MỤc lục phầN 1: ĐÁnh giá KẾt quả thực hiệN


Người nông dân phải mua vật tư, nguyên liệu phân bón, thuốc trừ sâu… thông qua nhiều tầng nấc trung gian. Đặc điểm này làm giá đầu vào của nông sản phẩm luôn luôn cao



tải về 2.4 Mb.
trang18/27
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích2.4 Mb.
#15399
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   27

Người nông dân phải mua vật tư, nguyên liệu phân bón, thuốc trừ sâu… thông qua nhiều tầng nấc trung gian. Đặc điểm này làm giá đầu vào của nông sản phẩm luôn luôn cao

Đa phần người nông dân không có tiền mặt để mua trực tiếp, họ không có quyền lựa chọn và mặc cả “giá đầu vào” của nông sản phẩm. Thực tế rất nhiều năm nay, người nông dân phải thường xuyên ứng tiền, ứng hàng trước vào đầu vụ của các công ty, doanh nghiệp kinh doanh ngành vật tư nông nghiệp cấp 3, cấp 4 tại các tỉnh. Phần ứng trước này được cộng với lãi suất rất cao và sẽ được thu hồi dần hoặc thu dần khi người nông dân thu hoạch sản phẩm. Do đó, giá của vật tư (giá của đầu vào của nông sản phẩm) thường xuyên bị đội lên rất cao, kể cả nhiều lúc người nông dân bị “trệt” bán sản phẩm với giá rẻ để trừ nợ.

Toàn bộ chi phí vận chuyển hàng, chi phí thuộc khâu lưu thông phân phối từ các nhà máy sản xuất phân đạm trong nước hoặc từ các công ty nhập khẩu từ nước ngoài thông qua từ cấp 1 đến 2, 3, 4, mọi chi phí đều cộng lại vào giá bán cho người nông dân gánh chịu hết.

Đó là chưa kể những lúc khan hiếm hàng do hàng nhập về chưa kịp, nhà máy sản xuất phân bón trong nước không còn hàng tồn kho. Vì lợi nhuận, các công ty trung gian đẩy giá lên cao, làm thiệt hại nặng nề cho người nông dân.

Ngay cả hiện nay, Nhà máy Đạm Phú Mỹ, Cà Mau; vì là công ty cổ phần (bộ máy bán hàng chia thành 5 công ty con) với số lượng rất đông nhân viên, khi hàng đến người nông dân đa phần phải mua với giá cao; tăng giá thành và giảm lợi nhuận của người nông dân.



  1. Đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư công, chú trọng đầu tư tương xứng cho nông nghiệp

Chiến lược phát triển kinh tế căn cứ trên nguồn lực (trong đó, kể cả nguồn vốn vay dài hạn hoặc mời được nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam).

Căn cứ vào thế mạnh của quốc gia xác định tỷ lệ đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp chế biến (phục vụ nông nghiệp); đầu tư cho hệ thống kho tàng, biển cảng (phục vụ xuất khẩu nông nghiệp); đầu tư cho hệ thống đường giao thông nông thôn (trong đó ưu tiên tập trung đầu tư cho giao thông phục vụ xuất nhập khẩu)…

Tỷ lệ đầu tư đề nghị (trên toàn ngành) 30-35% đầu tư cho sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp chế biến, cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp… thay vì từ trước tới nay chỉ dưới 20% trên tổng mức chi đầu tư công cả nước hàng năm.

Biện pháp khắc phục

a. Nhà Nước cần đặt nặng trách nhiệm của các Tham tán thương mại kinh tế của Việt Nam tại các nước có vùng kinh tế sản xuất trọng điểm.

Bên cạnh đó, nên có cơ chế thoáng cho các tham tán thương mại cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp có nhu cầu trên cơ sở có qui định thu tiền dịch vụ cung cấp thông tin. Cần có quy chế giá cả dịch vụ rõ ràng, minh bạch.

b. Tạo cơ chế thông thoáng cho các doanh nghiệp kinh doanh có nhu cầu mở văn phòng, trạm đại diện hoặc thành lập các công ty con tại nước ngoài, tạo cơ chế trong việc chuyển tiền trong giao thương, sử dụng trong kinh doanh quốc tế cho doanh nghiệp nhằm mục đích giúp đỡ các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hướng đến sự phát triển bền vững. Hiện nay, việc chuyển tiền ngoại tệ qua lại phục vụ cho phát triển kinh doanh thương mại rất khó khăn do quá nhiều thủ tục phải xét duyệt.

c. Cần củng cố Hiệp hội phân bón mạnh.

d. Nghiên cứu ký kết các hợp đồng dài hạn với các nhà máy cung cấp phân bón để đảm bảo nguồn cung cấp và giá ưu đãi so với giá mua hàng từng chuyến.

Trên cơ sở đó phối hợp các ngành chuyên môn của Bộ Công Thương tham dự hoặc tổ chức mời “Đấu thầu ngắn hạn giao hàng phân bón có ấn định số lượng – thời gian giao hàng cụ thể” như nhiều nơi trên thế giới mở thầu thường xuyên. Trên cơ sở đó giá thành nhập khẩu sẽ có được giá tốt, giảm được phí qua trung gian.

e. Tổ chức những chợ (sàn giao dịch phân bón) phân bón giao dịch nông sản phẩm (thành phẩm) tại những vùng trọng điểm sản xuất lúa, nông sản.

Qua đó đấu giá và bán công khai mang tính cạnh tranh sản phẩm nguyên vật liệu, vật tư nông nghiệp, nông sản phẩm chế biến và nông sản phẩm sau thu hoạch.

f. Có cơ chế giải quyết cho người nông dân chủ động khâu “tiền” để từ đó có thể chủ động lựa chọn mua vật tư nông nghiệp giá tốt, bán sản phẩm thu hoạch được của mình cùng với giá tốt nhất.

g. Nhà nước giao cho Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xác định cụ thể mức đầu tư công tương xứng vào ngành nông nghiệp.

V. KẾT LUẬN

Việt Nam với dân số trên 90 triệu dân, vẫn còn khoảng 70% dân số sống ở nông thôn, nông nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nhất là trong thời kỳ biến đổi khí hậu thế giới ngày càng tăng. Nông nghiệp Việt Nam góp nguồn thu ngoại tệ lớn; góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội, là động lực nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Tất cả những điều quan trọng trên nói lên sự cần thiết Nhà nước cần tập trung đột phá phát triển nông nghiệp – nông dân – nông thôn./.






TÁI CƠ CẤU HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

TRONG BỐI CẢNH TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ70
GS. Trần Thọ Đạt và các cộng sự71
Tóm tắt
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính và định lượng để đánh giá kết quả tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam theo Đề án 254. Kết quả cho thấy, hệ thống NHTM Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định trong quá trình tái cơ cấu, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế tuy nhiên các kết quả của quá trình tái cơ cấu là khá hạn chế và thiếu tính dài hạn, nhiều mục tiêu tái cơ cấu không đạt như xử lý triệt để nợ xấu, sở hữu chéo, cải thiện quản trị và nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu nhất làm quá trình tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam còn chậm và chưa đạt kết quả như kỳ vọng là do còn thiếu một cách tiếp cận tổng hợp xử lý tổng thể các vấn đề của tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là còn thiếu một khung khổ pháp lý mang tính hệ thống cho thực hiện quá trình tái cơ cấu trong bối cảnh tái cơ cầu kinh tế.
Từ khóa: tái cấu trúc ngân hàng Việt Nam, ngân hàng thương mại Việt Nam, Đề án 254.


  1. Kết quả thực hiện tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2012-2014

1.1. Những thành công

Thứ nhất, về cơ bản đã kiểm soát được tình hình của các NHTM cổ phần yếu kém. Khả năng chi trả của các ngân hàng này đã được cải thiện đáng kể, tài sản của Nhà nước và quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm, an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng được kiểm soát, an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; không để xảy ra các đợt rút tiền hàng loạt ngoài tầm kiểm soát, đặc biệt ở một số NHTM cổ phần yếu kém phải cơ cấu lại.

Thứ hai, từng bước giảm bớt số lượng các NHTM thông qua cơ cấu lại. Trong số 9 NHTMCP yếu kém được xác định từ năm 2012, NHNN đã phê duyệt 8 phương án cơ cấu lại. Trong thời gian tới, NHNN sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phương án cơ cấu lại đối với 01 ngân hàng còn lại. Hiện nay, các ngân hàng này đang tích cực triển khai các giải pháp cơ cấu lại theo đúng phương án được duyệt. Một số NHTMCP yếu kém được xác định trong năm 2013 đang được NHNN áp dụng các biện pháp giám sát chặt chẽ và chỉ đạo xây dựng phương án tái cơ cấu. Đến nay, số lượng NHTMCP giảm bớt 5 ngân hàng qua hoạt động sáp nhập, hợp nhất (Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Nhà Hà Nội, Phương Tây, Đại Á).

Thứ ba, chất lượng hoạt động của các NHTM đã được cơ cấu lại có một số chuyển biến tích cực. Cho đến nay, tất cả các phương án cơ cấu lại NHTM cổ phần yếu kém, kể cả sáp nhập, hợp nhất đều được tiến hành trên nguyên tắc tự nguyện. NHNN chưa phải áp dụng biện pháp can thiệp bắt buộc đối với trường hợp nào theo quy định của pháp luật. Sau khi sáp nhập, hợp nhất hoặc phương án cơ cấu lại được NHNN chấp thuận, các ngân hàng đã và đang tích cực triển khai các giải pháp cơ cấu lại toàn diện về tài chính, hoạt động, quản trị và khắc phục các sai phạm dưới sự giám sát của NHNN. Đối với các ngân hàng không thuộc diện yếu kém bắt buộc phải tái cơ cấu đã triển khai các giải pháp cơ cấu lại, xử lý nợ xấu; tập trung củng cố, chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế và tăng cường năng lực tài chính, quản trị, hoạt động và năng lực cạnh tranh. Một số ngân hàng đang thực hiện sáp nhập, mua lại TCTD khác để tăng quy mô và khả năng cạnh tranh.

Thứ tư, đã bước đầu thực hiện sắp xếp lại các TCTD phi ngân hàng và Quỹ Tín dụng Nhân dân. NHNN đã chỉ đạo xây dựng và trình NHNN phương án cơ cấu lại, đồng thời đề nghị các tập đoàn, tổng công ty nhà nước thực hiện cơ cấu lại các TCTD này. Hiện nay, đa số các TCTD phi ngân hàng đã trình hoặc đang hoàn thiện phương án để trình NHNN phê duyệt. Năm 2013, có 02 công ty tài chính đã được hợp nhất, mua lại với 02 NHTM, giải thể, rút giấy phép 01 công ty cho thuê tài chính và 01 công ty tài chính đã được NHNN ủng hộ chủ trương bán lại cho tổ chức khác. Một số TCTD phi ngân hàng quá yếu kém, chi phí cơ cấu lại quá lớn so với lợi ích đem lại từ việc duy trì hoạt động, NHNN đang rà soát, đánh giá và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét xử lý thông qua giải thể, phá sản.Một số tập đoàn và tổng công ty nhà nước đang trong quá trình đàm phán bán lại công ty tài chính cho nhà đầu tư khác. Những TCTD phi ngân hàng hoạt động bình thường cũng đang triển khai cơ cấu lại theo Quyết định số 254/QĐ-TTg để nâng cao mức độ an toàn, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đối với quỹ tín dụng nhân dân, Qũy tín dụng nhân dân (QTDND) Trung ương đã hoàn thành việc chuyển mô hình hoạt động thành Ngân hàng Hợp tác xã nhằm thực hiện tốt mục tiêu liên kết hệ thống, hỗ trợ tài chính và điều hòa vốn trong hệ thống các QTDND, góp phần giúp các QTDND cơ sở hoạt động hiệu quả theo nguyên tắc hợp tác xã.

Thứ năm, tăng cường năng lực tài chính đối với các TCTD.Năng lực tài chính của hệ thống từng bước được lành mạnh thông qua tăng vốn điều lệ và xử lý nợ xấu. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng các TCTD vẫn nỗ lực cải thiện năng lực tài chính và tăng vốn điều lệ để tạo điều kiện mở rộng hoạt động và nâng cao khả năng đối phó với các rủi ro trong hoạt động. Năm 2012, vốn điều lệ toàn hệ thống tăng 11,29% và đến cuối năm 2013 vốn điều lệ của toàn hệ thống là 423,98 nghìn tỷ đồng, tăng 31,8 nghìn tỷ đồng (8,12%) so với cuối năm 2012.

Bên cạnh đó, ngày 31/5/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 843/QĐ-TTg phê duyệt 02 Đề án thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC). Ngoài ra, để triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp xử lý nợ xấu quy định tại Quyết định số 843, gắn với các giải pháp tổng thể cơ cấu lại hệ thống các TCTD theo Đề án 254, NHNN đã trình và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 363/QĐ-TTg ngày 11/3/2014 về việc thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành triển khai Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD”.

Đến nay, các ngân hàng thương mại đã ban hành và gửi NHNN kế hoạch xử lý nợ xấu đến 2015; đồng thời, các TCTD đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp xử lý nợ xấu trong khả năng tài chính của mình, song song với việc hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn trong sản xuất, kinh doanh của các khách hàng. Về thành lập, tổ chức và hoạt động của VAMC, mặc dù mới được thành lập và đi vào hoạt động với nhiều khó khăn, còn thiếu thốn về điều kiện cơ sở vật chất nhưng kết quả đạt được bước đầu của VAMC có vai trò quan trọng và tạo nền tảng cho việc đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu trong thời gian tới, đặc biệt là tạo được niềm tin về tính khả thi của một công cụ xử lý nợ xấu rất đặc thù. Tính đến hết tháng 8/2014, VAMC báo cáo đã mua được 59.511 tỷ đồng nợ xấu từ 35 tổ chức tín dụng (TCTD), cùng với các NHTM báo cáo đã tự xử lý thêm được 20.000 tỷ đồng so với 12/2013 VND, nâng tổng số nợ xấu được xử lý khoảng 105.000 tỷ đồng.Kết quả bước đầu đạt được là nợ xấu đã được kiềm chế và có xu hướng giảm; các giải pháp xử lý nợ xấu phát huy tác dụng ngay trong thời gian qua chủ yếu xuất phát là từ sự nỗ lực, quyết liệt của ngành Ngân hàng, trong khi nhiều Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm triển khai các giải pháp xử lý xử lý nợ xấu được giao trong phạm vi quản lý của ngành, địa phương. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên ngành ngân hàng đã quyết tâm triển khai có kết quả các giải pháp xử lý nợ xấu theo phân công tại Quyết định số 843 trong khi vẫn bảo đảm tiếp tục tái cơ cấu, tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế, hạ mặt bằng lãi suất, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh và góp phần ổn định hệ thống ngân hàng, kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Thứ sáu, từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ và ngân hàng, nâng cao và trò và hiệu quả quản lý nhà được, chỉ đạo, điều hành của NHNN trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng hỗ trợ cơ cấu lại các TCTD: Ngoài các văn bản liên quan tới hoạt động của VAMC, để hỗ trợ cho quá trình cơ cấu lại các TCTD và bảo đảm cho các TCTD hoạt động an toàn, lành mạnh, Chính phủ và NHNN đã ban hành các văn bản như: Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định số 01/2013/NĐ-CP về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam; Quyết định số 48/2013/QĐ-TTg ngày 01/8/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc góp vốn, mua cổ phần bắt buộc của TCTD được kiểm soát đặc biệt; Các Thông tư của NHNN bao gồm các quy định về phân loại nợ, trích lậpvà sử dụng dự phòng rủi ro (Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013); kiểm soát, toán độc lập, cấp phép; quản lý mạng lưới; niêm yết cổ phiếu của các TCTD trên thị trường chứng khoán; ngân hàng hợp tác xã; mua, bán nợ xấu; kiểm soát đặc biệt TCTD, v.v...

Ngoài ra, NHNN đang khẩn trương hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp lý về thanh tra, giám sát; xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng; quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng; ủy thác, nhận ủy thác, quy định về quản lý rủi ro của các TCTD.



1.2. Phân tích định tính kết quả tái cơ cấu

Tính đến 30/6/2014, hệ thống ngân hàng Việt Nam có 1 NHTM nhà nước (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam), 37 ngân hàng TMCP, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 1 ngân hàng chính sách và 1 ngân hàng hợp tác xã. Với tổng số lượng là 38 ngân hàng, các ngân hàng thương mại đang đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và là đối tượng chính của quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng giai đoạn 2011 - 2015. Do vậy, phần nghiên cứu đánh giá kết quả của hệ thống ngân hàng trước và sau tái cấu trúc cũng sẽ tập trung vào các ngân hàng thương mại nói trên.



      1. Tác động của tái cơ cấu đến sự phát triển tài chính

Một trong những mục tiêu chính của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương mại là phát triển hệ thống tài chính quốc gia. Ngoài ra, việc tái cấu trúc cũng giúp đẩy mạnh tính cạnh tranh giữa các ngân hàng và cải thiện khả năng sinh lợi của các ngân hàng đó.Vì vậy, nghiên cứu này sẽ xem xét sự phát triển tài chính toàn diện trên những khía cạnh: (1) Tăng trưởng tài chính; (2) Sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng; (3) Khả năng sinh lợi của ngành ngân hàng.

  • Tăng trưởng tài chính (financial deepening):

Khi đánh giá tăng trưởng tài chính, Shaw (1973) lần lượt quan sát các góc độ: Quy mô ngành ngân hàng, huy động tiết kiệm, sự kích thích cho tiết kiệm dài hạn, sự cải thiện trong lưu chuyển tiền tệ đối với hệ thống ngân hàng. Đối với trường hợp của Việt Nam, nhóm nghiên cứu áp dụng các chỉ tiêu sau đây để phân tích những thay đổi của hệ thống ngân hàng:

  1. Các tỷ lệ M2/GDP, tín dụng cá nhân/GDP đại diện cho quy mô của ngành ngân hàng

  2. Tỷ lệ M1/M2được sử dụng như một phương pháp đo lưởng truyền thống của huy động tiết kiệm.

Trong đó: M1: bằng tổng lượng tiền mặt (M0) và tiền mà các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương; M2: bằng M1 cộng với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

  • Quy mô ngành ngân hàng

Tăng trưởng về quy mô của ngành ngân hàng Việt Nam từ năm 2008 đến 2013 không ổn định theo thời gian. Trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2010, quy mô ngành ngân hàng liên tục tăng. Cụ thể, năm 2008, chỉ số M2/GDP và tín dụng cá nhân/GDP năm 2008 lần lượt là 0,86 và 1,08. Sang năm 2010, M2 và tín dụng cá nhân đã gấp 1, 16 và 1,27 lần GDP. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 2011, quy mô ngành ngân hàng có dấu hiệu suy giảm. Đặc biệt, đến cuối năm 2012, tỷ lệ M2/GDP và tín dụng cá nhân/GDP chỉ còn 0,95 và 1,13, cao hơn năm 2008 nhưng thấp hơn 2009. Năm 2013, quy mô ngành ngân hàng đã tăng trưởng trở lại, M2/GDP đạt 0,97 lần và tín dụng cá nhân/GDP đạt 1,21 lần.

Như vậy, sau một thời gian phát triển bùng nổ của hệ thống ngân hàng những năm 2008 – 2010, từ năm 2011, hệ thống ngân hàng bắt đầu thu hẹp quy mô cùng với những thương vụ mua bán, sáp nhập của quá trình tái cơ cấu, tập trung chủ yếu vào năm 2012. Đến cuối năm 2013, hệ thống ngân hàng dần đi vào ổn định và quy mô tăng trưởng trở lại.



  • Huy động tiết kiệm

Các dữ liệu thống kê ngành ngân hàng cho thấy tỷ lệ huy động tiết kiệm giảm dần qua các năm. Sự suy giảm tỷ lệ huy động tiết kiệm cũng không đồng nhất qua các năm. Đặc biệt, trong hai năm 2009 và 2010, tỷ lệ huy động tiết kiệm giảm mạnh, chỉ số M1/M2 năm 2008 là 1,01 đã giảm xuống còn 0,27 vào cuối năm 2010. Nguyên nhân của thực trạng này là do trong giai đoạn 2009 – 2010, lãi suất cơ bản liên tục được giảm xuống, các ngân hàng chú trọng nhiều hơn đến tăng trưởng tín dụng thay vì tăng trưởng huy động tiết kiệm.

Tuy nhiên, bắt đầu từ 2011, với chính sách ổn định kinh tế cùng các biện pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tỷ lệ huy động tiết kiệm M1/M2 đã duy trì ở mức 0,25 năm 2011 và 0,24 năm 2012.



  • Sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng

Sự cạnh tranh cũng là một trong những điều kiện để nền kinh tế phát triển. Nhóm nghiên cứu tiến hành so sánh sự cạnh tranh của ngân hàng trước và sau quá trình tái cấu trúc qua thước đo “mức độ tập trung tài sản” (tiền gửi). Mức độ tập trung tài sản là tỷ lệ nắm giữ tổng tiền gửi của nhóm 5 ngân hàng đứng đầu (Barth, Caprio, Levine, 2001) qua các năm. Nếu tỷ lệ này ngày càng giảm đi chứng tỏ sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng ngày càng gia tăng và ngược lại.

Để đo lường sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng, nghiên cứu thu thập dữ liệu 5 ngân hàng TMCP không bị mua bán, sáp nhập giai đoạn 2011 - 2013 và luôn nằm trong top các ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất là: ACB, BIDV, Vietinbank, MBBank và Vietcombank. Tỷ lệ nắm giữ tiền gửi của 5 NHTM này so với tổng tiền gửi của toàn bộ hệ thống các NHTM như sau:



Bảng 1.1: Tỷ lệ nắm giữ tiền gửi của 5 NHTM lớn nhất so với tổng tiền gửi của hệ thống các NHTM giai đoạn 2008 - 2013

Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

%Tổng tiền gửi của 5 NHTMCP lớn nhất / Tổng tiền gửi của tất cả các NHTM

46.06%

42.84%

42.64%

43.96%

40.82%

40.13%

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ các báo cáo tài chính

Như vậy, trong 6 năm từ 2008 đến 2013, tổng tiền gửi tại toàn bộ hệ thống các NHTM và tổng tiền gửi tại 5 ngân hàng TMCP lớn nhất đều liên tục tăng trưởng. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, có thể nhận thấy mức độ cạnh tranh đang ngày càng tăng lên, đặc biệt trong hai năm 2012 và 2013. Cụ thể, tỷ lệ nắm giữ tiền gửi của 5 ngân hàng TMCP lớn nhất so với cả hệ thống các NHTM từ 46,6% năm 2008 xuống chỉ còn 42,64% năm 2010 và đạt 40,13% năm 2013. Đây là dấu hiệu tốt để nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng ngày càng phát triển.



  • Khả năng sinh lợi của ngành ngân hàng

Các chỉ số của khả năng sinh lợi, bao gồm ROA, ROE là những chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng cải thiện sau tái cấu trúc của hệ thống ngân hàng (Xiaoqing và Shelagh Heffernan, 2005). Kết quả ROA và ROE cho thấy sự khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng đạt mức cao nhất vào năm 2009, khi hệ thống ngân hàng thương mại bùng nổ, tăng trưởng tín dụng đạt mức cao. Tỷ lệ ROA và ROE giữ ổn định trong hai năm tiếp theo là 2010 và 2011. Mặc dù vậy, sang đến năm 2012, khả năng sinh lợi của hệ thống ngân hàng thương mại sụt giảm nghiêm trọng. ROE từ 12,87% năm 2011 chỉ còn 6,55% năm 2012 (giảm 49%). Tương tự, ROA năm 2012 cũng giảm gần một nửa so với năm 2011. Kết quả này phản ánh chính xác thực tế khi kể từ năm 2011, ngành ngân hàng bước vào suy thoái và khủng hoảng, tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Sang năm 2013, nhờ kết quả bước đầu của quá trình tái cơ cấu với những biện pháp cứng rắn làm lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng cùng những thương vụ mua bán, sáp nhập xử lý những ngân hàng yếu kém, khả năng sinh lợi của ngành ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực.

1.2.2. Tác động của tái cấu trúc đến kết quả hoạt động của các NHTM

Trong phần này, nghiên cứu phân tích các chỉ số dựa trên nền tảng các tiêu chí của CAMEL (Capital adequacy, Assets quality, Management efficiency, Earnings performances, Liquidity) cho từng nhóm trong hệ thống ngân hàng của Việt Nam. Trong các tiêu chí của CAMEL, các chỉ số được lựa chọn như sau:Để đánh giá Độ an toàn vốn (Capital Adequacy) của các ngân hàng, nghiên cứu sử dụng tỷ lệ CAR được xác định như trong Basel II.Với chất lượng tài sản (Assets quality), tỷ lệ phần trăm của nợ xấu là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá chỉ tiêu này.Đối với hiệu quả quản lý (Management efficiency), tỷ lệ được sử dụng cho từng nhóm ngân hàng để so sánh qua các năm là tỷ lệ chi tiêu/thu nhập.Kết quả hoạt động (Earnings performance) được đo lường thông qua các chỉ số ROA, ROE và NIE (Net interest earnings - thu nhập ròng từ lãi suất cho vay).Cuối cùng, tính thanh khoản (Liquidity) được xác định bởi tỷ lệ các tài sản có tính thanh khoản cao/các khoản tiền gửi của nhóm ngân hàng được đánh giá.

Nghiên cứu tiến hành đánh giá hai nhóm ngân hàng chính sau: (1) Nhóm 5 ngân hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam và không bị mua bán, sáp nhập giai đoạn 2011 - 2013 ; (2) Nhóm các ngân hàng bị mua bán, sáp nhập hoặc tự tái cấu trúc giai đoạn 2011 – 2013.


  • Nhóm 5 ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất (theo tổng tài sản)

Như đã đề cập ở phần xác định tính cạnh tranh của hệ thống ngân hàng, 5 ngân hàng TMCP có tổng tài sản lớn nhất gồm: ACB, BIDV, Vietinbank, MBBank và Vietcombank.

Trước hết, về độ an toàn vốn, hệ số CAR của 5 ngân hàng trên tăng dần trong giai đoạn 2009 – 2011, suy giảm ở năm 2012 và tăng nhẹ trong năm 2013. So với giai đoạn trước quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, độ an toàn vốn của nhóm ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất đã tăng lên đáng kể. Thực tế, hệ số CAR của nhóm ngân hàng này được nâng lên sau khi thông tư 13/2010/TT-NHNN được ban hành ngày 20/8/2010 thay thế Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Một trong những thay đổi đáng chú ý trong Thông tư 13 là tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu từ 8% lên 9 %. Mặc dù trước đó, hệ số CAR bình quân của nhóm ngân hàng này xấp xỉ 10%, các ngân hàng vẫn tăng hệ số CAR lên mức an toàn.



Каталог: Uploads -> Articles04
Uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
Uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
Uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
Uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
Uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
Uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
Uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1
Articles04 -> Kinh tế việt nam năM 2014: TỔng quan vĩ MÔ
Articles04 -> BÁo cáo hsbc kết nối giao thưƠng việt nam

tải về 2.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   14   15   16   17   18   19   20   21   ...   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương