MỤc lục danh mục bảng danh mục hình danh mục biểU ĐỒ CÁc chữ viết tắT


II.2. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH ĐỒNG THÁP



tải về 2.62 Mb.
trang5/25
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích2.62 Mb.
#23429
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25

II.2. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH ĐỒNG THÁP

II.2.1. Thực trạng kinh tế thời kỳ 1996 - 2006

II.2.1.1. Tổng sản phẩm nội địa (GDP)


Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2001 – 2005 đạt 9,93% cao hơn 3,07% so với giai đoạn 1996 – 2000. GDP theo giá hiện hành tăng từ 3.360 tỷ đồng năm 1995 lên đến 5.421 tỷ đồng năm 2000, 9.973 tỷ đồng năm 2005 và 12.115 tỷ đồng vào năm 2006. GDP bình quân tăng 6,9%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000 và 9,9 %/năm trong giai đoạn 2001 – 2005, riêng năm 2006 tốc độ tăng trưởng đạt 14,27%, chủ yếu là do các ngành trồng trọt, thủy sản, công nghiệp và thương mại phát triển nhanh.

Các chỉ số trên cho thấy nền kinh tế tỉnh phát triển khá và đều đặn trong các năm qua, tuy nhiên tốc độ chỉ bằng 94,6% bình quân toàn vùng ĐBSCL (10,5%/năm).


II.2.1.2. Phát triển các ngành kinh tế

a. Nông nghiệp
a.1. Trồng trọt

Ngành trồng trọt giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu sử dụng đất (chiếm tỷtrọng 74,38% diện tích tự nhiên, 94% diện tích đất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp với thứ tự giá trị tăng thêm là: lúa, cây ăn quả, rau màu, cây công nghiệp hàng năm; trong đó, sản xuất lúa chiếm ưu thế rõ rệt. Tổng diện tích canh tác năm 2006 là 223.859 ha, tổng diện tích gieo trồng ước vào khoảng 453.977 ha.

Trong điều kiện đồng lũ thích nghi với canh tác lúa nước, canh tác lúa có vị trí quan trọng nhất trong cơ cấu ngành trồng trọt của tỉnh. Trong thời kỳ 1996 – 2006, diện tích canh tác lúa tăng trên 1.600 ha, đạt 223.859 ha năm 2006 và phân bố trên hầu hết địa bàn tỉnh, nhiều nhất là tại Tháp Mười và Cao Lãnh; diện tích gieo trồng tăng rất nhanh nhờ vào quá trình tăng vụ.

Năng suất lúa bình quân thuộc vào loại cao so với toàn vùng ĐBSCL (5,3 tấn/ha) và gia tăng ở mức độ trung bình (1,7%/năm). Sản lượng lúa tăng chậm trong giai đoạn 1996 – 2000 (0,8%/năm) và tăng rất nhanh trong những năm gần đây (6,8%/năm). Năm 2006, đạt 2.404.824 tấn, bình quân sản lượng lúa trên đầu người là 1.442 kg, thuộc vào loại cao so với các tỉnh vùng ĐBSCL.

- Năng suất và sản lượng lúa tăng khá nhanh trong 5 năm gần đây do nông dân ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong việc thâm canh, chọn giống; do hiệu quả của các chương trình khuyến nông, chương trình giống, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.

- Hoa màu lương thực: tập trung chủ yếu tại khu vực ven sông Tiền, sông Hậu và các cù lao. Diện tích cây bắp chiếm 4.989 ha, tập trung chủ yếu tại Hồng Ngự. Tổng sản lượng năm 2006 là 36.141 tấn bắp.

- Rau màu thực phẩm: có diện tích gieo trồng tăng nhanh, từ 4.536 ha năm 1995 lên 9.976 ha năm 2006 (tăng 7,4 %/năm), phân bố chủ yếu tại khu vực ven sông và cù lao, trong đó ngoài các loại rau phổ thông phục vụ đô thị và hệ thống canh tác được đặc trưng bởi vùng tập trung rau muống lấy hạt tại Thanh Bình và Hồng Ngự, vùng trồng ớt tại Thanh Bình. Năng suất rau tăng rất nhanh, dẫn đến sản lượng tăng nhanh (từ 25.555 tấn năm 1995 lên 151.682 tấn năm 2006.

- Cây công nghiệp hàng năm gồm các loại cây chính là đậu nành và mè. Nhìn chung, cây công nghiệp hàng năm chiếm tỷ trọng không cao, phát triển ít ổn định và phụ thuộc vào điều kiện thị trường. Diện tích đậu nành có khuynh hướng giảm từ 7.915 ha năm 1995 còn khoảng 3.187 ha năm 2000 và tăng nhanh lên 6.719 ha năm 2006, phân bố chủ yếu tại huyện Lấp Vò. Cây mè phân bố chủ yếu tại Lai Vung, diện tích gieo trồng 2.207 ha, sản lượng 2.356 tấn.

Trong điều kiện chịu ảnh hưởng lũ, kinh tế vườn trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp phát triển kém, chủ yếu phân bố tại khu vực ven sông vùng Cao Lãnh và vùng Sa Đéc. Cây dừa chiếm diện tích chỉ vào khoảng 464 ha, phân tán trong vườn cây ăn trái và có khuynh hướng giảm nhanh (-11,5%/năm), năng suất thấp (5,23 tấn/ha). Sản lượng năm 2006 là 2.427 tấn (giảm 1.079 tấn so với năm 2000).

- Cây ăn trái có diện tích canh tác tăng nhẹ từ 15.372 ha năm 1995 lên đến 21.939 ha năm 2006 (tăng 3,2 %/năm). Trong đó, nhãn (5.864 ha) và xoài (7.144 ha) là 2 loại cây trồng chiếm tỷ trọng cao nhất, kế đến là cây có múi (2.883 ha). Về cơ cấu, diện tích các loại cây ăn trái biến động mạnh theo điều kiện thị trường và tình hình dịch bệnh.

Bảng II.1: Các chỉ tiêu vật chất ngành trồng trọt năm 1995, 2000, 2006






1995

2000

2006

I. DIỆN TÍCH (ha)

1. Lương thực

385.332

410.998

458.966

- Lúa

383.053

408.368

453.977

- Ngô

3.294

2.890

4.989

2. Rau đậu các loại

4.526

4.033

9.976

3. Cây CN hàng năm

11.346

4.601

9.853

- Đậu nành

7.915

3.187

6.719

- Mè




287

2.207

4.Cây CN lâu năm (dừa)

2.017

964

464

5. Cây ăn trái

15.372

16.830

21.939

- Cam, chanh, quýt, bưởi

2.940

2.962

2.883

- Xoài

2.898

3.662

7.144

- Nhãn

2.206

6.191

5.864

II. SẢN LƯỢNG

1. Lương thực

1.811.706

1.889.887

2.440.965

- Lúa

1.802.169

1.878.426

2.404.824

- Ngô

9.537

11.461

36.141

2. Rau đậu các loại

25.555

27.830

151.682

3. Cây CN hàng năm










- Đậu nành

15.581

6.575

14.016

- Mè




132

2.356

4. Cây dừa (1000 trái)

10.895

3.506

-

5. Cây ăn trái

22.838

55.013

157.718

- Cam, chanh, quýt, bưởi

9.205

19.619

28.818

- Xoài

5.154

12.557

37.005

- Nhãn

8.479

22.837

49.476

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp, 2006

Giá trị sản xuất: tăng chậm trong giai đoạn 1996 – 2000 và tăng rất nhanh trong giai đoạn 2001 – 2006. Giá trị sản xuất năm 2006 là 7.421.534 triệu đồng (tương đương với 5.426.481 triệu đồng theo giá so sánh 1994).


a.2. Chăn nuôi

Trong điều kiện đồng lũ, ngành chăn nuôi tăng trưởng chậm, chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp (11,6%). Các sản phẩm chính là: heo, trâu, bò, dê, gia cầm.

- Đàn heo: tăng chậm trong giai đoạn 1996 – 2000 và tăng nhanh trong giai đoạn 2001 – 2006. Tổng đàn năm 2006 ước khoảng 322.428 đầu heo, sản lượng 31.502 tấn năm 2006. Nhìn chung, so với các tỉnh vùng ĐBSCL, chăn nuôi heo tại Đồng Tháp có vòng quay thấp nên năng suất thịt xuất chuồng hàng năm không cao. Hiện tại, Đồng Tháp có trên 150 trang trại chăn nuôi heo, trong đó có 4 trang trại chăn nuôi heo nái giống với tổng đàn có mặt thường xuyên từ 40 – 50 nái giống sinh sản.

- Đàn trâu: liên tục giảm từ 3.902 đầu con năm 1995 xuống còn 1.271 đầu con năm 2005 (-10,6%/năm) do quá trình cơ giới hóa gia tăng, nhu cầu cày kéo giảm và người nuôi có khuynh hướng phát triển mạnh đàn bò. Tuy nhiên, trong năm 2006, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đàn bò thịt, đàn trâu theo dạng hướng thịt được phục hồi trở lại với số lượng 1.705 con, chủ yếu ở huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, Thanh Bình, Tam Nông.

- Đàn bò: tăng rất nhanh (26,2%/năm), đạt khoảng 33.116 đầu con năm 2006. Sự tăng trưởng nhanh của đàn bò trong giai đoạn 2001 – 2006 có sự tác động lớn của các chính sách Nhà nước về đầu tư cơ sở hạ tầng; các chính sách hỗ trợ giống, tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, tiêm phòng dịch bệnh; các chính sách tín dụng, hỗ trợ phát triển đồng cỏ để chăn nuôi bò tập trung. Ngoài ra, tại khu vực Tân Hồng còn có hình thức mua và vỗ béo bò từ Campuchia.

- Đàn gia cầm: tăng trưởng nhanh trong giai đoạn 1995 – 2000 (8,0 %/năm), từ 2,75 triệu đầu con năm 1995 đạt cao điểm 4,03 triệu đầu con năm 2000. Năm 2001, đàn gia cầm giảm còn 3.299.750 con so với năm 2000, đến năm 2003 tổng đàn gia cầm khôi phục lại được 3.801.225 con, sau đó lại giảm dần xuống còn 3.679.325 con ở năm 2006.

Bảng II.2: Các chỉ tiêu vật chất ngành chăn nuôi năm 1995, 2000, 2005






1995

2000

2006

1. Đàn heo (con)

151.149

186.517

322.428

2. Đàn trâu bò (con)

6.650

4.857

34.821

- Trâu (con)

3.902

1.795

1.705

- Bò (con)

2.748

3.062

33.116

3. Đàn gia cầm (gà, vịt) (1.000 con)

2.748

4.032

3.679

4. Dê, cừu (con)

318

1.946

6.834

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp, 2006

Giá trị sản xuất: ngành chăn nuôi tăng đều khoảng 6%/năm. Năm 1995 đạt 269 tỷ đồng theo giá hiện hành. Năm 2000 đạt 405 tỷ đồng theo giá hiện hành. Năm 2006 đạt 1.076 tỷ đồng theo giá hiện hành.


a.3. Thủy sản

Ngành thủy sản tỉnh Đồng Tháp phát triển chủ yếu là khu vực nuôi trồng với khuynh hướng ngày càng tăng tỷ trọng trong cơ cấu ngành thủy sản. Trong cơ cấu kinh tế khu vực nông – lâm – ngư nghiệp, ngành thủy sản chiếm tỷtrọng chưa cao và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất (9,1%/năm).

Diện tích nuôi thủy sản giảm trong giai đoạn 1996 – 2000 (giảm 9,6%/năm) và tăng nhanh trong giai đoạn 2000 – 2006 (15,03 %/năm); đạt khoảng 4.466 ha mặt nước nuôi trồng năm 2006.

Trong khi đó, nghề đánh bắt chủ yếu là loại hình đăng đáy trên sông Tiền, sông Hậu hoặc khai thác thủy sản mùa lũ trên các phương tiện nhỏ. Năng suất và sản lượng khai thác thấp, khoảng 18.486 tấn/năm, tương đương 701 kg/ha mặt nước/năm hoặc 1,16 tấn/CV phương tiện.

Số phương tiện đánh bắt đang hoạt động khoảng 11.468 phương tiện không có cơ giới và 1.876 phương tiện cơ giới có công suất nhỏ (6 CV/phương tiện), chủ yếu là khai thác thủy sản mùa lũ trên các .

Bảng II.3: Các chỉ tiêu vật chất ngành thủy sản năm 1995, 2000, 2005





1995

2000

2006

1. Sản lượng nuôi trồng (tấn)

24.509

34.723

158.491

- Cá

24.461

34.395

158.089

- Tôm

48

316

402

- Thủy sản khác

-

12

-

2. Sản lượng (tấn)

16.194

23.871

18.486

- Cá

13.698

21.236

13.610

- Tôm

62

103

64

- Thủy sản khác

2.433

2.532

8.082

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp, 2006

Giá trị sản xuất của ngành thủy sản năm 2006 đạt 2.854 tỷ đồng theo giá hiện hành (1.823 tỷ đồng giá so sánh 1994) với tốc độ tăng trưởng rất cao (trên 15 %/năm). Về cơ cấu giá trị sản xuất, ngành nuôi trồng chiếm tỷtrọng 69%, ngành đánh bắt 7%, dịch vụ và các sản phẩm khác 24%.


a.4. Lâm nghiệp

Tỉnh Đồng Tháp có 10.872 ha đất rừng, trong đó chủ yếu là rừng tràm trồng, phân bố chủ yếu ở huyện Tam Nông, Tháp Mười và Cao Lãnh.

Diện tích đất lâm nghiệp có khuynh hướng tăng ổn định (1,7%/năm) từ năm 2000-2005, tuy nhiên lại giảm vào năm 2006. Trữ lượng rừng tràm Đồng Tháp đạt độ tuổi 10 năm, bình quân 92 – 107 m3/ha, chiều cao vút ngọn từ 7 – 8 m. Tổng trữ lượng gỗ tràm bình quân theo cấp tuổi tương ứng với diện tích là 393.520 m3. Tổng lượng sinh khối là 352.347 tấn. Sản lượng cừ 53.682.276 cây các loại.

Các cây phân tán được trồng trong các vườn tạp, dọc đường giao thông chính, chung quanh nhà ở, khu vực đô thị, các công trình công cộng… nhằm bảo vệ công trình, tạo bóng mát, cải tạo cảnh quan môi trường. Hàng năm, trên toàn tỉnh có khoảng 85 triệu cây phân tán các loại được trồng mới.

Diện tích rừng và cây trồng phân tán có vai trò quan trọng góp phần trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: bảo vệ môi trường, tạo độ che phủ cản lũ, chắn gió phòng hộ cho nông nghiệp, chống sạt lở, bảo vệ công trình hạ tầng. Ngoài ra, rừng còn có ý nghĩa đối với việc bảo vệ cuộc sống của con người và là môi trường sống cho các loài động vật, nơi lưu trữ bảo tồn các gen và sinh cảnh tự nhiên (đa dạng sinh học), tạo cảnh quan thu hút khách tham quan, du lịch trong và ngoài tỉnh như vườn quốc gia Tràm Chim, khu du lịch sinh thái Gáo Giồng.



Bảng II.4: Các chỉ tiêu vật chất ngành lâm nghiệp năm 1995, 2000, 2006




ĐVT

2000

2005

2006

Sản phẩm lâm nghiệp chủ yếu













- Trồng rừng tập trung

Ha

165

470

204

- Trồng cây phân tán

1000 cây

2.600

6.053

6.537

- DT rừng trồng được chăm sóc

Ha

5.000

10.402

10.488

- Tu bổ rừng

Ha

-

-

-

- Gỗ khai thác

m3

94.380

98.740

95.697

- Củi khai thác

Ste

307.244

332.736

312.582

- Tre các loại

1000 cây

6.894

6.370

5.138

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Đồng Tháp, 2006

Giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp chủ yếu từ sản phẩm cây phân tán, có khuynh hướng tăng nhanh. Năm 2005 đạt 357 tỷ đồng theo giá hiện hành (195 tỷ đồng giá so sánh 1994).


b. Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tỉnh Đồng Tháp đã được hình thành và phát triển mạnh tại thành phố Cao Lãnh, thị xã Sa Đéc và các trung tâm huyện lớn như: Hồng Ngự, Lai Vung, Lấp Vò, Mỹ Thọ do hạ tầng kỹ thuật tương đối khá tốt.

Nhìn chung, toàn ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh sản xuất chủ yếu dựa vào tiềm năng và nội lực; phát triển khá do có được nguồn nguyên liệu và nhân lực dồi dào và một phần do có cơ chế chính sách thích hợp. Do đó, từ năm 2000 trở lại đây, ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của tỉnh phát triển tương đối nhanh, đặc biệt là trong chế biến lương thực, thực phẩm.

Số cơ sở công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và lao động của toàn tỉnh đã tăng từ 12.413 cơ sở với 43.306 lao động năm 2000 lên 15.092 cơ sở với 57.099 lao động năm 2006.

Các ngành chủ lực hiện nay là: thực phẩm chiếm 74,64%; Sản phẩm từ hóa chất chiếm 17,87%; sản phẩm dệt may da chiếm 1,97%; sản phẩm gỗ chiếm 1,43%; sản phẩm từ khoáng chất phi kim loại chiếm 1,28%; thuốc lá chiếm 1,1%…

Về Khu – Cụm Công nghiệp và làng nghề: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp có 3 Khu Công nghiệp tập trung. Ngoài ra, năm 2005, tỉnh cũng đã quy hoạch 29 Cụm Công nghiệp tại các huyện, thị xã; trong đó 16 cụm đã quy hoạch chi tiết (10 cụm với diện tích 166 ha đã và đang lập dự án đầu tư hạ tầng, còn 6 cụm với diện tích 87,5 ha chưa có kế hoạch triển khai) nhằm đưa nhanh công nghiệp phát triển và công nghiệp hóa nông thôn, giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương.

Giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp theo giá hiện hành tăng từ 1.177 tỷ đồng năm 1995 lên 2.448 tỷ đồng năm 2000 và 8.504 tỷ đồng năm 2006. Hai đơn vị hành chính chiếm tỷ trọng giá trị sản xuất cao nhất của toàn ngành công nghiệp tỉnh là thành phố Cao Lãnh và thị xã Sa Đéc.


c. Xây dựng

Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện có 437 đơn vị tư vấn, thiết kế, xây dựng đăng ký hoạt động. Giá trị sản xuất của ngành xây dựng trong những năm gần đây đều tăng và đạt 1.368 tỷ đồng năm 2006, tăng bình quân 14,56%/năm trong giai đoạn 2001 - 2006.
d. Vận tải

- Vận tải đường bộ: toàn tỉnh có 947 xe vận tải hàng hóa có năng lực tổng cộng là 3.289 tấn; 4.399 xe khách có 16.085 ghế chở khách và một số xe chuyên dùng.

- Vận tải đường thủy: tỉnh có 4.695 ghe vận tải có năng lực 57.672 tấn; 395 ghe thuyền có 10.813 ghế chở khách và một số xà lan, tàu kéo, thuyền máy.

Trong thực tế, nhu cầu vận tải và luân chuyển hàng hóa có thể cao hơn gấp 4 lần do lực lượng vận tải trong các doanh nghiệp và trong dân rất lớn chưa thống kê đủ, cũng như do lực lượng vận tải của tỉnh còn nhỏ, còn nhờ vào đối tác của các tỉnh khác.

e. Thương mại - xuất nhập khẩu

Hoạt động dịch vụ thương mại của Đồng Tháp đang phát triển. Kim ngạch xuất nhập khẩu toàn Tỉnh năm 2006 đạt hơn 544 triệu USD. Trong đó: xuất khẩu 234.582 ngàn USD, nhập khẩu hơn 319.612 ngàn USD.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo, thủy sản đông lạnh, bánh phồng tôm, sản phẩm may mặc ... và nhập khẩu xăng dầu, phân bón… phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.

Các điểm trung chuyển hàng hóa nông thủy sản đang được đầu tư xây dựng. Giai đoạn I, đầu tư xây dựng Chợ trái cây Mỹ Hiệp nằm trên Quốc lộ 30 về thành phố Hồ Chí Minh đã thu mua trái cây bình quân trên 100 tấn/ngày trái cây các loại. Đang mời gọi đầu tư chợ Thủy sản, chợ Hoa kiểng Sa Đéc và chợ lúa gạo Thanh Bình. Khu kinh tế cửa khẩu Thường Phước và khu thương mại cửa khẩu quốc tế Dinh Bà.

f. Du lịch

Đồng Tháp nằm giữa vùng sinh cảnh của sông Tiền và sông Hậu với mạng lưới các chi lưu dày đặc, được đánh giá là vùng đất có cảnh quan thiên nhiên đẹp, còn giữ được nhiều cảnh sắc hoang sơ. Vùng Đồng Tháp Mười có cảnh quan sinh thái ngập úng, là căn cứ địa chống Pháp, chống Mỹ trong các thời kỳ giải phóng dân tộc, do đó Đồng Tháp có nhiều di tích lịch sử và văn hóa có sức lôi cuốn khách du lịch cả trong và ngoài nước đến nghiên cứu, tham quan, thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại hình du lịch như du khảo, du lịch sinh thái, sông nước, miệt vườn...

Tổng lượng khách du lịch đến Đồng Tháp tăng từ 60.026 lượt người năm 1995 lên 68.597 lượt người năm 2000 và 131.090 lượt người năm 2005. Lượng khách quốc tế tăng rất nhanh trong giai đoạn 1996-2000 với tốc độ tăng bình quân 23,5%/năm và tiếp tục tăng từ năm 2001-2006. Ngoài lượng khách do các cơ sở lưu trú và cơ sở lữ hành phục vụ còn có một lượng khách đến tham quan, hành hương tại các khu di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh, năm 2005 là 449.151 khách trong đó có 380 khách quốc tế. Doanh thu ngành du lịch tỉnh Đồng Tháp năm 2006 là 48.957 triệu đồng .

Về tiềm năng cho phát triển du lịch, tỉnh Đồng Tháp có:

- Tài nguyên thiên nhiên: Đồng Tháp có Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước (Vườn Quốc gia Tràm Chim – Tam Nông), Khu sân chim và rừng tràm Gáo Giồng, Cồn Tiên (Lai Vung), Cồn An Hiệp (Châu Thành), Cồn Đông Giang (thị xã Sa Đéc), Cồn Bình Thạnh (Cao Lãnh), Cồn Tô Châu (Thanh Bình), Cù lao Long Khánh (Hồng Ngự), nằm trong hệ thống sông ngòi chằng chịt và một số làng nghề truyền thống như đan thảm lát, đan lục bình, đan lợp, đan thúng, đan lưới, dệt chiếu, dệt khăn rằn... đặc biệt là khu vực hoa kiểng Sa Đéc có khả năng phát triển du lịch sinh thái, homestay.

- Tài nguyên nhân văn: Khu di tích Gò Tháp, khu du lịch Xẻo Quýt, khu mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số đình, chùa cổ đã được ghi vào sách sử. Mỗi đình đều có cúng Kỳ Yên hàng năm để cầu mong mưa thuận gió hòa, Quốc thái dân an. Cúng đình là đặc trưng của dân tộc Việt Nam và cũng là ngày hội văn hóa của nhân dân địa phương.

Những năm qua, dịch vụ du lịch ở Đồng Tháp được tổ chức theo hướng khai thác du lịch sinh thái kết hợp du khảo sinh thái ngập nước và du lịch phong cảnh miệt vườn mang đậm bản sắc Nam Bộ là chủ yếu nhưng còn mang tính chất riêng lẻ chưa có sự phối hợp liên kết chặt chẽ với các tỉnh trong vùng và cả nước. Mặt khác, do sản phẩm du lịch còn đơn điệu, chưa có nét độc đáo nên hiệu quả mang lại chưa cao. Ban quản lý khu di tích, văn hóa, du lịch chưa chú trọng đến việc khai thác các dịch vụ du lịch, chất lượng dịch vụ còn ở mức thấp, chưa mang lại hiệu quả thiết thực.


II.2.2. Thực trạng văn hóa - xã hội tỉnh Đồng Tháp

II.2.2.1. Dân số


Dân số tỉnh Đồng Tháp tăng chậm, từ 1.478.494 người năm 1995 lên:

- 1.588.756 người năm 2000, tăng bình quân 1,45%/năm;

- 1.667.804 người năm 2006, tăng 0,8% so với năm 2005 (1.654.680 người).

Tuy tốc độ tăng dân số tự nhiên giảm khá nhanh từ 2,22% năm 1995 còn 1,79% năm 2000 và 1,55% năm 2006, nhưng với tốc độ tăng dân số như trên cho thấy tỉnh Đồng Tháp bị tác động rất lớn của việc di dân cơ học.

Dân số đô thị: có khuynh hướng tăng khá nhanh. Dân số đô thị năm 1995 là 193.239 người, tăng lên 228.043 người vào năm 2000 và tiếp tục tăng lên 287.871 người vào năm 2006.

Dân số nông thôn: tăng chậm, năm 1995 là 1.285.255 người, đến năm 2000 là 1.360.713 người và đến năm 2006 là 1.379.933 người.


II.2.2.2. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng

a. Giao thông
a.1. Đường bộ

Mạng lưới giao thông đường bộ bao gồm 2.651 km đường, mật độ trên đơn vị diện tích thấp (0,79 km/km2) nhưng do dân số thưa nên mật độ đường bộ trên đầu người lại thuộc vào loại cao (1,60 km/1.000 dân và 30,5 m2/người).

- Quốc lộ có 3 tuyến là QL.30, QL.80, QL.54 do TW quản lý dài 189 km, với 113 cầu/4.478 m. Hiện QL.30 được nâng cấp đến Hồng Ngự; QL.80 và QL.54 cũng đang được nâng cấp sửa chữa, mở rộng nền đường.

- Đường Tỉnh có 14 tuyến dài 372 km, với 174 cầu/6.051 m, hiện đã được nhựa hóa 32,5%, cầu đã được bê tông hóa 31,5%. Nhìn chung, chất lượng các tuyến đường tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều tuyến hiện nay lưu thông khó khăn, các cầu trên tuyến đang trong tình trạng xuống cấp, tải trọng thông qua hầu hết chỉ được 8 tấn trở xuống.

- Đường huyện dài tổng cộng 805 km, với 456 cầu/10.369 m, trong đó tỷ lệ nhựa hóa 26,0%.

- Đường nông thôn dài tổng cộng 1.285 km, với 940 cầu/15.384 m, trong đó tỷ lệ nhựa hóa 3,0%.

- Hệ thống đường đô thị dài tổng cộng 173 km, trong đó tỷ lệ nhựa hóa 54,1%.


a.2. Đường sông

Đồng Tháp có hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi nhưng nhiều năm nay chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, hiện tượng bồi lắng và lấn chiếm luồng chạy tàu đang có xu hướng gia tăng theo thời gian.

Riêng các tuyến sông thuộc TW quản lý cũng được quan tâm đầu tư như: thả phao hướng dẫn luồng chạy tàu, nạo vét những đoạn bị bồi lắng, gia cố chống sạt lở tuyến bờ sông.


a.3. Hệ thống bến bãi

Từ năm 2000 đến nay, tỉnh Đồng Tháp có 1 cảng, 150 bến tàu và 11 bến xe. Tuy nhiên hệ thống các bến bãi này hiện vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ khách hàng và vận chuyển hàng hóa.
b. Thủy lợi
b.1. Kênh mương

Hiện trạng hệ thống kênh các cấp được hình thành và đang dần hoàn chỉnh với các kênh trục chính, cấp 1, cấp 2 và nội đồng, mật độ 6 – 12 m/ha, cơ bản đáp ứng yêu cầu cấp nước phục vụ tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp.

b.2. Hệ thống bờ bao chống lũ

Hệ thống bờ bao bảo vệ lúa hè thu có tổng chiều dài 7.171 km, diện tích phục vụ 172.314 ha/197.914 ha lúa hè thu, đạt tỷ lệ 87%. Các khu vực sản xuất 3 vụ có đê bao đảm bảo chống lũ 100%. Tuy nhiên, hệ thống bờ bao chống lũ đảm bảo bảo vệ diện tích vườn cây ăn trái mới đảm bảo 12.902 ha/22.064 ha (58%) cần tiếp tục đầu tư nâng cấp, tu sửa hàng năm.



b.3. Hệ thống cống tưới tiêu

Cống hở có tổng số 321 cái, có chiều rộng từ 1,5 m ÷ 3 m, diện tích phục vụ 43.948 ha. Cống ngầm có tổng số 1.265 cái, có đường kính từ 0,8 m ÷ 1 m, diện tích phục vụ 89.120 ha.



b.4. Tình hình bơm tưới

Hệ thống trạm bơm điện vừa và lớn (410 trạm) hiện tưới cho khoảng 67.795 ha/205.573 ha lúa Đông Xuân 2005 - 2006, đạt tỷ lệ 30 - 33%, còn lại diện tích tự chảy và bán tự chảy chiếm khoảng 15 - 17%. Bơm dầu vẫn chiếm tỷ trọng lớn trên 50%.


c. Điện

Hiện nay tỉnh Đồng Tháp được cấp điện từ 2 nguồn chính là: Trạm biến áp 220 kV Cai Lậy (trạm nguồn chính cấp điện cho Tỉnh) và Nhà máy nhiệt điện Trà Nóc.

Nhà máy điện Trà Nóc là nguồn điện tại chỗ lớn nhất của khu vực ĐBSCL, có vai trò quan trọng trong việc cấp điện cho 10 tỉnh phía Tây sông Tiền, đồng thời góp phần làm giảm tổn thất công suất và tổn thất điện áp cho lưới điện khu vực.


d. Cấp nước, thoát nước và rác thải

d.1. Cấp nước

  • Cấp nước khu vực đô thị:

Hiện nay, các vùng đô thị của tỉnh đều đã có hệ thống cung cấp nước sạch, tuy nhiên tỷ lệ hộ dân được cung cấp nước sạch chỉ chiếm 71%, trong đó thành phố Cao Lãnh có tỷ lệ dùng nước sạch là 88%, thị xã Sa Đéc là 90%.

Hiện nay, nhà máy nước thị xã Sa Đéc đang được nâng cấp xây dựng (theo chương trình viện trợ của Úc), nhà máy nước thành phố Cao Lãnh đang lập dự án dự kiến nâng công suất lên 30.000 - 35.000 m3/ngày đêm.



  • Cấp nước khu vực nông thôn:

Tỷ lệ số dân nông thôn được cấp nước sạch năm 2005 là 60,48% (trong đó cấp nước từ công trình chiếm 43%), tương đương 142.425 hộ. Toàn tỉnh đã xây dựng được 305 trạm cấp nước tập trung, 8.000 giếng khoan gắn bơm tay, cấp phát 16.579 bộ bình lọc, xô lọc nước, 13.000 chai hóa chất khử trùng và nhiều loại thuốc, chế phẩm xử lý, vận động các hộ dân thực hiện trên 1.200 bể chứa nước (loại 4 m3).

Trong tổng số 305 trạm cấp nước tập trung trên có 222 trạm đang vận hành khai thác, 83 trạm xây dựng xong phần tạo nguồn nhưng do địa phương chưa tìm được đối tác đầu tư mạng lưới đường ống nên chưa đưa vào vận hành khai thác.



d.2. Thoát nước

Hiện nay, hệ thống thoát nước tại trung tâm các đô thị quan trọng (TP. Cao Lãnh, TX.Sa Đéc) là hệ thống chung vừa thoát nước mưa vừa thoát nước thải sinh hoạt đổ ra . Tại khu vực trung tâm đã được đầu tư hệ thống thoát nước dạng cống bê tông cốt thép 400 - 1.000 mm và mương gạch bê tông cốt thép, cửa xả, hố ga. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ là biện pháp giải quyết tạm thời trong khi chờ đợi có quy hoạch chỉnh trang đô thị đồng bộ về các hệ thống giao thông nội thị, điện, cấp thoát nước. Nhìn chung, hệ thống thoát nước trên địa bàn nội thị còn kém và đang xuống cấp, thường xuyên gây ngập úng trong giai đoạn mưa lớn, triều cường, đặc biệt là trong mùa lũ.

Tại các trung tâm thị trấn, thị tứ cũng được xây dựng hệ thống thoát nước nhưng không đủ năng lực tải, chủ yếu là hệ thống thoát nước mưa kết hợp với nước thải dạng cống bê tông cốt thép và mương gạch bê tông cốt thép, phần lớn đổ ra gần nhất, chưa có các hồ lắng và xử lý.

Các khu trung tâm xã thường chỉ xây dựng hệ thống mương gạch bê tông (lộ thiên hoặc có nắp) để thoát nước thải sinh hoạt; phần lớn nước mưa đều chảy tràn.

Nhìn chung, hiện nay trên địa bàn nội thị, thành phố, thị xã, thị trấn và các trung tâm xã chưa có hệ thống thu hồi và xử lý nước thải sinh hoạt đô thị. Các cơ sở công nghiệp - TTCN có quy mô lớn đã bước đầu xây dựng hệ thống xử lý nước thải; riêng toàn bộ các cơ sở công nghiệp – TTCN quy mô nhỏ, hộ gia đình và phần lớn các cơ sở công nghiệp - TTCN quy mô trung bình đều không xử lý nước thải.

d.3. Rác thải

Hiện nay lượng rác thu gom hàng ngày của các thành phố, thị xã, thị trấn khoảng 209 tấn/ngày, trong đó mỗi thành phố, thị xã khoảng 25 tấn/ngày, các thị trấn khoảng 2 - 4 tấn/ngày. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 2 bãi rác lớn của TP. Cao Lãnh và thị xã Sa Đéc. Rác thải được thu gom và chứa ở bãi để tự hủy hoặc thiêu đốt

- Bãi rác của TP. Cao Lãnh được bố trí trên địa bàn huyện Cao Lãnh. Rác thải được thu gom và chứa ở bãi để tự hủy hoặc thiêu đốt. Công ty Công trình Đô thị có bộ phận thu gom rác với các phương tiện như xe đẩy tay chuyên dùng; xe ép rác; xe ben. Địa bàn thu gom chủ yếu là khu vực trung tâm thành phố.

- Đối với các thị trấn chưa có bộ phận quản lý vệ sinh môi trường, chủ yếu do Ban Quản lý chợ thị trấn thuê lực lượng thu gom với phương tiện thu gom thô sơ bằng xe ba gác, máy cày.

- Đối với các trung tâm xã, việc thu dọn vệ sinh thường được UBND xã giao khoán cho tư nhân, phương tiện thu gom rác rất thô sơ và thường cũng chưa có bãi rác tập trung.

II.2.2.3. Văn hóa – xã hội

a. Giáo dục - đào tạo

Từ 1995 đến nay, số học sinh các cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đều gia tăng tỷ lệ huy động trong độ tuổi. Tỉnh đã hoàn thành và giữ vững thành quả xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và dự kiến phổ cập trung học cơ sở trên toàn địa bàn vào năm 2008. Mạng lưới trường lớp được sắp xếp, điều chỉnh và phát triển rộng khắp. Tỉnh đã xóa được lớp học ca 3, xóa phòng tạm mượn, xây được một số trường đạt chuẩn quốc gia, cải thiện một bước đáng kể hệ thống cơ sở giáo dục.

Đội ngũ cán bộ quản lý được tập trung đào tạo. Giáo viên ở các cấp học cơ bản đã được chuẩn hóa nên chất lượng giáo dục và kết quả học tập được nâng lên rõ rệt, học sinh giỏi ngày càng tăng, học sinh bỏ học và lưu ban giảm dần, chất lượng giáo dục toàn diện được củng cố và nâng cao.

Về đào tạo, tỉnh đã phát triển và điều chỉnh mạng lưới và đa dạng hóa ngành nghề đào tạo ở các trường THCN, các cơ sở dạy nghề trong tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học nghề, góp phần tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của tỉnh. Công tác xã hội hóa giáo dục - đào tạo có sự chuyển biến rõ nét, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội ngày càng chặt chẽ.

b. Y tế

Mạng lưới y tế địa phương các năm qua đã không ngừng được củng cố và nâng cấp, hiện nay cơ sở vật chất khám và điều trị được hình thành rộng khắp ở 3 tuyến: tuyến tỉnh gồm 7 bệnh viện và 1 Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản với 1.220 giường bệnh; tuyến huyện có 7 bệnh viện với 480 giường bệnh; tuyến xã với 725 giường. Trong đó đạt chuẩn về cơ sở là 8,5%, về trang thiết bị 88%, về cán bộ 19,7%. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có 411 cơ sở y tế tư nhân, gồm 397 phòng mạch, 14 nhà bảo sanh và một số cơ sở y học dân tộc; hiệu thuốc và đại lý thuốc … chủ yếu tập trung tại các trung tâm huyện thị, góp phần đáng kể vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
c. Văn hóa thông tin

Trong những năm qua, ngành văn hóa thông tin của tỉnh Đồng Tháp đã đạt được một số thành quả, chất lượng công tác ngày được nâng cao và hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch được giao. Các hoạt động văn hóa trên địa bàn khá nhộn nhịp, đáp ứng kịp thời và phần lớn nhu cầu sinh hoạt của nhân dân địa phương, các tỉnh lân cận và du khách. Nhiều công trình văn hóa thông tin được quan tâm đầu tư xây dựng và phát huy tác dụng.
d. Thể dục thể thao

Các hoạt động thể dục thể thao từng bước hình thành phong trào ở cơ sở khá mạnh. Năm 2005, cấp tỉnh có 1 sân vận động, 2 hồ bơi, 2 nhà thi đấu. Tại huyện thị có 6 sân bóng đá nhưng hầu hết đều không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật, 47 sân quần vợt. Nhìn chung cơ sở vật chất về thể dục thể thao ở các huyện còn nghèo nàn. Cấp xã hiện có 71 sân trên tổng số 142 đơn vị xã, phường, thị trấn, đa số các sân đều không đủ kích thước và quy cách.

II.2.2.4. Khoa học – Công nghệ và Môi trường

a. Khoa học, công nghệ

a.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học và áp dụng tiến bộ KHCN

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học đã nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ KHKT trong nhiều lĩnh vực như: nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp, xây dựng, giao thông, thủy lợi, môi trường, công nghệ thông tin, giáo dục, khoa học xã hội và nhân văn, y tế và thương mại, dịch vụ.

- Trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản: đã thực hiện 39 đề tài, dự án; đã nghiệm thu 19, trong đó có 12 đề tài, dự án được đưa vào ứng dụng.

- Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, thủy lợi, môi trường, công nghệ thông tin: đã thực hiện 21 đề tài, dự án; nghiệm thu 17, trong đó có 9 đề tài dự án được đưa vào ứng dụng.

- Trong lĩnh vực giáo dục, khoa học xã hội và nhân văn: thực hiện 32 đề tài, dự án; đã nghiệm thu 23 trong đó được áp dụng 10.

- Trong lĩnh vực y tế: một số công cụ và thiết bị tiên tiến đã được các dự án KH&CN đầu tư áp dụng.

- Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ: thông tin tuyên truyền về sở hữu trí tuệ cho hơn 250 lượt cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Hội thảo nhãn hiệu hàng hóa và rào cản thương mại cho trên 100 cơ sở, doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận đăng ký sở hữu công nghiệp cho 401 đối tượng.

- Triển khai hoạt động quản lý an toàn bức xạ hạt nhân.



a.2. Hoạt động thông tin khoa học công nghệ

- Phát hành tạp chí thông tin và bản tin KHCN, phát sóng chuyên mục khoa học công nghệ trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Tháp.

- Tổ chức hội nghị phổ biến văn bản pháp quy 9 lần, 15 doanh nghiệp được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng.

- Thực hiện tốt công tác đo lường và công tác quản lý chất lượng.


b. Bảo vệ môi trường

Trong những năm qua, công tác bảo vệ môi trường của tỉnh đã có một số tiến bộ nhất định. Vấn đề môi trường ngày càng được quan tâm hơn và đã xây dựng được một số chế độ, chính sách hỗ trợ thực hiện công tác bảo vệ môi trường; ý thức về bảo vệ môi trường đang dần trở thành thói quen, nếp sống của một bộ phận nhân dân, đã hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, nhìn chung môi trường vẫn tiếp tục bị xuống cấp, môi trường ở một số thị xã, thị trấn, làng nghề và cụm, tuyến dân cư vẫn còn bị ô nhiễm nặng; khối lượng chất thải ngày càng gia tăng; tài nguyên thiên nhiên ở một số khu vực bị khai thác quá mức; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không bảo đảm; tỷ lệ hộ dân được dùng nước sạch trong tỉnh còn thấp.


II.2.2.5. An ninh quốc phòng


Về an ninh chính trị, tỉnh Đồng Tháp là một trong những địa bàn trọng điểm về an ninh chính trị của vùng ĐBSCL, do đó công tác quốc phòng an ninh không ngừng được củng cố và tăng cường, luôn chủ động trong việc bảo vệ, phòng ngừa và chống mọi dấu hiệu phá hoại, diễn biến hòa bình, kích động tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Các lực lượng vũ trang cùng nhân dân vừa thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, vừa củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh trên địa bàn, xây dựng lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân theo hướng chính quy từng bước hiện đại, vững vàng về chính trị.

II.2.2.6. Phát triển đô thị


Năm 2006 dân số đô thị trên địa bàn toàn tỉnh là 287.871 người, trong đó dân số cơ học ước khoảng 23.000 người.

- Vùng Cao Lãnh: thành phố Cao Lãnh được công nhận là đô thị loại III là trung tâm hành chính, kinh tế - văn hóa, quốc phòng an ninh của tỉnh và là trung tâm của vùng.

- Vùng Hồng Ngự: thị trấn Hồng Ngự được công nhận là đô thị loại IV là trung tâm của vùng. Trong thời gian gần đây thị trấn Hồng Ngự có xu hướng phát triển mạnh.

- Vùng thị xã Sa Đéc có thị xã Sa Đéc đã được công nhận là đô thị loại III là đô thị có lịch sử hình thành sớm và là trung tâm của vùng, kết cấu hạ tầng khá phát triển, các hoạt động công thương nghiệp phong phú và đa dạng.

Nhìn chung, hệ thống đô thị của tỉnh Đồng Tháp phát triển tương đối đồng đều (2 vùng lớn có thành phố Cao Lãnh & thị xã Sa Đéc và các thị trấn đều nằm ở các trung tâm của các huyện), nằm trên các trục giao thông thuận lợi, trên các trục Quốc lộ hoặc các trục giao thông chính có tính chiến lược phát triển kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng.

Công tác quản lý và xây dựng đô thị được tỉnh và các huyện thị quan tâm nên đã đi vào nề nếp và bước đầu đã thu được kết quả tốt.

Tuy nhiên các hạn chế phát triển đô thị như sau:

- Hệ thống giao thông huyết mạch như các Quốc lộ 30, 80 và 54 chưa hoàn chỉnh, đang trong quá trình nâng cấp .

- Các trục giao thông đường tỉnh đa phần là nhỏ, hẹp và các cầu yếu gây ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa.

- Các đô thị đều có cốt nền thấp, thường bị ngập úng nên vấn đề thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị gặp không ít khó khăn. Số lượng của các đô thị còn nằm trong vùng ngập sâu lớn.

- Hệ thống kỹ thuật hạ tầng tuy đã được quan tâm nhưng do thiếu vốn đầu tư nên tốc độ phát triển đô thị chưa theo kịp với tốc độ kinh tế - xã hội.

II.2.3. Đánh giá tổng quan về thực trạng phát triển bền vững của tỉnh Đồng Tháp

II.2.3.1. Về kinh tế

a. Những thành tựu

a.1. Về tăng trưởng kinh tế

Mặc dù thời gian qua tình hình có nhiều khó khăn nhưng kinh tế của tỉnh tiếp tục phát triển, chất lượng tăng trưởng dần được cải thiện; tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 9,9%, cao hơn mức bình quân 5 năm trước là 6,9 %/năm. Thu nhập bình quân đầu người những năm qua tăng khá, bình quân 7,2 %/năm trong 10 năm, từ 2,3 triệu đồng năm 1995 lên 3,4 triệu đồng năm 2000, hơn 6 triệu đồng năm 2005 (tương đương 408 USD) và 12.115.305 triệu đồng năm 2006 cho thấy đời sống nhân dân có bước cải thiện đáng kể.



a.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, cơ cấu thành phần kinh tế

- Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển dịch nhanh và đúng hướng: Trong 5 năm qua, kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ trọng khu vực I từ 62,2% giảm còn 58,1%; khu vực II từ 11,9% tăng lên 15,2% và khu vực III từ 25,8% tăng lên 26,7%. Nét nổi bật của chuyển dịch cơ cấu kinh tế thời gian qua là cơ cấu cây trồng, vật nuôi tiếp tục chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng chất lượng, phát huy lợi thế của từng vùng sản xuất. Công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản và các ngành dịch vụ được chú trọng đầu tư và tăng dần trong cơ cấu kinh tế.

- Cơ cấu lao động nghề nghiệp: đã chuyển dịch theo hướng tích cực cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Lao động nông nghiệp giảm dần để chuyển sang các ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ. Điều này cho thấy lao động nghề nghiệp của tỉnh đang phát triển theo hướng tăng dần về chất, giảm bớt lao động nông nhàn ở nông thôn.

- Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế: Trong 5 năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển như Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 5, Luật doanh nghiệp và các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước, ưu đãi đầu tư... đã thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế của tỉnh, theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước; phát huy tiềm năng, nguồn lực của thành phần kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác.



a.3. Phát triển các ngành kinh tế

- Cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp: đã có sự chuyển dịch theo hướng khai thác tốt tiềm năng và lợi thế của từng vùng sinh thái, ngày càng đi vào chiều sâu về hiệu quả và chất lượng; phát triển theo hướng bền vững, từng bước hình thành các ngành nghề truyền thống ở nông thôn. Kinh tế khu vực I tăng trưởng liên tục, ba thế mạnh: kinh tế lúa, kinh tế vườn và kinh tế thủy sản được tập trung chỉ đạo đầu tư và khai thác có hiệu quả. Công tác nghiên cứu và áp dụng các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và hiệu quả cao đã được chú trọng, các mô hình trồng xen, nuôi xen được áp dụng rộng rãi... góp phần tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất canh tác.

- Cơ cấu sản xuất ngành công nghiệp: đã được chuyển dịch theo hướng gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ, tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, tập trung chế biến các sản phẩm từ thế mạnh của tỉnh là hàng nông sản và thủy sản ... để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu. Nét nổi bật trong ngành công nghiệp của tỉnh thời gian qua là đã thành công trong việc thu hút đầu tư phát triển ngành chế biến cá, tạo ra những sản phẩm có giá trị xuất khẩu, chính nhờ đó đã giải quyết tốt đầu ra, đem lại hiệu quả và nâng cao thu nhập cho người nuôi thủy sản. Ngành xây dựng cũng tăng trưởng nhanh tương ứng với việc cải thiện đời sống dân cư, nhà ở và các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chiếm tỷ trọng 17% trong cơ cấu khu vực I.

- Cơ cấu các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng về sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư như dịch vụ thương mại, du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm ...



a.4. Hội nhập và phát triển

- Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh: tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 - 2006 đạt 489.203 ngàn USD; với các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như thủy sản chế biến, gạo, các nông sản chế biến (bánh phồng tôm, bột dinh dưỡng), hàng may mặc, gốm nung ... Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu từng bước khai thác được thế mạnh của tỉnh, tạo ra những sản phẩm có giá trị xuất khẩu; cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch mạnh theo hướng tích cực, tỷ trọng hàng CN - TTCN tăng nhanh và tỷ trọng hàng nông sản giảm mạnh phù hợp với xu hướng phát triển. Thị trường xuất khẩu ngày càng phát triển, hiện tại hàng hóa của tỉnh đã xuất khẩu sang 55 nước với các thị trường lớn, truyền thống như Trung Quốc, Nhật, EU, Hàn Quốc ...

- Lĩnh vực bưu chính viễn thông của tỉnh phát triển mạnh và được đầu tư khá hiện đại. Năm 2006, mật độ dân sử dụng điện thoại đạt 16,27 máy/100 dân.

a.5. Năng lực đầu tư và phát triển của tỉnh

- Thu ngân sách Nhà nước từ kinh tế địa phương tăng từ 513 tỷ đồng năm 2000 lên 1.385 tỷ đồng năm 2006. Tỉnh đã có nhiều giải pháp, cơ chế, chính sách để khai thác các nguồn thu và chỉ đạo điều hành có hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh để tạo nguồn thu cho ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi.

- Tổng chi ngân sách địa phương trong năm 2006 là 1.867 tỷ đồng năm 2000; trong đó, chi đầu tư phát triển 475 tỷ đồng, chiếm 25,44% trong tổng chi ngân sách địa phương. Ngân sách Nhà nước tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng tích cực và hiệu quả hơn với việc thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với quản lý Nhà nước, Đoàn thể, các đơn vị quản lý Nhà nước cấp xã phường và các đơn vị sự nghiệp có thu.

Đã huy động được nhiều nguồn vốn đáp ứng yêu cầu đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội; việc phân bổ vốn đầu tư từ nguồn ngân sách được tập trung hơn, cơ cấu vốn đầu tư đã hướng vào các mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất - kinh doanh.

Thông qua sự hỗ trợ tích cực của Trung ương cùng với cân đối ngân sách của địa phương, trong 5 năm qua tỉnh đã xây dựng được nhiều công trình sản xuất - kinh doanh và kết cấu hạ tầng quan trọng trên địa bàn về giao thông, tuyến dân cư vượt lũ, điện khí hóa các xã, tăng cường cơ sở vật chất ngành y tế, ngành giáo dục.

b. Những tồn tại

Bên cạnh những thành tựu nói trên, sự triển kinh tế - xã hội của tỉnh, ngành và địa phương chưa được tính bền vững thể hiện ở các điểm sau:

- Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, chưa tương xứng với tiềm năng và còn thấp so với các tỉnh trong vùng. Nền kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào nông lâm ngư nghiệp, tốc độ tăng trưởng trong những năm qua còn phụ thuộc nhiều vào quy mô mở thêm diện tích, năng suất tăng chậm, hiệu quả của các sản phẩm còn thấp; đặc biệt là ngành nuôi thủy sản vẫn chưa ổn định được các mô hình nuôi và hiệu quả sản xuất.

Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có năng suất, chất lượng và hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh thấp, quy mô nhỏ (năm 2005 bình quân 1 cơ sở chỉ có bình quân 3,5 lao động, giá trị tăng thêm 85 triệu đồng). Mức độ chế biến hàng nông sản của tỉnh còn thấp, chi phí còn cao, tỷ lệ VA/GO chỉ đạt 36,3%.

Các ngành thương mại - dịch vụ nhìn chung có quy mô nhỏ và phân tán, tỷ trọng các loại hình dịch vụ cao cấp (tài chính tín dụng, vốn, tư vấn, khoa học công nghệ) và các loại hình thương mại trung chuyển chưa cao. Kinh tế biên mậu với 52 km đường biên, 1 cửa khẩu quốc tế, 1 cửa khẩu quốc gia và 5 cửa khẩu phụ chưa phát huy hữu hiệu về thương mại và du lịch.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng vẫn còn chậm, còn nặng về nông nghiệp; giá trị công nghiệp - xây dựng còn nhỏ; trong khi đó sản xuất khu vực I phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thiên nhiên nên chưa mang tính bền vững cao. Cơ cấu sản xuất một số vùng chuyển đổi chậm và hiệu quả chưa cao.

- Do điều kiện đặc thù kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ lực nên tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động nhìn chung chậm hơn chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong những năm gần đây, nuôi thủy sản ao hầm phát triển mạnh nhưng sự chuyển dịch chủ yếu vẫn là trong nội bộ ngành nông nghiệp; quá trình chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ vẫn còn hạn chế.

- Tuy xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng giá trị xuất khẩu/đầu người (191,6 USD) vào năm 2006 cũng còn thấp hơn nhiều so với bình quân của vùng ĐBSCL.

- Các nguồn lực được huy động chỉ đạt 20,2% GDP, trong đó huy động trong dân hơn phân nửa-12,3% GDP-chưa đủ phục vụ phát triển kinh tế tỉnh nên những yêu cầu về phát triển bền vững ít có đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Mặt khác, đầu tư trong các năm qua chủ yếu tập trung cho những dự án, công trình mang lợi ích trực tiếp trước mắt về kinh tế, mang tính dàn trãi, không tập trung vào những lãnh vực có thế mạnh. Do đó ít có điều kiện vật chất đầu tư hạ tầng xã hội, làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội.

- Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 3 năm 2003 - 2005 chỉ đạt 23,625 tỷ đồng (khoảng 1,6 triệu USD), chiếm 0,54% với tổng vốn đầu tư xã hội toàn tỉnh. Điều đó cho thấy việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào tỉnh còn nhiều khó khăn và hạn chế do nhiều yếu tố, trong đó có sự bất lợi về vị trí địa lý.

- Cơ chế, chính sách phát triển các thành phần kinh tế chưa được triển khai thực hiện đầy đủ. Việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước, nhất là cổ phần hóa doanh nghiệp còn lúng túng, tiến hành chậm. Kinh tế tập thể tuy được quan tâm chỉ đạo nhưng chưa đạt yêu cầu, tỷ trọng trong nền kinh tế còn nhỏ bé. Kinh tế tư nhân và cá thể tuy được khuyến khích phát triển nhưng vẫn còn hạn chế về mức đầu tư và tiềm lực chưa được khai thác đầy đủ.

- Quan điểm phát triển bền vững đã được hình thành nhưng chưa được thể hiện rõ rệt và nhất quán quan hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và công tác kiểm tra, quản lý, bảo vệ môi trường chưa được kết hợp chặt chẽ, lồng ghép với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự phát triển bền vững đã và đang được thực hiện nhưng chưa mang lại hiệu quả cao.

II.2.3.2. Về sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường

a. Những thành tựu

Đã triển khai hiệu quả công tác lập quy hoạch sử dụng đất đai, thực hiện đo vẽ lập hồ sơ địa chính cho các xã phường, thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ... nhằm góp phần ổn định sản xuất và đưa công tác quản lý đất đai vào nề nếp. Công tác quản lý khai thác tài nguyên nước, khoáng sản trên địa bàn tỉnh dần đi vào nề nếp; từng bước xã hội hóa công tác cấp nước, thực hiện phương thức quản lý tập trung đối với các nhà máy cung cấp nước sạch ở nông thôn.

Công tác quản lý, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường ngày được chú trọng. Vấn đề môi trường ngày càng được quan tâm hơn và đã xây dựng được một số chế độ, chính sách hỗ trợ thực hiện công tác bảo vệ môi trường; ý thức về bảo vệ môi trường đang dần được hình thành trong nhân dân, đã hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.


b. Những tồn tại

Nhìn chung, môi trường trên địa bàn tỉnh đang bị xuống cấp, môi trường ở một số thị xã, thị trấn, làng nghề và cụm, tuyến dân cư vẫn còn bị ô nhiễm nặng; khối lượng chất thải ngày càng gia tăng; tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không bảo đảm; tỷ lệ hộ dân được dùng nước sạch trong tỉnh còn thấp... Có nhiều nguyên nhân dẫn đến yếu kém, khuyết điểm trong công tác bảo vệ môi trường nhưng chủ yếu là do đa số nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường; thiếu cơ chế, chính sách đồng bộ để phát huy ý thức trách nhiệm của cộng đồng; công tác quản lý Nhà nước về môi trường còn yếu kém, bất cập và nguồn lực đầu tư cho BVMT còn thấp.

II.2.3.3. Về thể chế phát triển bền vững

a. Những thành tựu

Căn cứ vào các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, tỉnh đã thực hiện và ban hành một số thể chế quan trọng:

- Các Luật, về bảo vệ môi trường đã được triển khai thực hiện trong toàn tỉnh. Tỉnh đã ban hành nhiều Chỉ thị, về sử dụng đất công, đất bãi bồi ven sông; khai thác cát lòng sông, khai thác nước ngầm; hoạt động giết mổ, chăn nuôi gia súc, gia cầm; chất thải đối với các phương tiện giao thông thủy; thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ...

- Hệ thống tổ chức và quản lý Nhà nước về quản lý sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường của tỉnh đã được thành lập đến tận cơ sở.

- Tỉnh đã nghiên cứu xây dựng và triển khai thực hiện Quyết định 153/2004/QĐ-TTg của Chính phủ về việc ban hành định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam và Thông tư 01/2005/TT-BKH về việc triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.

- Bước đầu đã có sự lồng ghép về phát triển bền vững vào các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các dự án ... của tỉnh.

- Công tác cải cách hành chính ở tỉnh thời gian qua thu được kết quả khá khả quan, nhất là cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao.


b. Các mặt hạn chế

Có thể nói thể chế về phát triển bền vững của tỉnh đang trong giai đoạn hình thành, bước đầu phát huy tác dụng, song vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể là:

- Khuôn khổ thể chế, quy chế và các hướng dẫn chi tiết đảm bảo lồng ghép các yếu tố môi trường nhằm mục tiêu phát triển bền vững vào các dự án kinh tế-xã hội chưa rõ nét.

- Việc thể hiện quan điểm phát triển bền vững vào trong các chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn chưa rõ. Nhiều quyết định chủ yếu dựa theo các phân tích lợi ích kinh tế - xã hội, chưa chú ý bảo vệ môi trường.

- Năng lực cán bộ và các nguồn lực đáp ứng cho nhu cầu phát triển bền vững tại tỉnh còn hạn chế; hiện tại việc phân bổ ngân sách theo tinh thần Thông tư 01/2005/TT-BKH còn chưa rõ, tỉnh chưa có cán bộ chuyên trách thực hiện công tác phát triển bền vững. Việc thực hiện các công cụ đánh giá môi trường và đánh giá xã hội để lồng ghép vào các vấn đề môi trường và xã hội vào các chương trình, kế hoạch, dự án ... còn hạn chế và chưa thành kỹ năng của các ngành, các cấp.

- Các công cụ kinh tế môi trường chưa được áp dụng để điều chỉnh hành vi sản xuất và tiêu dùng của nhà sản xuất cũng như tiêu dùng dân cư.

- Chưa có cơ chế tham gia của các tổ chức xã hội, nhân dân vào quá trình phát triển bền vững.



Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id50526 114188
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Trường Đại Học Mỏ Địa Chất Khoa Dầu Khí Lời mở đầu
UploadDocument server07 id50526 114188 -> MỤc lục mở ĐẦU 10 Xuất xứ của dự án 10
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Thiết kế MÔn học nhà MÁY ĐIỆn lời nóI ĐẦU
UploadDocument server07 id50526 114188 -> ĐỀ TÀi ngân hàng trung ưƠng trưỜng trung cấp kt-cn đÔng nam
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Seminar staphylococcus aureus và những đIỀu cần biếT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Bài thảo luận Đánh giá chất lượng sản phẩm dầu thực vật Môn Phân Tích Thực Phẩm Nhóm 2 : Hoàng – Hùng Hiếu Hồng
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Luận văn tốt nghiệp gvhd: pgs. Ts nguyền Ngọc Huyền MỤc lục danh mục các chữ viết tắT
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Aïi Hoïc Quoác Gia Tp
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Mục lục Tổng quan về thịt
UploadDocument server07 id50526 114188 -> Gvhd: Nguyễn Minh Hùng Đề tài: Tìm Hiểu & Nghiên Cứu cpu

tải về 2.62 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương