất. Do đó, doanh nghiệp chưa sử dụng được kênh thông tin này. Những lý do chính này đã là nguyên nhân thường xuyên đẩy giá nhập khẩu của Việt Nam cao hơn giá thế giới.



  1. Каталог: Uploads -> Articles04
    Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
    Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
    Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
    Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
    Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
    Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
    Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
    Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
    Articles04 -> Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ
    Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

    tải về 2.4 Mb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương