16
KHÁM THỰC THỂ
Dù là khám thực thể đầy đủ từ đầu đến chân, trong lúc trình bệnh, dành thì giờ
trình bày các dấu hiệu lâm sàng có liên quan đến bệnh cảnh mà thôi (cách chọn
các dấu hiệu dương tính và âm tính được đề cập trong một chương riêng). Thí
dụ một người bệnh bị loét chân sẽ được mô tả chi tiết vị trí, kích thước, độ sâu,
màu, mùi, những gì trên bề mặt vết loét như mô hạt, mô hoại tử, dịch tiết, vùng
mô quanh vết loét v.v. Một người bệnh có khối u trong bụng cũng phải được mô
tả chi tiết tương tự: vị trí, kích thước, bề mặt, sự di động, đau, gõ, nghe v.v. Khám
lâm sàng
lúc nào cũng bắt đầu với 4 sinh hiệu (mạch, huyết áp, nhịp thở, thân
nhiệt) và nay có
thêm dấu hiệu thứ 5 là độ bảo hòa oxy (FiO
2
).
Chúng ta tiếp tục dùng ca trình bệnh trên trong phần khám lâm sàng:
“Khám thực thể, mạch 92, thở 16, huyết áp 105/76, nhiệt độ 38,2. Bão hòa oxy 92 không
có thở oxy. Niêm mạc miệng khô. Da víu nhăn. Không hạch cổ, tuyến giáp không to. Áp
lực tĩnh mạch cảnh thấp hơn 5 cm. Ngực: phổi trong, tiếng tim bình thường. Lưng: cột
sống bấm không đau, cơ lưng không co thắt, dấu đưa chân thẳng lên âm tính. Duy góc
sườn sống trái đau thốn. Bụng: không chướng, tiếng ruột có nhưng giảm, bờ gan bình
thường, không sờ thấy lách, bụng thốn khi ấn sâu phía trái, nhưng không cứng, không
có đau dội (rebound tenderness). Hai chân ấm, không phù, bắt được mạch cổ chân. Thần
kinh: tỉnh táo, biết định hướng tên, thời gian, không gian, dây TK sọ II-XII bình thường.
Vận động, cảm giác tứ chi và chức năng tiểu não bình thường.”
Chú ý phần khám lưng, bụng và tình trạng mất nước được chú trọng hơn. Các
dấu hiệu khác được khẳng định ngắn gọn, không giải thích dài dòng. Các dấu
hiệu không chắc nên đặt ra luôn (vào phần cuối của khám thực thể) để giảng
viên kiểm tra giúp.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: