MỤc lục danh sách các từ viết tắT 12 Đbscl: 12 Đồng bằng sông Cửu Long 12
|
STT |
Quốc gia |
Sản lượng khai thác năm 2006 (nghìn tấn) |
1 |
Australia |
1.140 |
2 |
Nam Phi |
952 |
3 |
Canada |
809 |
4 |
Trung Quốc |
400 |
5 |
Na Uy |
380 |
6 |
Hoa Kỳ |
300 |
7 |
Ukraine |
220 |
8 |
Ấn Độ |
200 |
9 |
Brazil |
130 |
10 |
Việt Nam |
100 |
11 |
Mozambique |
750 |
12 |
Madagascar |
700 |
13 |
Senegal |
150 |
14 |
Các nước khác |
120 |
Tổng cộng |
4.800 |
Tại Australia sa khoáng ven biển chủ yếu được khai thác dọc theo bờ biển phía tây. Các khu vực khác như lưu vực cửa sông Murray, dải ven biển phía tây nam New South Wales và phía tây bắc bang Victoria cũng là những khu vực có trữ lượng sa khoáng lớn.Từ năm 2003 Australia đã là nước khai thác sa khoáng hàng đầu thế giới (28% sản lượng thế giới) với 2,01 triệu tấn ilmenit, 173.000 tấn rutil, 58.000 tấn leucoxene và 462.000 tấn zircon.
Nam Phi là nước có sản lượng ilmenit khai thác lớn nhất tại châu Phi, và chiếm hơn 30% sản lượng ilmenit của thế giới. Hoạt động khai thác sa khoáng ven biển là một trong những ngành công nghiệp mang lại lợi nhuận cao tại châu Phi, các quốc gia khác tại châu Phi cũng có sản lượng sa khoáng ven biển lớn là Mozambique, Kenya, Tanzania, Namibia, Mô-ri-ta-ni, Sierra Leone, Senegal và Gambia.
Đối với các loại sa khoáng biển có giá trị cao như vàng, kim cương cũng đã được một số quốc gia và các công ty khai khoáng tiến hành khai thác. Tuy nhiên vàng và kim cương thường phân bố tại những vùng biển có độ sâu lớn, để khai thác được những sa khoáng này đòi hỏi có kỹ thuật và phương tiện hiện đại, do đó hiện nay mới chỉ có Hoa Kỳ và một số công ty khai khoáng đa quốc gia có đủ trình độ, kỹ thuật hiện đại tiến hành khai thác tại một số vùng biển trên thế giới.
Tại Bỉ, hầu hết cát được nạo vét từ bờ biển Kwinte và bờ biển phía đông của Thornton và được sử dụng chủ yếu trong ngành công nghiệp xây dựng như vật liệu san lấp, phụ gia xi măng hoặc trộn bê tông. Sản lượng khai thác cát và VLXD tại Bỉ trong những năm từ 1991 đến 2005 trung bình khoảng 1,5 triệu m3/năm. Tuy nhiên năm 1997, do nhu cầu sử dụng cát và VLXD để xây dựng đường ống dẫn khí đốt tăng cao, sản lượng khai thác năm 1997 đạt 3,8 triệu m3.
Tại Đan Mạch lượng cát, sỏi khai thác từ biển chiếm khoảng 10 - 15% tổng sản lượng vật liệu xây dựng. Từ năm 1988 đến nay trung bình mỗi năm Đan Mạch khai thác 5 triệu m³ vật liệu xây dựng từ biển. Các khu vực khai thác chủ yếu ở biển Baltic và Biển Bắc. Trung bình 50% khối lượng VLXD khai thác được sử dụng để phục vụ xây dựng và phần còn lại được sử dụng để san lấp các bãi biển, một phần nhỏ còn lại được dùng để xuất khẩu
Tại Phần Lan, trước năm 2004 lượng cát và sỏi khai thác từ các khu vực ven biển của Phần Lan chiếm không đáng kể. Từ năm 2004 trở lại đây, do nhu cầu VLXD tăng cao lượng cát, sỏi khai thác từ biển của Phần Lan tăng đáng kể, năm 2004 sản lượng khai thác đạt 1,6 triệu tấn và đên năm 2005 sản lượng khai thác đạt 2,388triệum3.
Tại Pháp VLXD khai thác từ biển chỉ chiếm một phần nhỏ (1%) trên tổng sản lượng VLXD của quốc gia. Sản lượng khai thác trung bình những năm gần đây khoảng 4,65 triệu m3. Tại một số khu vực như bờ biển Normandy, Brittany vàdọc theo bờ biểnĐạiTâyDương việc khai thác VLXD từ biển bị hạn chế và nằm dưới quyền kiểm soát của Chính phủ, sản lượng khai thác của các khu vực này khoảng 0,3-0,4 triệu m3/năm.
Tại Đức, khai thác VLXD từ biển diễn ra ở cả biển Baltic và biển Bắc. Sản lượng VLXD khai thác từ biển trung bình khoảng 5triệu m3/năm. Cát khai thác ở biển Baltic chủ yếu được sử dụng để san lấp, bảo tồn các bãi biển ven bờ. Trong những năm gần đây, việc khai thác VLXD tại Đức đã bị hạn chế do lo ngại các ảnh hưởng xấu đến môi trường. Tuy nhiên tại khu vực biển Bắc hoạt động khai thác vẫn được tiếp tục để phục vụ nhu cầu VLXD tại Đức và một phần dùng để xuất khẩu.
Tại Vương quốc Anh, VLXD có nguồn gốc từ biển có ý nghĩa hết sức quan trọng trong ngành công nghiệp xây dựng, đặc biệt là ở Anh và xứ Wales, nơi có khoảng 20% cát và sỏi được khai thác từ biển. Sản lượng cát-sỏi khai thác hàng năm từ biển của nước Anh và xứ Wales đạt khoảng 13,25 triệu m3/năm, trong đó khai thác tại bờ biển phía nam nước Anh khoảng 6 triệu m3, còn lại được khai thác tại xứ Wales và các khu vực khác. Khối lượng cát, sỏi khai thác được từ biển một phần phục vụ xây dựng trong nước và một phần được xuất khẩu sang Pháp, Bỉ và Hà Lan (khoảng (3,6-4.200.000 m³/năm).
Như vậy có thể thấy, hoạt động khai thác VLXD từ đáy biển ở các nước trên thế giới đã và đang diễn ra rất sôi động.
Tuy nhiên, trước những rào cản về tác động môi trường trong quá trình khai thác và những hạn chế về trình độ công nghệ khai thác biển sâu, hầu hết các dự án khai thác kết hạch đa kim đáy biển mới chỉ thực hiện ở mức thí nghiệm đánh giá trữ lượng. Tuy nhiên một số nước như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn tiếp tục theo đuổi các nghiên cứu về tìm kiếm, thăm dò và công nghệ khai thác các kết hạch đa kim ở đại dương.
Với chính sách mở rộng các vùng đất ở biển khơi nhằm phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ mới, Trung Quốc đã tiến tới các vùng biển quốc tế ở xa bờ. Năm 1991, Cơ quan quản lý biển của Liên hợp quốc đã cho phép Trung Quốc khai thác kết hạch đa kim ở khu vực rộng 150.000km2 trên vùng biển Thái Bình Dương. Hiện nay, khu khai thác quặng đặc quyền thứ hai ở vùng biển quốc tế của Trung Quốc cũng đang được Liên hợp quốc cân nhắc, xem xét.
Bảng 1.2: Sản lượng khai thác VLXD từ biển tại các nước
TT |
Năm |
Sản lượng khai thác VLXD của các quốc gia (m3) | ||||||||
Bỉ |
Hà Lan |
Đan Mạch |
Tây Ban Nha |
Phần Lan |
CH Pháp |
Đức |
Vương quốc Anh |
Hoa Kỳ | ||
1 |
1988 |
584.759 |
6.954.216 |
3.565.968 |
|
|
|
|
|
|
2 |
1989 |
963.709 |
8.426.896 |
7.675.728 |
|
|
|
|
|
|
3 |
1990 |
957.908 |
13.356.764 |
5.74 1.765 |
663.797 |
|
|
|
|
16.350.000 |
4 |
1991 |
1.448.116 |
12.769.685 |
6.397.951 |
663.797 |
|
|
|
|
7.115.000 |
5 |
1992 |
1.232.773 |
14.795.025 |
4.379.183 |
1.315.433 |
<500.000 |
|
|
12.384.941 |
12.320.000 |
6 |
1993 |
1.448.413 |
14.795.025 |
4.323.618 |
2.186.176 |
<500.000 |
|
|
11.316.779 |
11.900.000 |
7 |
1994 |
1.602.040 |
13.554.273 |
5.174.042 |
2.752.974 |
<500.000 |
|
|
13.300.758 |
9.350.000 |
8 |
1995 |
1.669.488 |
16.832.471 |
5.306.214 |
415.834 |
<500.000 |
|
|
15.736.601 |
13.400.000 |
9 |
1996 |
1.443.669 |
23.149.633 |
6.321.817 |
1.477.981 |
<500.000 |
|
|
16.032.275 |
13.200.000 |
10 |
1997 |
3.893.302 |
22.751.152 |
6.402.894 |
1.667.668 |
|
|
691.609 |
14.985.848 |
11.400.000 |
11 |
1998 |
1.392.901 |
22.506.588 |
6.661.685 |
1.408.231 |
|
|
|
13.775.048 |
6.000.000 |
12 |
1999 |
1.685.170 |
22.396.786 |
12.035.548 |
492.000 |
|
|
441.019 |
15.932.126 |
8.600.000 |
13 |
2000 |
1.900.974 |
25.419.842 |
7.116.343 |
410.000 |
|
467.000 |
1.046.077 |
13.889.690 |
15.800.000 |
14 |
2001 |
1.911.057 |
36.445.624 |
5.413.210 |
298.295 |
|
464.000 |
501.875 |
13.712.245 |
19.700.000 |
15 |
2002 |
1.619.216 |
33.837.614 |
5.574.213 |
83.500 |
|
464.000 |
509.186 |
13.213.062 |
9.600.000 |
16 |
2003 |
1.653.804 |
23.887.937 |
6.185.859 |
792.660 |
|
475.000 |
603.043 |
13.389.199 |
12.600.000 |
17 |
2004 |
1.551.000 |
23.589.846 |
6.460.000 |
792.660 |
1.600.000 |
470.500 |
626.448 |
12.981.178 |
4.500.000 |
18 |
2005 |
1.364.165 |
28.757.673 |
11.050.000 |
48.662 |
2.388.000 |
472.000 |
723.581 |
12.781.708 |
5.751.000 |
Tại Nhật Bản, từ năm 1969 đến năm 1971, một dự án điều tra cơ bản để phát triển tài nguyên khoáng sản biển sâu đã được thực hiện bằng nguồn tài chính đặc biệt của Cơ quan Khoa học và Công nghệ Nhật Bản. Năm 1972, chương trình 5 năm “Điều tra cơ bản để thăm dò tài nguyên khoáng sản biển sâu” đã được thực hiện bởi cơ quan Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản. Phần lớn diện tích khảo sát nằm ở vũng Mariana và dãy núi ngầm Magellan. Các kết hạch sắt mangan đã được thu thập từ nhiều vị trí ở độ sâu trên 5000m. Nhiều chương trình nghiên cứu công nghệ khai thác kết hạch đã được duy trì từ đầu những năm 80. Năm 1982, chính phủ đã thông qua về mặt pháp lý cho việc thành lập Hiệp hội nghiên cứu công nghệ hệ thống khai mỏ các kết hạch mangan gồm 20 công ty Nhật Bản và Viện Khoa học công nghiệp, kỹ thuật và công nghệ cao Quốc gia (AIST).
Năm 2010, ngoài việc nghiên cứu các vùng biển xa, Nhật Bản đang tích cực đẩy mạnh việc tìm kiếm các nguồn tài nguyên khoáng sản quanh các vùng biển sâu gần Nhật Bản với số vốn đầu tư lên đến 4 tỷ yên nhằm tìm quặng kim loại dưới đáy biển như mangan, coban, chì và kẽm.
Công ty phát triển Khoáng sản đáy đại dương (DORD) của Nhật Bản đã ký hợp đồng thăm dò, khai thác khoáng sản đáy đại dương với Cơ quan quyền lực đáy đại dương vào ngày 20 tháng 6 năm 2001. Công ty hiện vẫn chưa tiến hành hoạt động thăm dò nào nhưng các số liệu đã thu thập trước đó đang được tiến hành phân tích để nghiên cứu các phương án đầu tư và thiết kế các pha thăm dò tiếp theo.
Ấn Độ tiến hành điều tra nghiên cứu về kết hạch đa kim từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Cục Phát triển đại dương (DOD) là cơ quan thực hiện các chương trình với sự tham gia của các Bộ, sở, ngành, các cơ quan Chính phủ và các tổ chức tư nhân. Ấn Độ chuẩn bị gia nhập Chương trình Khai thác Đại dương Hợp nhất (IODP), một liên minh gồm 17 nước châu Âu, Nhật Bản và Mỹ. Tháng 8 năm 1987, Ấn Độ được giao khu vực 150.000 km2 ở miền Trung Ấn Độ Dương. Ấn Độ cũng đã hợp tác với các nước như Nga, Đức, Nhật… trong điều tra, thăm dò khoáng sản kết hạch đa kim.
Hàn Quốc, từ năm 1994 đã được cấp 150.000km2 để khai thác mỏ sunfur đa kim thuộc đới đứt gãy Clarion-Clipperton, năm 2002 đã có 75.000km2 được điều tra cơ bản. Năm 2007, bằng việc lấy mẫu phân tích kết hạch và số liệu phân tích môi trường đã thành lập bản đồ môi trường cơ bản cho 40.000km2 diện tích vùng mỏ ưu tiên. Trong năm 2007, Hàn Quốc cũng đã tổ chức hai đoàn khảo sát đo vẽ đáy biển với mức độ chi tiết cao và nghiên cứu các mẫu trầm tích để lựa chọn 20.000km2 để ưu tiên khai thác.
Công ty công ty khai thác mỏ Nautilus liên doanh giữa Ôxtrâylia và Cannada cũng là một trong những công ty đầu tiên trên thế giới tiến hành thăm dò đại dương ở quy mô thương mại để tìm kiếm các mỏ sulfur chứa vàng và đồng. Công ty này vừa nhận được giấy phép của chính quyền Papua New Guinea và bắt đầu khai thác xung quanh các ống khói đen ở giữa ngoài khơi hòn đảo này vào giữa năm 2009. Những mũi khoan thăm dò cho thấy trữ lượng đồng ở đây có thể lên đến hơn 2 triệu tấn. Công ty đang tập trung vào dự án Solwara 1 nằm ở vùng nước sâu của Papua New Guinea ở Tây Thái Bình Dương.
Năm 2008, công ty Nautilus đã công bố tóm tắt kết quả thăm dò ở Tonga, đây là chương trình thăm dò vùng nước sâu với quy mô thương mại tại khu vực đặc quyền kinh tế của Vương quốc Tonga.
Trong năm 2008, chương trình thăm dò kết hợp đã xác định được 10 khu vực tích tụ sulfur (SMS) khổng lồ mới ở đáy biển của Tonga. Trong đó 6 hệ thống đã được Nautilus đo vẽ vào giữa tháng 9 năm 2008. Kết quả này bổ xung vào 4 hệ thống do công ty Tech-company phát hiện ra, Tech-company đóng góp 4 khu vực triển vọng vào thoả thuận liên doanh với Nautilus. Kết quả tìm kiếm này cho thấy nguồn tài nguyên lớn mà Nautilus theo đuổi đã đạt được mục tiêu và kết quả đã được kiểm tra.
Phần lớn của chương trình khảo sát năm 2008 tập trung vào kiểm tra các mục tiêu trong một dải tương đối ngắn 100 km/1.500km mà Nautilus đã xin phép thăm dò. Đã xác định được thành phần khoáng hoá chủ yếu là kẽm với hàm lượng cao.
Ngoài ra, Nautilus cũng xin được thăm dò và khai thác một diện tích 591 km2, ở độ sâu 1,6 km trong 25 năm ở biển Bismark, nằm về phía bắc Papua New Guinea. Uớc tính các mỏ đang thăm dò hiện nay có giá trị khoáng sản là một tỷ đô la Mỹ (theo giá khoáng sản hiện nay). Công ty này đang sử dụng kết hợp công nghệ khai thác được phát triển trong ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ ở ngoài khơi để khai thác khoáng sản đáy biển sâu.
Tháng 7/2009, Tập đoàn Khoáng sản của CHLB Nga đã khám phá mỏ quặng hỗn hợp rất giàu tại khu vực dải núi ngầm giữa Đại Tây Dương ở độ sâu gần 4 km với dự đoán tài nguyên hơn 13 tỷ tấn. Gần đây nhất, Nga đã phát hiện vỉa quặng kim loại hỗn hợp lớn, bao gồm sắt, đồng, kẽm, nikel trên đáy Đại Tây Dương. Tập đoàn Khoáng sản Liên Bang Nga “Polimetall” đang nghiên cứu vỉa quặng coban ở Thái Bình Dương. Hiện Tập đoàn “Polimetall” đã có 1 Hợp đồng ký năm 2001 với Cơ quan quyền lực về thăm dò khoáng sản đáy đại dương để chuẩn bị mở rộng phạm vi tìm kiếm.
Tại các tỉnh như Thanh Hóa (khu vực cửa biển Lạch Hới), Thừa Thiên Huế (bãi biển xã Vinh Thanh), Đà Nẵng (khu vực vịnh Đà Nẵng), Trà Vinh (xóm Khâu Lầu, xã Trường Long Hà)… vẫn thường diễn ra hoạt động khai thác cát biển với quy mô vừa và nhỏ.
Nhu cầu khai thác vật liệu xây dựng đáy biển thực sự đang rất cao đối với cả các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài. Nhu cầu này xuất phát từ giá trị kinh tế việc khai thác cát, và ý nghĩa đối với phát triển kinh tế biển, cụ thể như trường hợp tỉnh Sóc Trăng sau đây:
Ngày 19 tháng 2 năm 2003, Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng có công văn số 133/CV.HC.03 gửi Bộ Tài nguyên Môi trường và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc công ty Rohde Nielsen A/S đề nghị thực hiện dự án hợp tác thăm dò và khai thác cát biển tại tỉnh Sóc Trăng. Xem xét ý kiến đề xuất của tỉnh Sóc Trăng, Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo tại công văn số số 1331/VPCP-QHQT ngày 23 tháng 3 năm 2004 cần “khẩn trương hoàn tất việc thăm dò, đánh giá tiềm năng tài nguyên khoáng sản vùng ven biển Sóc Trăng để có căn cứ cho các doanh nghiệp lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, cũng là cơ sở cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định các dự án đầu tư vào khu vực này”.
Tổng tài nguyên dự báo đối với khoáng sản vật liệu xây dựng đáy biển tỉnh Sóc Trăng là 13,9 tỷ m3, trong đó diện tích cát có triển vọng làm vật liệu xây dựng tốt nhất là khu vực phía Đông Bắc Công Đảo, với diện tích là 350km2, tài nguyên dự báo là 1.937 tỷ m3 (chiều dày tập trầm tích là 10m). Nếu tính khai thác 35% tổng trữ lượng dự báo (~ 0,7 tỷ m3), thì lợi nhuận đem lại cho tỉnh Sóc Trăng theo như công ty Rohde Nielsen A/S xác định năm 2003 (lợi nhuận ~ 30 đến 50 cent/m3) là 350 triệu USD (tương đương với 7.700 tỷ đồng theo tỷ giá USD năm tháng 5/2012); nếu tính chỉ khai thác 10% tài nguyên dự báo (~0,2 tỷ m3), lợi nhuận đem lại cho tỉnh Sóc Trăng là 100 triệu USD (tương đưong với 2.200 tỷ đồng theo tỷ giá USD năm tháng 5/2012). Đây thực sự là một nguồn thu không nhỏ đối với tỉnh Sóc Trăng nếu như các dự án đầu tư khai thách được đưa vào thực hiện. Nguồn thu này sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân tỉnh Sóc Trăng, góp phần thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh của Đảng và Nhà nước.được minh chứng bằng ví dụ của tỉnh Sóc Trăng trong những năm gần đây.
Tại Mỹ, có riêng một tổ chức chịu các trách nhiệm về các vấn đề liên quan tới môi trường trong khai thác khoáng sản là Cục Quản lý Khoáng sản (the Minerals Management Service - MMS) thuộc Bộ Nội vụ Mỹ (U.S. Department of Interior - DOI). Việc bảo vệ môi trường và tạo lập hệ thống cơ sở pháp lý cho việc ban hành những biện pháp giảm thiểu các tác động môi trường trong toàn bộ hoạt động thăm dò và khai thác khoáng sản biển là một trong những nhiệm vụ chính của MMS. Do đó, MMS đã dựa trên những yêu cầu của Đạo luật về chính sách môi trường quốc gia (the National Environmental Policy Act - NEPA) và những quy định của Hội đồng chất lượng môi trường (Council of Environmental Quality - CEQ), để thực hiện các phân tích và đánh giá tác động môi trường của hoạt động khai thác khoáng sản biển dự định tiến hành dựa trên những trường hợp cụ thể. Tài liệu này cung cấp cho MMS những hướng dẫn cụ thể trong việc quy định các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường của những hoạt động khai thác khoáng sản biển trong tương lai tại vùng thềm lục địa (OCS) của Mỹ. Nhìn chung, các yêu cầu chính trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của Mỹ luôn đảm bảo được ba yêu cầu chính là:
(1) Dự đoán tác động môi trường;
(2) Thiết lập các mục tiêu giảm thiểu tác động môi trường;
(2) Cung cấp tiêu chí đánh giá kết quả kiểm soát mục tiêu giảm thiểu tác động môi trường.
Vương quốc Anh cũng là quốc gia có sản lượng vật liệu xây dựng được khai thác từ biển lớn. Cơ quan cấp phép khai thác tại Vương quốc Anh là Estate Crown. Các khu vực khai thác chủ chính là phía ngoài cửa sông Thames, Great Yarmouth và khu vực đảo Wight. Công tác đánh giá tác động môi trường cho các hoạt động khai thác khoáng sản biển đã được quan tâm. Tại Anh nội dung của công tác đánh giá tác động môi trường phải đảm bảo các yêu cầu sau:
(1) Thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu;
(2) Xác định các tác động đến môi trường;
(3) Xác định các phương pháp đánh giá tác động và so sánh với các tiêu chuẩn môi trường;
(4) Đề xuất các biện pháp giảm nhẹ ảnh hưởng đến môi trường;
(5) Đề xuất các biện pháp giám sát môi trường.
Trong quá trình ĐTM của các hoạt động KTKSRĐB, các chủ đầu tư tại Vương Quốc Anh cần phải tuân thủ hướng dẫn Đánh giá môi trường chiến lược (Strategic Environmental Assessment - SEA). Vai trò của SEA trong khai thác tổng hợp biển được hiểu như một phương pháp tiếp cận, SEA có thể cung cấp một chiến lược phù hợp và phương pháp tiếp cận bền vững cho việc xác định và phân bổ các khu vực khai thác tổng hợp biển ở các vùng nước biển Anh. Mục tiêu chính của SEA là "Lồng ghép các vấn đề môi trường vào việc chuẩn bị và thông qua các kế hoạch và chương trình nhằm thúc đẩy phát triển bền vững". Trách nhiệm quan trọng để kiểm sóat các nhà đầu tư để tiến hành SEA thuộc về Chính phủ và các cơ quan quản lý.
Ấn Độ cũng là nước có hoạt động khai thác khoáng sản biển từ khá sớm. Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường đới ven bờ và nhu cầu cần thiết phải bảo tồn đới bờ từ các tác động của khai thác khoáng sản biển, Ấn Độ đã tiến hành đánh giá tác động môi trường với mục đích:
(1) Đánh giá các điều kiện môi trường có liên quan tới các loại hình sa khoáng dọc theo bờ biển phía đông và tây Ấn Độ;
(2) Xây dựng các mô hình sinh thái nhằm dự báo tác động môi trường từ hoạt động khai thác;
(3) Xây dựng các quy định cụ thể về quan trắc và thu thập dữ liệu môi trường;
(4) Xây dựng cơ sở dữ liệu về môi trường cho các mỏ sa khoáng khác nhau.
Tại Australia, các cơ quan Chính phủ và địa phương có trách nhiệm quản lý việc khai thác cát và sỏi từ đáy biển. Các công ty khai thác phải được chấp nhận từ cấp có thẩm quyền có liên quan trước khi tiến hành việc khai thác cát và sỏi. Các dự án khai thác phải lập báo cáo ĐTM và đề xuất các biện pháp bảo vệ môi trường trong suốt thời gian khai thác. Báo cáo ĐTM được hoàn thành sau khi có sự thống nhất của các cơ quan chính phủ và chính quyền địa phương có liên quan và được thông báo công khai để lấy ý kiến đóng góp của người dân, các nhóm cộng đồng, các cơ quan Chính phủ và các bên có quan tâm khác trước khi quyết định đưa ra áp dụng để có thể triển khai việc khai thác.
Nhật Bản là quốc gia sử dụng vật liệu xây dựng khai thác từ đáy biển lớn nhất trên thế giới. Chính quyền địa phương cấp giấy phép cho việc khai thác phải dựa trên hệ thống luật liên quan đến sự an toàn của biển, bảo vệ môi trường biển, bảo vệ các bến cảng, bờ biển, các nguồn sinh vật biển, bảo vệ nước biển không bị ô nhiễm, các khu vực cảng. Việc khai thác được phép chỉ khi các hoạt động khai thác đáp ứng được các yêu cầu về tự nhiên về luật pháp và kỹ thuật. Nhằm mục đích bảo vệ đường bờ biển, việc khai thác trên biển giới hạnngoài 1km so với bờ biển. Đồng thời, Chính phủ ngăn cấm việc khai thác ở những vùng nước sâu dưới 30 mét. Những yêu cầu này chính là cơ sở để tiến hành đánh giá tác động môi trường ở Nhật Bản đối với các hoạt động khai thác khoáng sản rắn từ đáy biển.
Đối với Malaysia, việc quản lý khai thác cát biển do Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương kiểm soát tùy theo mức độ đầu tư và quy mô khai thác. Trong giới hạn 3 hải lý từ bờ biển thuộc quyền quản lý của chính quyền địa phương. Ngoài 3 hải lý là lãnh hải do chính phủ quản lý và cấp phép khai thác. Các dự án có diện tích vùng khai thác trên 50 ha (0,5 km2) đều phải tiến hành ĐTM. Chính phủ Malaysia không cho phép tiến hành khai thác ở những khu vực cách bờ chưa đến 1,5 km và khu vực có độ sâu dưới 10 mét. Điều này đảm bảo rằng việc nạo vét sẽ không phá vỡ sự cân bằng của sự di chuyển trầm tích gần bờ. Nếu như không thể đáp ứng được yêu cầu này do các điều kiện thực tiễn, các lý do kỹ thuật hoặc lý do kinh tế, thì bắt buộc phải tiến hành nghiên cứu đánh giá tác động môi trường.
Như các phần trên đã trình bày, các hoạt động KTKSRĐB chưa được triển khai ở Việt Nam do thiếu các văn bản pháp lý…vì thế để có thể xây dựng các quy định, hướng dẫn ĐTM cho các dự án KTKSRĐB cần phải tham khảo các hướng dẫn, quy định tài liệu có liên quan đến ĐTM của các chuyên ngành có liên quan đến biển và khai thác khoáng sản. Dưới đây là một số đánh giá tổng quan về quy định về ĐTM của 3 lĩnh vực:
- Thăm dò, khai thác dầu khí;
- Nuôi trồng thủy sản trên biển;
- Khai thác sa khoáng và VLXD ven biển, cửa sông.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản đã có những đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội nhưng mặt khác, hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng gây ra không ít tác động xấu tới môi trường
Để phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững cần có một khuôn khổ pháp lý cho quản lý và bảo vệ môi trường vùng ven biển Việt Nam. Luật Thuỷ sản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 26/11/2003 và có hiệu lực thi hành từ01/07/2004; Cùng với Luật bảo vệ môi trường, hai bộ luật này tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Nhận rõ tính cấp thiết của công tác quản lý môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản ven biển, tháng 1/2007 Bộ Thủy sản (nay là Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn)đã ban hành Hướng dẫn Đánh giá tác động môi trường nuôi trồng thủy sản ven biển. Bản hướng dẫn đã cung cấp những hướng dẫn kỹ thuật có thể sử dụng để đánh giá các tác động môi trường khi xây dựng một dự án nuôi trồng thuỷ sản và đề xuất những biện pháp thực tiễn giảm thiểu những tác động tiêu cực tới môi trường. Mặt khác Hướng dẫn cũng hỗ trợ cho việc thực thi Luật bảo vệ môi trường và Luật thuỷ sản trong hoạt động quản lý môi trường nuôi trồng thỷ sản ven biển tại Việt Nam.
- Trên biển: mẫu được lấy bằng cuốc đại dương (mẫu mặt) và mẫu ống phóng trọng lực (cột mẫu có thể dài từ vài chục centimet tới vài mét).
- Nghiên cứu theo chiều sâu của cột địa tầng trầm tích: mẫu được lấy theo các ống phóng trọng lực, ống phóng piston, mẫu hút piston tay, các lỗ khoan tay, khoan thổi và trong các lỗ khoan máy ở bãi triều.
- Các phương pháp phân tích mẫu (độ hạt, thạch học, định lượng toàn diện các đá bở rời, khoáng vật sét, cổ sinh, tuổi tuyệt đối...).
+ Phương pháp phân tích thành phần độ hạt
Các mẫu trầm tích Đệ tứ của vùng nghiên cứu được phân tích chủ yếu bằng hai phương pháp rây và pipet:
- Phương pháp rây: phương pháp này áp dụng cho trầm tích có thành phần cấp hạt > 0,1 m m . Bộ rây sử dụng là rây 10√10 .
- Phương pháp pipet được áp dụng để phân tích trầm tích có thành phần cấp hạt < 0,1mm.
Kết quả của hai phương pháp trên sẽ cho ta hàm lượng % của các cấp hạt từ thô tới mịn. Từ kết quả này sẽ dựng đường cong tích luỹ và tính toán các hệ số độ hạt Md (kích thước hạt trung bình ), So (độ chọn lọc), Sk (hệ số bất đối xứng) theo phương pháp Trask.
+ Phương pháp xác định thành phần khoáng vật vụn cơ học
Xác định thành phần khoáng vật nặng: được phân tích theo thành phần cấp hạt và dùng dung dịch Bromofort có tỉ trọng d= 2,9. Khoáng vật nặng chủ yếu là các khoáng vật phụ, khoáng vật tạo đá giầu sắt, magnhe và một số khoáng vật trầm tích khác. Khoáng vật nặng rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu địa tầng, xác định nguồn cung cấp vật liệu. Khi nghiên cứu chú ý vào từng loại khoáng vật hoặc từng tổ hợp khoáng vật.
Phương pháp phân tích định lượng toàn diện các đá bở rời: Sử dụng bộ rây tách thành 5 cấp hạt (0,063-0,1; 0,1-0,25; 0,25-0,5; 0,5-1,0; >1,0 mm), sau đó từng cấp hạt được phân tích dưới kính hai mắt. Phương pháp này cho phép xác định định lượng thành phần nhóm khoáng vật tạo đá, khoáng vật tại sinh, nhóm mảnh vụn sinh vật. Từ đó có thể tái lập lại điều kiện thành tạo, cũng như điều kiện cổ địa lý của tầng trầm tích.
+ Phương pháp xác định định lượng thành phần khoáng vật sét bằng các phân tích Rơnghen định lượng, Nhiệt vi sai.
Các phương pháp này cho phép xác định hàm lượng % của từng khoáng vật sét có trong mẫu hoặc mức độ ưu thế của các loại khoáng vật. Căn cứ vào đặc điểm hàm lượng tỷ lệ này giúp cho việc xác định tính chất của môi trường trầm tích. Ngoài ra, nghiên cứu xác định thành phần khoáng vật sét dùng để xác định và đánh giá chất lượng về mặt khoáng sản sét.
+ Phương pháp phân tích cổ sinh
Trong đề án này đã sử dụng kết quả phân tích các nhóm vi cổ sinh gồm Foraminifera, bào tử phấn hoa, tảo vôi, tảo silic nhằm xác định tuổi và môi trường thành tạo trầm tích cũng như luận giải về điều kiện cổ địa lý.
+ Phương pháp xác định tuổi tuyệt đối bằng 14C
Phương pháp xác định tuổi tuyệt đối bằng phương pháp đồng vị 14C được sử dụng để luận giải, so sánh, phân chia địa tầng trầm tích Đệ Tứ, đồng thời nhằm xác lập lịch sử phát triển của các thành tạo Đệ tứ cho vùng nghiên cứu.
- Các phương pháp xử lý, luận giải kết quả phân tích, tính toán các tham số trầm tích, khoáng vật.
- Phương pháp thạch địa tầng
- Phương pháp sinh địa tầng
- Phương pháp địa chấn địa tầng
- Phương pháp liên hệ so sánh
- Phương pháp phân tích nhịp, chu kỳ trong trầm tích Đệ tứ
+ Có các mỏ, điểm quặng ở trên bờ và đáy biển lân cận vùng triển vọng đã được phát hiện.
+ Có các dị thường trọng sa, dị thường các nguyên tố quặng, các dị thường xạ phổ thori, uran....
+ Có hàm lượng trung bình các khoáng vật quặng Ti-Zr-TR lớn hơn 5.000g/m3 (0,33%).
+ Có các mỏ, điểm quặng ở trên bờ và đáy biển lân cận vùng triển vọng đã được phát hiện.
+ Có các dị thường trọng sa, dị thường các nguyên tố quặng, các dị thường xạ phổ thori, uran....
+ Có hàm lượng trung bình các khoáng vật quặng Ti-Zr-TR từ 1.000g/m3 đến 5.000g/m3 (0,33%).
+ Có tiền đề thuận lợi được xác định (vùng phát triển các tướng trầm tích địa mạo cổ như bãi biển cổ, bờ biển cổ, lòng sông cổ, cồn cát chôn vùi có điều kiện tích tụ sa khoáng).
+ Có các dị thường trọng sa, dị thường các nguyên tố quặng, các dị thường xạ phổ thori, uran.... bậc thấp
+ Có hàm lượng trung bình các khoáng vật quặng Ti-Zr-TR nhỏ hơn 1.000g/m3 (0,06%).
Cấp tài nguyên dự kiến là 334a, 334b.
+ Xác định được chiều dày lớp trầm tích triển vọng vật liệu xây dựng bằng các công trình sâu (khoan, hút piston tay…) kết hợp với luận giải qua tài liệu địa chấn nông độ phân giải cao.
+ Chiều dày lớp trầm tích >1m.
+ Xác định được chiều dày lớp trầm tích triển vọng vật liệu xây dựng bằng luận giải qua tài liệu địa chấn nông độ phân giải cao.
+ Chiều dày lớp trầm tích >1m.
Tài nguyên dự báo có triển vọng sa khoáng được tính theo công thức:
Q = S × H × X
Q: Là tài nguyên dự báo của các khoáng vật trọng sa.
S: Là diện tích phân bố sa khoáng theo kết quả phân tích trọng sa.
H: Là chiều dày của lớp trầm tích chứa sa khoáng.
Ở khu vực bãi triều, H được xác định dựa trên các tài liệu khoan tay và khoan máy bãi triều, khoan máy cửa sông. Ở độ sâu lớn hơn 1,5m nước H được xác định dựa theo các tài liệu địa vật lí, ống phóng piston, ống phóng trọng lực, khoan thổi….
X: Là hàm lượng trung bình của tổng khoáng vật nặng của các trạm khảo sát được lấy mẫu và phân tích trong diện tích có triển vọng sa khoáng.
Q = S × L × k.
Trong đó:
Q: Là tài nguyên dự báo của VLXD
S: Diện tích khu vực có triển vọng VLXD
L: Chiều dày trung bình của khu vực có triển vọng VLXD
k: Hệ số xác định hợp phần có ích sử dụng làm VLXD.
Các chỉ số này được xác định như sau:
- Diện tích khu vực có triển vọng vật liệu xây dựng (S) được xác định trên cơ sở khoanh nối các điểm khảo sát có trầm tích đạt chất lượng làm VLXD. Trước đây theo tiêu chuẩn của Nga (Liên Xô cũ) thì cát được xác định là vật liệu trầm tích có cấp hạt từ 0,1 đến 1mm. Để phù hợp với phân loại trầm tích của Cục Địa chất Hoàng gia Anh cấp hạt của cát trong trầm tích biển được xác định trong khoảng từ 0,063mm đến 2mm. Sự thay đổi này cho phép xác định chính xác hơn trữ lượng VLXD và hoàn toàn đáp ứng theo tiêu chuẩn của các nước đang dự kiến hợp tác khai thác khoáng sản ở đáy biển vùng nghiên cứu.
- Chiều dày khu vực có triển vọng VLXD (L) được xác định theo tài liệu địa chấn nông độ phân giải cao kết hợp với kết quả nghiên cứu địa tầng trong các lỗ khoan máy bãi triều, khoan cửa sông, khoan thổi, ống phóng trọng lực, lặn lấy mẫu…..
- Hệ số hợp phần có ích (k) được xác định theo yêu cầu sử dụng VLXD (do cát biển khi khai thác từ đáy biển chưa thể sử dụng được ngay vì hàm lượng tạp chất như mùn thực vật, bùn, bột, vỏ sò…, các muối gốc sunfat, sunfit và mica khá cao do vậy cần được tuyển rửa trước khi sử dụng) phải đạt theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7570 (2006). Hệ số k được áp dụng tính cho các vùng triển vọng cát sử dụng cho bê tông nặng và vữa xây trát: Cụ thể tính như sau:
Hệ số k = tổng lượng hạt từ 5mm đến 0,14mm chia cho khối lượng cát
Hoạt động khai thác khoáng sản rắn đáy biển tác động trực tiếp đến địa hình đáy biển, làm biến dạng địa hình đáy biển. Đồng thời, sự thay đổi địa hình đáy biển cũng tác động ngược trở lại các yếu tố gây ảnh hưởng khác như thủy động lực, biến đổi môi trường sinh thái. Do đó, thực hiện phương pháp này là điều kiện bắt buộc đối với khảo sát xây dựng dự án đầu tư và thành lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Phương pháp này xác định đặc điểm địa hình đáy biển khu vực dự kiến khai thác và khu vực lân cận (mở rộng về các phía xung quanh khu vực khảo sát gấp từ 0,7 đến 1 lần diện tích khảo sát).
Công tác đo vẽ địa hình đáy biển có thể sử dụng một trong 3 phương pháp tương ứng với hệ thiết bị như sau:
- Đo sâu theo điểm (leadline);
- Đo sâu đơn tia (Single beam);
- Đo sâu đa tia (multibeam).
Phương pháp sonar đã được áp dụng có hiệu quả trong các lĩnh vực:
- Nghiên cứu đặc điểm địa hình đáy biển;
- Nghiên cứu đặc điểm trầm tích trên đáy biển (thành phần thạch học, kích thước độ hạt,…).
Các kết quả khảo sát bề mặt đáy biển trên nhằm phục vụ cho các chuyên ngành trầm tích, địa mạo, đo vẽ bản đồ đáy biển, xây dựng công trình biển, tìm kiếm các vật thể bị chìm đắm... Bên cạnh các ứng dụng đó, trong những năm gần đây với sự phát triển mạnh mẽ về trình độ kỹ thuật của các thiết bị đo sonar quét sườn, phương pháp này đã được áp dụng trong nghiên cứu, điều tra GH tại các vùng biển trên thế giới.
Các thiết bị đo sonar quét sườn phục vụ nghiên cứu địa hình đáy biển được sử dụng là các thiết bị đo sonar quét sườn lưỡng tần có khả năng hoạt động tốt ở các độ sâu khác nhau.
Ví dụ như thiết bị CM2 DEEPTOW Sidescan sonar do hãng Cmax –Vương quốc Anh sản xuất.
Phương pháp được thực hiện ngay trong quá trình khảo sát sơ bộ, xây dựng dự án.
- Đánh giá được hiện trạng chất lượng nước biển;
- Xác định được xu thế diễn biến chất lượng nước biển theo không gian và thời gian;
- Kịp thời phát hiện và cảnh báo các trường hợp ô nhiễm nước biển, các sự cố ô nhiễm nước biển;