Marketing căn bản. TÀI liệu hưỚng dẫn môn họC



tải về 1.63 Mb.
trang21/29
Chuyển đổi dữ liệu13.04.2018
Kích1.63 Mb.
#36908
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   29

Câu hỏi củng cố




BƯỚC HỌC 7.2: Mô tả các dạng đặc biệt của Marketing

1. Bài hướng dẫn : Một số dạng đặc biệt của marketing

2. Câu hỏi củng cố


Bài hướng dẫn:

Chương 7: CHIẾN LƯỢC MARKETING VÀ MỘT SỐ DẠNG ĐẶC BIỆT CỦA MARKETING (tt)

IV. MỘT SỐ DẠNG ĐẶC BIỆT CỦA MARKETING

1. Marketing dịch vụ:

1.1 Bản chất và những đặc điểm cơ bản của dịch vụ

Philip Kotler định nghĩa: "Dịch vụ là mọi biện pháp hay lợi ích mà một bên có thể cung cấp cho bên kia và chủ yếu là không sờ thấy được và không dẫn đến sự chiếm đoạt một cái gì đó. Việc thực hiện dịch vụ có thể có và cũng có thể không liên quan đến hàng hóa dưới dạng vật chất của nó".

Dịch vụ có bốn đặc điểm cần chú ý khi xây dựng các chương trình marketing:


  • Tính không thể sờ thấy được

  • Tính không thể tách rời khỏi nguồn gốc

  • Tính không ổn định về chất lượng

  • Tính không lưu giữ được

1.2 Phân lọai dịch vụ:

Có thể phân loại dịch vụ theo những đặc điểm sau đây:



  • Nguồn dịch vụ là con người hay máy móc ?

  • Khách hàng có nhất thiết phải có mặt khi cung ứng dịch vụ cho họ hay không ?

  • Động cơ mua dịch vụ của khách hàng là gì ?

  • Động cơ của người cung ứng dịch vụ và hình thức cung ứng dịch vụ như thế nào ?

1.3 Phạm vi phổ biến và tầm quan trọng của marketing trong lĩnh vực dịch vụ:

Các công ty dịch vụ thường lạc hậu so với các công ty sản xuất trong việc sử dụng thực thế marketing. Nhiều công ty dịch vụ có quy mô nhỏ (tiệm sửa giày dép, tiệm hớt tóc), nên marketing đối với họ là một việc tốn kém và không phù hợp.

Ngày nay, khi tình hình cạnh tranh ngày càng quyết liệt, chi phí tăng, nhịp độ tăng năng suất giảm và chất lượng dịch vụ ngày một sút kém, ngày càng có nhiều tổ chức dịch vụ bắt đầu quan tâm đến marketing.

Ví dụ: Các công ty hàng không là những công ty đầu tiên trong lĩnh vực dịch vụ đã bắt đầu nghiên cứu khách hàng và các đối thủ cạnh tranh của mình để thi hành những biện pháp tích cực làm cho việc đi lại bằng máy bay đỡ vất vả hơn và dễ chịu hơn. Ngân hàng cũng là một lĩnh vực hoạt động mà trong một thời gian tương đối ngắn marketing đã trở nên phổ biến, họ đã có những bộ phận marketing, những hệ thống thông tin, lập kế hoạch và kiểm tra.


2. Marketing tổ chức:

Marketing tổ chức là hoạt động nhằm mục đích tạo ra, duy trì hay thay đổi quan điểm hay hành vi của khách hàng mục tiêu đối với những tổ chức cụ thể.

Marketing tổ chức đòi hỏi phải đánh giá hình ảnh hiện tại của tổ chức và xây dựng kế hoạch marketing nhằm cải thiện hình ảnh đó.

2.1 Đánh giá hình ảnh của tổ chức:

Quá trình đánh giá hình ảnh là phát hiện hình ảnh hiện tại của tổ chức trong những khách hàng chủ chốt có quan hệ. Hình ảnh là ý niệm về khách thể ở một người hay một nhóm người. Các cá thể khác nhau có thể có những hình ảnh khác nhau của cùng một khách thể. Tổ chức có thể hài lòng với hình ảnh của mình trong con mắt của dư luận xã hội, hoặc thấy có những vấn đề nghiêm trọng đối với hình ảnh đó.



2.2 Thiết kế hình ảnh và kiểm tra tình trạng của nó:

Bước tiếp theo đòi hỏi tổ chức phải xác định được hình ảnh mà mình muốn có. Ở đây tổ chức không nên cố đạt tới cái không thể được. Giả sử rằng công ty tư vấn về vấn đề quản lý thông qua quyết định là muốn có một hình ảnh một công ty đổi mới hơn, niềm nở hơn, giỏi nghiệp vụ hơn và lớn hơn.

Sau đó, công ty xây dựng một kế hoạch marketing nhằm đạt được những thay đổi theo hướng mong muốn của hình ảnh hiện tại. Giả sử, công ty muốn đặt trọng tâm chính là củng cố danh tiếng của mình như một công ty có trình độ nghiệp vụ giỏi. Cái chính mà công ty phải làm, tất nhiên, là thuê những cố vấn giỏi hơn. Nếu công ty đã có những cố vấn giỏi, nhưng những người xung quanh không biết họ, thì cần phải làm cho họ trở nên nổi tiếng hơn.

Công ty phải định kỳ điều tra công chúng của mình để xác định xem những biện pháp mà mình triển khai góp phần cải thiện hình ảnh đó không. Hình ảnh không thể thay đổi ngay do tính chất hạn chế của phương tiện và sức ì của hình ảnh trong công chúng.


3. Marketing cá nhân:

Song song với marketing dịch vụ và tổ chức, người ta còn tiến hành cả marketing cá nhân.

Marketing cá nhân là hoạt động nhằm tạo ra, duy trì hay thay đổi quan điểm hay hành vi đối với những cá nhân cụ thể.

Hai hình thức phổ biến nhất của hoạt động này là marketing những người nổi tiếng và marketing các ứng viên chính trị.



3.1 Marketing những người nổi tiếng:

Marketing những người nổi tiếng đã có một lịch sử lâu đời và đến thời gian gần đây nó được phát triển mạnh. Ví dụ: để duy trì và đề cao hình ảnh ngôi sao của mình, các diễn viên bắt đầu thuê những thư ký báo chí. Thư ký báo chí đưa tin về ngôi sao trên các phương tiện thông tin đại chúng và bố trí lịch xuất hiện ở những nơi thu hút được sự chú ý đông đảo của công chúng. Ngày nay, có hẳn những tổ chức chuyên truyền bá những nhân vật nổi tiếng.



3.2 Marketing các ứng viên chính trị:

Công việc này thường được tiến hành trong các cuộc bầu cử. Marketing các ứng viên chính trị đã biến thành một ngành hoạt động lớn, đòi hỏi phải chuyên môn hóa tất cả những người làm việc này một cách đặc biệt. Cách nhau chừng vài năm, công chúng thường xuyên tham gia các cuộc vận động bầu cử vào các chức vụ của các cơ quan địa phương, và các cơ quan toàn quốc. Cuộc vận động chính trị bao gồm việc các ứng viên viếng thăm thị trường cử tri và sử dụng các kết quả nghiên cứu marketing và quảng cáo thương mại để đảm vảo tối đa số cử tri bỏ phiếu cho ứng viên.


4. Marketing địa điểm

Marketing địa điểm là một hoạt động được tiến hành nhằm mục đích tạo ra, duy trì hay thay đổi thái độ, hay hành vi liên quan đến những địa điểm cụ thể.

Có những kiểu marketing địa điểm:


  • Marketing nhà ở

  • Marketing các khu xây dựng kinh tế

  • Marketing đầu tư vào sở hữu đất đai

  • Marketing địa điểm nghỉ ngơi

  • Marketing địa phương

  • ...

5. Marketing ý tưởng:

Ý tưởng cũng có thể được đưa ra mời chào trong khuôn khổ hệ thống marketing. Trong giới hạn phần này ta chỉ giới hạn ở việc xem xét những vấn đề marketing ý tưởng có tính chất xã hội.



Marketing xã hội là xây dựng, triển khai, và kiểm tra việc triển khai những chương trình nhằm mục đích làm cho nhóm mục tiêu (hay những nhóm mục tiêu) chấp nhận một ý tưởng xã hội. Để đạt được phản ứng đáp lại tối đa của nhóm mục tiêu trong quá trình marketing xã hội, người ta cũng phân chia thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng, hình thành ý đồ, xây dựng hệ thống truyền thông, các phương pháp làm lĩnh hội dễ dàng, kích thích và sử dụng các thủ thuật của lý thuyết trao đổi.

Câu hỏi củng cố

PHẦN PHỤ LỤC



PHỤ LỤC 1

Bài đọc 1:

Sự thật về marketing







05/05/2005







Hơn mười năm trước, khi đất nước mới mở cửa đón nhận làn sóng đầu tư nước ngoài, marketing là một lĩnh vực hết sức thú vị và mới mẻ. Nay marketing vẫn còn là chuyện thời sự của các doanh nghiệp, xin được chia sẻ một vài kinh nghiệm xung quanh vấn đề này.




Sự thật về sự khác biệt






Nhập môn marketing ai cũng biết một nguyên tắc cơ bản là phải tạo sự khác biệt thông qua định vị thương hiệu. “Khác biệt hay là chết” là khẩu hiệu nằm lòng của các giám đốc thương hiệu. Bản thân tôi cũng đã có những trải nghiệm và cảm nhận thú vị về sự khác biệt.

Rất nhiều thương hiệu tạo nên sự khác biệt mới lạ dựa trên một định vị độc đáo nhưng vẫn thất bại. Khoan hãy đưa ra những nguyên nhân để lý giải sự không thành công của “sự khác biệt”, hãy tự hỏi những định vị đó có trúng “tim đen” và được lòng người tiêu dùng không? Xin nói ngay, để nắm bắt điều đó, chúng ta phải thông qua khái niệm “sự thật ngầm hiểu” (consumer insight hay insight).

Hay nói cách khác, nhà sản xuất phải đưa ra được một thông điệp đã nằm đâu đó trong tâm trí người tiêu dùng mà chính bản thân họ cũng không biết!

Khi Dove đưa ra thông điệp: “Xà bông thường có chút xút gây khô da”, mọi người thấy có lý vì đâu đó trong kiến thức phổ thông họ đã biết. Vì thế khi Dove nói lên sự khác biệt “Dove là xà bông trung tính không chứa xút và có thêm một phần tư hàm lượng kem dưỡng da cho bạn làn da mịn màng” thì người tiêu dùng đã tiếp nhận! Nói tóm lại “sự khác biệt” và “định vị” của thương hiệu phải được tạo ra từ một sự “ngầm hiểu” sâu sắc.

Sự thật về marketing và quảng cáo

Quảng cáo là một mắt xích trong tiến trình marketing và là công cụ quan trọng để truyền đạt thông điệp của thương hiệu đến người tiêu dùng. Tuy nhiên, không thể có sự lẫn lộn giữa “Marketing - người đặt hàng quảng cáo” và “Đại lý - người làm ra quảng cáo”.

Marketing (khách hàng) nắm vững đường hướng, chiến lược phát triển của thương hiệu và đưa ra những yêu cầu truyền thông rõ ràng. Đại lý quảng cáo sẽ tiếp nhận những yêu cầu và cung cấp cho khách hàng những ý tưởng độc đáo để thể hiện hiệu quả thông điệp sản phẩm.

Trong thực tế, một thương hiệu thành công bao giờ cũng có dấu ấn của hai bên. Cả hai luôn tránh điều tối kỵ: làm thay việc của nhau. Các giám đốc thương hiệu nên được huấn luyện để biết cách dẫn dắt và đánh giá các tác phẩm sáng tạo một cách sáng suốt và công bằng và không nên can thiệp quá chi tiết vào công việc của bên quảng cáo.

Hồi làm trợ lý nhãn hiệu, tôi đã bị sếp la một trận vì đã dập tắt “nguồn cảm hứng” của giám đốc sáng tạo bằng cách tự tay vẽ ra một thiết kế cho trang quảng cáo trên báo và yêu cầu họ làm tiếp! Rồi sau này, có dịp làm tư vấn cho một số công ty trong nước, tôi lại chứng kiến rất nhiều nhà quảng cáo lại lo cố vấn chiến lược thương hiệu cho khách hàng! Tất nhiên cũng khó trách được họ khi ngay cả bên marketing (khách hàng) cũng không rành về chiến lược của mình!

Đã đến lúc phải trở lại đúng trật tự của nó! Các doanh nghiệp phải tự làm chủ vận mệnh thương hiệu của mình, bằng mọi giá, kể cả việc nhờ sự giúp đỡ chuyên nghiệp từ bên ngoài. Còn công ty quảng cáo hãy mạnh dạn nói: “Chúng tôi chỉ biết làm công việc quảng cáo theo chiến lược đề ra của quý vị”.



Sự thật về sức mạnh của các công ty đa quốc gia

Không thể phủ nhận tính chuyên nghiệp, tính hệ thống và tiềm lực tài chính của các “đại gia” nước ngoài, nhưng họ có một điểm yếu chết người là “tính toàn cầu hóa” ngày càng cao trong chiến lược marketing. Điều đó đã làm hạn chế sự thích ứng với môi trường địa phương và đánh mất khả năng thấu hiểu nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của người tiêu dùng.

Vì thế, muốn thắng được họ, chỉ có một cách duy nhất là làm marketing bài bản và thể hiện khả năng hiểu người địa phương vượt trội. Điều này chưa được các doanh nghiệp trong nước làm tốt.

Trong khi đó, nhờ vũ khí này, các công ty Trung Quốc đã đi từ chỗ bắt chước đến chỗ đánh bật các công ty nước ngoài. Họ liên tục đưa ra sản phẩm mới, ưu việt, sử dụng các phương cách marketing hiện đại, sử dụng các công ty quảng cáo nước ngoài. Ngày nay, các công ty Trung Quốc thậm chí còn mua lại các đại gia (mua đứt nhánh IBM PC) và vươn ra toàn cầu.

Tôn giáo” marketing

Xin kể hai mẩu chuyện trước khi có lời kết cho bài viết này.

Câu chuyện thứ nhất. Năm 2000, Úc ban hành luật thuế GST (giống như VAT). Chính phủ Úc tung một chiến dịch marketing rầm rộ để vận động người dân bỏ phiếu cho loại thuế mới này. Hàng ngày trên truyền hình xuất hiện dày đặc các quảng cáo rất ấn tượng nói về lợi ích của GST (ví dụ một bà mẹ nói, với cách tính này, sau 20 năm gia đình bà tiết kiệm được 100.000 Đô-la Úc!). Các quảng cáo bao giờ cũng kết thúc bằng số điện thoại trợ giúp nếu người dân muốn khai thuế giùm!

Tuy nhiên, cũng có những người phản đối và cũng bằng cách rất... marketing. Một lần trên truyền hình xuất hiện một đoạn quảng cáo một anh chàng cầm một ly bia ngồi trong quán bar. Trước sự ngạc nhiên tột độ của anh ta, ly bia bị vơi đi 20%. Trên màn hình xuất hiện câu hỏi: “Bạn có biết ai lấy cắp 20% bia của bạn không?”. Trả lời: “Đó chính là thuế GST!!!”. Ký tên ở dưới: “Hiệp hội các nhà sản xuất bia Úc!!”.

Câu chuyện thứ hai. Hãng máy tính Apple năm vừa qua đã thành công vang dội với iPod: máy nghe nhạc MP3 (tải từ trên mạng xuống). Ý tưởng về sản phẩm xuất phát từ đầu óc marketing của Tổng giám đốc Steve Jobs khi quan sát thấy các bạn trẻ tải nhạc từ trên mạng xuống nhưng chỉ có thể lưu trữ vào các ổ cứng hay các nơi lưu trữ trên mạng và mỗi lần muốn nghe nhạc lại phải ngồi vào máy tính. Sản phẩm iPod ra đời chứa được hàng ngàn bài nhạc MP3 và phục vụ cho nhu cầu nghe nhạc mọi lúc mọi nơi. Chưa hết, Apple tung ra một website bán nhạc để dân chơi iPod có thể tùy nghi lựa chọn.

Ngày nay, marketing đi vào kinh doanh và cuộc sống như một thứ “tôn giáo” chứ không dừng lại là một nghề hay một kỹ năng. Rất nhiều doanh nghiệp đủ mọi thành phần có thể bàn luận say sưa về xây dựng thương hiệu, về marketing. Đó là tín hiệu rất đáng mừng cần được cổ vũ!

Tuy nhiên, chúng ta cần phải chú trọng tính thực hành nhiều hơn nữa trong công tác marketing. Sự mạnh dạn đầu tư và kiên quyết bước theo con đường chuyên nghiệp là yếu tố quyết định hình thành một lớp doanh nhân - marketing mới, những người sẽ nâng các thương hiệu Việt Nam lên tầm cỡ khu vực và thế giới.


(theo TBKTSG)






Каталог: gallery
gallery -> Album hưƠng xuâN. Thơ phổ nhạC. Phòng thu audio. Nhạc Sĩ Đình Đạm
gallery -> Phụ cấp độc hại, nguy hiểm
gallery -> BỘ TÀi chính cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
gallery -> Nobel văn chương năm 1987 joseph brodsky
gallery -> TÊN ĐỀ TÀi luận văn thạc sĩ khnn chuyên ngành chăn nuôi từ NĂM 1996 2012
gallery -> BÁo cáo công khai đIỀu kiệN ĐẢm bảo chất lưỢng đÀo tạo tiến sĩ Tên chuyên ngành, mã số, quyết định giao chuyên ngành đào tạo
gallery -> CHƯƠng I kế toán vốn bằng tiềN
gallery -> KẾ toán vốn bằng tiền I. YÊU cầU
gallery -> Phụ lục II nguyên tắC, NỘi dung và KẾt cấu tài khoản kế toáN

tải về 1.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   17   18   19   20   21   22   23   24   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương