XÉT NGHIỆM VÀ CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
Dù trong bệnh án có đầy đủ các con số xét nghiệm, SV chỉ trình các kết quả bất
thường, cộng với các kết quả bình thường có mục đích để loại trừ một chẩn
đoán nào đó. Giảng viên sẽ biết người trình bệnh có suy nghĩ hay không.
17
“Xét nghiệm máu: bạch cầu 13.000; trung tính 88%; natri 144; kali 3,7; clor 108; bicarb
24; BUN 32; creatinin 1,4; đường 127, lipase 76. Nước tiểu: 350 bạch cầu, esterase bạch
cầu dương tính. Cấy máu và cấy nước tiểu chưa có kết quả. X-quang tiết niệu: hơi trong
ruột bình thường, không dầy thành ruột, không tắc hồi tràng, không sỏi thận. X-quang
phổi bình thường.”
Trong trường hợp này, quan trọng nhất là tăng bạch cầu, tiểu ra mủ và tăng urê
máu trước thận. Xét nghiệm điện giải dù không có gì bất thường, cũng được
nêu ra để đánh giá khả năng mất nước do người bệnh nôn mửa. Các X-quang
tiết niệu và phổi được nêu ra để loại trừ sỏi thận, tắc ruột, liệt ruột và viêm phổi.
Kết quả là sự chẩn đoán bệnh trở thành sáng sủa hơn.
CHẨN ĐOÁN VÀ XỬ TRÍ
Gồm 3 bước:
1. Kết luận bệnh sử:
Chốt lại những sự kiện quan trọng nhất thành 3 câu cô đọng: một cho bệnh sử,
một cho khám, và một cho xét nghiệm.
“Tóm lại, người bệnh nữ 68 tuổi có tiền sử tiểu đường loại II, 2 lần nhiễm trùng đường
tiểu, nhập viện với tiểu buốt, sốt, nôn mửa, đau lưng cấp. Khám thực thể , sốt 38
°
2; đau
thốn góc sườn sống trái. Xét nghiệm thấy tăng bạch cầu và tiểu ra mủ, chụp hình tiết
niệu bình thường.”
2. Chẩn đoán phân biệt:
-Liệt kê bảng danh sách:
“Với người bệnh sốt và đau lưng, khả năng có thể là nhiễm trùng ổ bụng, áp-xe ổ bụng,
viêm ruột thừa, viêm túi mật, viêm túi thừa, viêm thận-bể thận, sỏi thận, rò bàng quang-
đại tràng, viêm cột sống lưng, áp xe ngoài màng cứng.”
-Loại suy:
“Tôi nghĩ chẩn đoán có khả năng nhất là viêm thận-bể thận. Người bệnh tiểu buốt và
tiểu mủ chứng tỏ là có nhiễm trùng đường tiểu. Thêm 5 ngày sốt, bạch cầu tăng, nôn
mửa, đau lưng, đau thốn góc sườn sống chỉ một bên làm tôi nghĩ nhiều về viêm thận-bể
thận. Vị trí đau và hướng lan cho tôi loại trừ khả năng viêm túi mật, viêm ruột thừa và
viêm túi thừa. Nước tiểu không máu và hình chụp tiết niệu cho tôi loại trừ sỏi thận.
Nước tiểu không có bọt khí cho tôi loại trừ rò bàng quang-đại tràng. Áp-xe ngoài màng
cứng và viêm cốt sống hiếm khi khu trú một chổ ở một bên góc sườn sống.”
-Đề nghị bổ sung:
18
“Có thể xác định thêm bằng CT bụng, nhưng tôi nghĩ dù có làm thêm cũng không làm
thay đổi cách điều trị, với khả năng viêm thận-bể thận là cao nhất trong trường hợp
này.”
3. Điều trị:
Tùy theo trình độ của người trình bệnh, chủ động đưa ra phương pháp điều trị
hay các đề nghị khác:
“Để bù nước và tình trạng tăng urê máu trước thận, tiếp tục truyền saline 9 ‰ tốc độ
150 cc/giờ, ngưng lisinopril và metformin cho đến khi creatinine trở về bình thường.
Điều trị nhiễm trùng tiết niệu, tiếp tục ceftriaxone tĩnh mạch trong khi chờ kết quả cấy
máu và nước tiểu. Nếu người bệnh vẫn sốt sau 48-72 giờ với ceftriaxone, có thể phải
làm CT bụng hay siêu âm bụng để loại trừ tắc niệu đạo hay viêm quanh thận.”
Dĩ nhiên là sau đó sẽ tranh luận để thống nhất đi đến chẩn đoán và phương cách
điều trị. Đó là công việc khác, không phải nội dung của quyển sách này. Điều
quan trọng nhất là sự chuẩn bị tốt trước khi trình bệnh. Tự tập dợt trình bệnh
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |