LUẬN Án tiến sĩ luật học hà NỘI 2014 h ọc viện chính trị quốc gia hồ chí minh nguyễn thị tuyết mai



tải về 1.74 Mb.
trang6/13
Chuyển đổi dữ liệu14.06.2018
Kích1.74 Mb.
#39986
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13


Nguồn: Báo cáo số 20/BC-TANDTC ngày 01/9/2010 của TAND Tối cao tổng kết 5 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự; Báo cáo số 01/BC-TA ngày 04/01/2011 của TAND tối cao Tổng kết công tác năm 2010 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2011; Báo cáo số 36/BC-TA ngày 28/12/2011 của TAND tối cao Tổng kết công tác năm 2011 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2012 của ngành TAND; Báo cáo số 05/BC-TA ngày 18/01/2013 của TAND tối cao Tổng kết công tác năm 2012 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013 của ngành TAND; Báo cáo tham luận của TAND tối cao tại Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 trình bày ngày 16/4/2013.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những thành tựu trong hoạt động xét xử của TAND. Trong đó, không thể không kể đến sự hoàn thiện của pháp luật, đặc biệt là từ việc các văn bản luật quan trọng trong lĩnh vực dân sự đã kịp thời bổ sung quy định cho phép áp dụng tập quán trong những trường hợp Luật định. Bằng các quy định cho phép áp dụng tập quán, TAND các cấp có thể sử dụng tập quán để giải quyết các vụ, việc dân sự thuộc thẩm quyền trong trường hợp không có văn bản quy phạm pháp luật.

Mặc dù vậy, hệ thống TAND vẫn chưa giải quyết được triệt để hiện tượng án bị hủy, sửa hay quá thời hạn xét xử, thậm chí là trường hợp không giải quyết vì cho rằng thiếu căn cứ pháp lý. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Tiếp cận từ góc độ áp dụng pháp luật, các Báo cáo của TAND chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế như: Công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu công tác xét xử; Một số thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác, còn hạn chế về năng lực, trình độ, bản lĩnh nghề nghiệp; Một số trường hợp thẩm phán áp dụng pháp luật chưa thật chính xác; Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử chưa có quy định hoặc chậm có văn bản hướng dẫn cụ thể; Việc trao đổi, hướng dẫn nghiệp vụ của các Tòa chuyên trách và Viện khoa học xét xử của TAND tối cao trong một số trường hợp còn chậm làm ảnh hưởng tiến độ giải quyết vụ án; Những vướng mắc do sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật vẫn còn tồn tại và có lúc chậm được khắc phục…

Trong các Báo cáo không đề cấp đến việc TAND các cấp có áp dụng tập quán để xét xử và có vụ, việc nào bị từ chối xét xử vì lý do không có pháp luật điều chỉnh hay không. Các Báo cáo cũng không đề cập đến con số thống kê những vụ, việc đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết mà bị Tòa án từ chối thụ lý vì lý do không có pháp luật điều chỉnh. Tuy vậy, trên thực tế, hiện tượng này vẫn xảy ra. Chẳng hạn, chỉ tính riêng tranh chấp về mồ mả, không còn là hiện tượng cá biệt nhưng Tòa án không thụ lý những vụ việc này với lý do không có quy phạm pháp luật thành văn để giải quyết, hơn nữa, TAND cũng không có căn cứ pháp lý để xác định vụ, việc này thuộc thẩm quyền của TAND [91]. Hay như những vụ kiện đòi trả lại lễ vật mà nhà trai đưa cho nhà gái theo phong tục tập quán để chuẩn bị làm đám cưới nhưng lễ cưới không diễn ra cho nhà gái hủy hôn, các tranh chấp này cũng diễn ra tương đối nhiều thời gian gần đây.

Như vậy, mặc dù có quy định áp dụng tập quán, nhưng quy định trong nhiều trường hợp vẫn chưa phát huy được hiệu quả điều chỉnh như mong muốn của TAND và như khả năng mà quy định này có thể mang lại. Điều này đã được TAND tối cao tổng kết một phần thông qua việc tổng kết 12 năm thực hiện Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo nhận định của TAND tối cao, Điều 6 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ là quy định mang tính nguyên tắc, và vì là quy định mang tính nguyên tắc nên không thể áp dụng trực tiếp. Hơn nữa, do Việt Nam có 54 dân tộc anh em, nên việc áp dụng phong tục tập quán dễ dẫn đến thực trạng là kết quả giải quyết vụ việc theo từng tập quán sẽ không giống nhau vì mỗi tập quán điều chỉnh cùng một quan hệ xã hội song quy định của chúng lại khác nhau. TAND cũng gặp khó khăn khi xác định một tập quán nào là tốt đẹp, tập quán nào là không tốt đẹp vì trong thực tiễn không phải lúc nào điều này cũng dễ phân định. Bên cạnh đó, một số quy định cho phép áp dụng tập quán đã được hướng dẫn trực tiếp thì nay đã hết hiệu lực mà cơ quan có thẩm quyền không kịp thời ban hành văn bản thay thế làm cho Tòa án khó khăn khi áp dụng. Chẳng hạn như quy định hướng dẫn về áp dụng tập quán khi giải quyết các trường hợp kiện đòi lễ vật trao tặng trước khi kết hôn mà hôn nhân bị hủy, hướng dẫn này ban hành trên cơ sở Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, nay Luật đó cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành đã hết hiệu lực. Hiện không có văn bản hướng dẫn Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về vấn đề này.

Tóm lại, việc cho phép áp dụng tập quán trong điều chỉnh quan hệ dân sự là quy định nhân văn và cần thiết, phù hợp. Tuy nhiên, cơ chế áp dụng chưa hoàn thiện là rào cản làm quy định này trở nên chưa thực sự có tính khả thi. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giải quyết vụ, việc dân sự của TAND các cấp.

3.1.3. Tổng quan về các trường hợp Tòa án nhân dân áp dụng tập quán để giải quyết vụ, việc dân sự

Có thể nhận thấy, hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện, hầu hết các vụ, việc dân sự khi các bên tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết Tòa án đều có căn cứ từ các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện. Các vụ việc được áp dụng tập quán để giải quyết tất cả các quan hệ pháp luật liên quan thường xảy ra không nhiều.



Việc áp dụng tập quán để giải quyết một số vấn đề cụ thể trong các vụ việc xảy ra nhiều hơn và có xu hướng ngày càng rõ nét. Nhận định này được đưa ra trên cơ sở hai căn cứ: một là dựa vào kết quả khảo sát bằng phiếu thăm dò ý kiến; hai là dựa vào khảo sát các vụ án từng áp dụng tập quán trong xét xử dân sự ở Việt Nam thời gian qua.

Thứ nhất, căn cứ vào kết quả khảo sát các thẩm phán của TAND các cấp ở một số tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Kết quả khảo sát cho thấy, câu trả lời cho câu hỏi: từng áp dụng tập quán đề giải quyết tranh chấp dân sự hay chưa, thì câu trả lời hầu hết là "chưa từng áp dụng" (tỷ lệ 74,9%). Số người trả lời "đã từng áp dụng" không nhiều (23,3%), đặc biệt, chỉ có 1,9% số người được hỏi trả lời ở phương án "thường xuyên áp dụng".

Thứ hai, nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc từ khi có Bộ luật dân sự năm 1995 và trong Bộ luật cho phép áp dụng tập quán cho đến nay, số lượng bản án, quyết định áp dụng tập quán mặc có nhưng chiếm tỷ lệ không nhiều trong số vụ đã giải quyết được bằng các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Tuy vậy, con số này cũng không phải là ít. Đặc biệt, việc áp dụng tập quán để điều chỉnh một vài vấn đề trong tổng thể một vụ án có xu hướng gia tăng, chứng tỏ hiệu quả ngày càng cao của quy định cho phép áp dụng tập quán trong pháp luật Việt Nam.

3.1.3.1. Các trường hợp Tòa án nhân dân áp dụng tập quán trong nước

Thứ nhất, áp dụng tập quán trong nước để điều chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa hẹp, quan hệ hôn nhân và gia đình trong trường hợp không có quy phạm pháp luật điều chỉnh hoặc có pháp luật nhưng pháp luật cho phép áp dụng tập quán. Thực tiễn thời gian qua đã nhiều lần TAND áp dụng tập quán trong trường hợp này. Sau đây là một số ví dụ minh họa:

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (1): Bản án dân sự sơ thẩm số 94 ngày 13-10-2000, TAND huyện Long Đất tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu áp dụng tập quán về quyền ưu tiên khai thác điểm đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ để giải quyết tranh chấp. Tòa án đã coi tập quán về quyền ưu tiên khai thác điểm đánh bắt hải sản ở vùng biểu xa bờ là tập quán về quyền tài sản, tức là một trong bốn loại tài sản. Theo lập luận của Tòa án, tranh chấp về quyền tài sản là một lại tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, tuy nhiên, về pháp luật nội dung, hiện chưa có quy phạm nào quy định về vấn đề này nên phải áp dụng tập quán. Tập quán được áp dụng ở đây cũng không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (2): Bản án số 222/2005/DSPT ngày 02/12/2005 của TAND Tỉnh Trà Vinh: "Cầm đất là giao dịch không được pháp luật quy định nhưng đó là thói quen tập quán hình thành lâu đời trong nhân dân. Cầm đất là việc bên có đất giao đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình cho người khác sử dụng và người nhận cầm đất giao cho bên chủ đất một khoản tiền, vàng theo thỏa thuận, khi nào chủ đất trả lại khoản tiền, vàng đã nhận thì bên nhận cầm trả đất lại, nên trong việc cầm đất, người đi cầm không có quyền định đoạt". Đối với loại tranh chấp trong trường hợp này, có một số TAND quan niệm cầm đất là biện pháp bảo đảm hợp đồng vay tiền, vàng; tuy nhiên, có những Tòa án lại quan niệm cầm đất là một loại giao dịch dân sự rất đặc thù, là loại giao dịch dân sự theo tập quán và chưa có pháp luật điều chỉnh.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (3): Các bản án giải quyết việc hai gia đình có con trai và con gái dự kiến kết hôn, đã tổ chức lễ hỏi và nhà trai đã mang lễ vật có thể là tiền, vàng, vật dụng khác… tới cho nhà gái nhưng sau đó đôi trai gái không tiến tới hôn nhân, nhà trai yêu cầu trả lại lễ vật. Đối với những tranh chấp này, có TAND coi đây là tranh chấp về quan hệ hợp đồng tặng cho có điều kiện, tuy nhiên, nhiều TAND cho rằng đây là loại quan hệ pháp luật rất đặc biệt chứ không phải hợp đồng. Những Tòa án địa phương nào không coi đây là hợp đồng tặng cho có điều kiện thì thường căn cứ vào tập quán để giải quyết các vụ kiện đòi lễ vật của nhà trai khi nhà trai hoặc nhà gái hủy việc kết hôn. Ví dụ: Bản án số 42/2010/DS-ST ngày 15/6/2010 của TAND huyện Châu Thành, tỉnh Long An xác định: “Theo tập quán địa phương, hoa tai và tiền cho cô dâu may trang phục cưới là bắt buộc nên bà Thoa được quyền giữ lại. Các tài sản khác mà bà Thoa đang quản lý là một dây chuyền 05 chỉ vàng 24K, một vòng đeo tay (lắc) 05 chỉ vàng 24K, bà Thoa phải hoàn trả lại cho ông Thát”.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (4): Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2007/DSST ngày 04/7/2007 của TAND huyện Phủ Cừ, tỉnh Hưng Yên; Bản án dân sự phúc thẩm 40/2007/DSPT ngày 24/9/2007 TAND tỉnh Hưng Yên giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm; Quyết định giám đốc thẩm số 200/2011/DS-GĐT ngày 19/3/2011 của Tòa Dân sự TAND tối cao: Các bản án, quyết định này đều để giải quyết vụ việc tranh chấp quyền sử dụng đất và nhà thờ họ giữa dòng họ Nguyễn Đức - thôn Trà Bồ, xã Phan Sào Nam, huyện Phủ Cừ, tỉnh Hưng Yên với bà Nguyễn Thị Thất - vợ của trưởng họ đã mất là ông Nguyễn Đức Sùng. Theo đó, khi phán quyết, các cấp Tòa án đều căn cứ vào tập quán địa phương, xác định: nhà thờ họ được giao cho trưởng họ trông nom, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và việc kê khai đất của trưởng họ là kê khai người sử dụng, không phải là người sở hữu.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết việc dân sự (1): giải thích hợp đồng dân sự. Ví dụ như trong một giao dịch dân sự mua bán tài sản, các bên sử dụng biện pháp bảo đảm là đặt cọc và giao kết: nếu bên mua hàng không mua thì mất cọc, nếu bên bán không bán thì phạt “gấp bội“. Khi một trong các bên không thực hiện đúng hợp đồng sẽ bị phạt vi phạm và việc phạt gấp bội được giải thích trên cơ sở tập quán. Ở đây không có tranh chấp giữa các bên mà chỉ có yêu cầu giải thích hợp đồng dân sự về thuật ngữ gấp bội.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết việc dân sự (2): Một số địa phương hiện nay có tập quán khi một tàu đánh cá phát hiện ra đàn cá và gọi tàu khác cùng đến đánh cá thì khi chia sản phẩm, người phát hiện ra đàn cá sẽ được chia với tỷ lệ nhiều hơn [74, tr.6]. Ở đây không có tranh chấp mà chỉ có yêu cầu xác định quyền sở hữu tài sản đối với sản phẩm đạt được.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết các việc dân sự (3): TAND áp dụng quy phạm đạo đức để giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn theo khoản 4 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Điều 41 Luật hôn nhân và gia đình. Theo đó, nếu cha, mẹ có lối sống đồi truỵ hoặc xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, thì Toà án có thể ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ một năm đến năm năm.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết việc dân sự (4): TAND áp dụng tập quán về xác định dân tộc cho con khi cha mẹ khác nhau về dân tộc để công nhận con sinh ra mang dân tộc của cha hay của mẹ theo yêu cầu công nhận của cha, mẹ hoặc con.

Thứ hai, áp dụng tập quán trong nước để điều chỉnh các quan hệ kinh doanh, thương mại không có yếu tố nước ngoài. Thực tiễn thời gian qua TAND các cấp đã từng áp dụng, thể hiện qua những bản án, quyết định minh họa sau đây:

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại (1): Bản án số 1034/DSST ngày 08/7/2002 của TAND thành phố Hồ Chí Minh đã xét rằng: “theo thông lệ chiết khấu tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam; và cam kết của người chiết khấu khi xuất trình bộ chứng từ tại Ngân hàng để yêu cầu chiết khấu, là người chiết khấu phải hoàn trả (hoặc ghi nợ) số tiền được chiết khấu, lãi, chi phí theo qui định cho Ngân hàng”.

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại (2): Bản án số 2392/DSPT ngày 30/12/2002 của TAND thành phố Hồ Chí Minh nhận định: “theo cách thức tập quán mua bán vàng của các cửa hàng kinh doanh vàng tư nhân thì đây là một loại hàng hóa có biến động giá rất nhanh và rất lớn, tăng hoặc giảm giá, không thể có việc bán tiếp 10 lượng vàng theo giá cũ trước đó 3 tháng, khi người mua chỉ trả trước tiền mua 3 lượng 5, nếu có thì hai bên thông thường chỉ tính giá cũ là với 3,5 lượng vàng 24K (SJC) còn lại tính theo giá mới mới phù hợp với thực tế tập quán mua bán loại hàng này”.

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại (3): Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2009/DSST ngày 01/10/2009 của TAND tỉnh Đăk Lăk giải quyết tranh chấp giữa ông Lê Văn Dũng (gọi tắt là ông Dũng) và bà Nguyễn Thị Thùy Mỹ (gọi tắt là bà Mỹ) về hợp đồng gửi giữ tài sản. Ngày 07/2/2001, ông Dũng gửi đại lý của bà Mỹ 3.225 kg cà phê nhân xô. Hai bên thỏa thuận khi nào giá cà phê lên thì chốt giá lấy tiền. Khoảng tháng 07/2004, giá cà phê lên 9.700đ/kg, ông Dũng gọi điện thoại cho bà Mỹ chốt giá, quy thành tiền là 31.282.000đ. Bà Mỹ không trả tiền, nên ông Dũng khởi kiện ra Tòa án tỉnh Đăk Lăk yêu cầu bà Mỹ phải thực hiện một trong hai phương án: 1, trả cho ông số tiền đã chốt giá, lãi suất từ khi chốt giá; 2, trả lại cà phê cho ông. TAND tỉnh Đăk Lăk đã quyết định buộc bà Mỹ phải trả cho ông Dũng số tiền mà hai bên chốt giá cà phê và ½ thiệt hại theo giá cà phê ngày xét xử sơ thẩm theo tập quán chốt giá cà phê.

Thứ ba, áp dụng tập quán trong nước trong trường hợp có pháp luật nhưng pháp luật chỉ quy định nguyên tắc, không quy định cách xử sự cụ thể mà cho phép xử sự theo tập quán. Trong trường hợp này, trên thực tế TAND cũng đã không ít lần áp dụng. Sau đây là trích dẫn, minh họa một số bản án, quyết định, trường hợp liên quan:

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (1): Bản án số 12/DSPT ngày 18-01-2005 của TAND thành phố Hà Nội giải quyết tranh chấp về thời điểm mở thừa kế. Theo bản án sơ thẩm, Tòa án địa phương huyện Đông Anh - Hà Nội căn cứ vào giấy chứng tử lập năm 2004 để xác định người để lại di sản chết tháng 01/1995. Nhưng tại cấp phúc thẩm, Tòa án thành phố Hà Nội đã xem xét bia mộ khi cải táng, khẳng định bia mộ khi cải táng ghi ngày mất của người để lại di sản là 02/01/1994, cải táng vào tháng 11/1996, và theo tập quán địa phương, người chết sau 27 tháng mới được cải táng, như vậy giấy chứng tử ghi thời điểm chết tháng 01/1995 là không phù hợp, vì nếu chết vào thời điểm đó, lúc cải táng là lúc chưa đủ 27 tháng [13]. Ở đây TAND thành phố Hà Nội đã căn cứ vào tập quán để làm nguồn của chứng cứ.

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (2): Quyết định số 705/2009/DS-GĐT ngày 29/12/2009 của Tòa dân sự TAND tối cao nêu: căn cứ các tài liệu, gồm: Cuốn Gia phả lập năm 152 (trang 60) do ông Khải xuất trình; “Văn bản giao trách nhiệm trông nom nhà thờ Ât chi Đinh Tộc” của ngành 2 họ Đinh lập ngày 20/02/1994; Biên bản họp chi thứ nhất của năm chi họ Đinh thôn Lộc Dư (họp tại nhà ông Hương) ngày 17/11/2004; Giấy chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản của ông Khải cho ông Truyền ngày 15/5/1990, tất cả các văn bản này đều xác định ngôi nhà thờ trên diện tích 343m2 đất tại thôn Lộc Dư, xã Nguyễn Trãi là nhà thờ tổ năm chi ngành 2 họ Đinh thôn Lộc Dư do ông Khải cháu kế trưởng đời thứ 12 chi 1 ngành 2 trông nom quản lý thờ tự; và đây là nơi duy nhất thờ tự chung, nơi sinh hoạt chung của cả ngành 2 trong ngày cúng giỗ cụ tổ của cả 5 chi ngành 2 họ Đinh thôn Lộc Dư, nên có cơ sở xác định đây là nhà thờ thuộc sở hữu chung của cả ngành 2 họ Đinh thôn Lộc Dư được hình thành theo tập quán thờ cúng tổ tiên”. Tập quán này được áp dụng để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản chung của cộng đồng.

  • Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (3): Quyết định số 236/2006/DS-GĐT ngày 02/10/2006 của Tòa dân sự TAND tối cao: Tập quán được sử dụng để xác định ranh giới đất giữa các bất động sản liền kề. Tòa án dựa vào tập quán để xác định ở Việt Nam, nhà cấp 4 có một phần mái nhô ra khỏi tường để bảo vệ tường tránh mưa nắng và phần mái nhô ra này thường nằm trên đất của gia đình người có nhà.

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án dân sự (4): Áp dụng tập quán để giải thích các hợp đồng, giao dịch dân sự. Trong hợp đồng, giao dịch dân sự, nếu đương sự thỏa thuận với nhau về tiền là “chục ngàn” thì các TAND thống nhất hiểu là “10 ngàn”. Tuy nhiên, nếu đương sự thỏa thuận là chục trái cây, chục hột gà/hột vịt (quả trứng gà/vịt) thì đối với miền Tây Nam Bộ, tùy thuộc nơi giao dịch được xác lập mà giải thích theo tập quán chục là 12, 14 hoặc 16 đơn vị.

3.1.3.2. Các trường hợp Tòa án nhân dân áp dụng tập quán quốc tế

Thứ nhất, áp dụng tập quán quốc tế về dân sự trong trường hợp quan hệ dân sự (theo nghĩa hẹp) có yếu tố nước ngoài không được Bộ luật dân sự, các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà XHCN Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên hoặc hợp đồng dân sự giữa các bên điều chỉnh. Về trường hợp này, rất hiếm xảy ra trên thực tế nên không có minh chứng cụ thể.

Thứ hai, áp dụng tập quán quốc tế để điều chính quan hệ kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài trong trường hợp có điều ước quốc tế có hiệu lực quy định áp dụng hoặc các bên thỏa thuận áp dụng. Đây là trường hợp rất dễ xảy ra và trên thực tế, trong điều kiện hội nhập thì thường xuyên xảy ra. Sau đây là phần mình họa thông qua một số bản án, quyết định của TAND các cấp:

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại (1): Bản án số 37/2006/KDTM-ST ngày 14+20.4.2006 của TAND thành phố Hà Nội nhận định “theo quy định tại Điều 12 của hợp đồng thì Công ty vật tư nông nghiệp Nghệ An phải mở L/C chậm nhất là ngày 05/9/2004. Nhưng trên thực tế, ngày 30/8/2004 Ngân hàng công thương Việt Nam đã phát hành L/C số 440LCB200400025 cho Công ty Summit là người thụ hưởng. Như vậy, nguyên đơn đã mở L/C trước thời hạn 05 ngày so với thời hạn hai bên thoả thuận trong hợp đồng. Ngày 01/9/2004, ngân hàng thông báo của Summit đã chính thức thông báo L/C nói trên cho bị đơn, điều đó chứng tỏ L/C được mở đã đảm bảo được tính chân thật bề ngoài, nguyên đơn đã hoàn thành nghĩa vụ của mình trong việc mở L/C đúng với Điều 7 UCP 500.1993 ICC”.

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại (2): Bản án số 16/2008/KDTM-PT ngày 14/01/2008 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội quyết định: “Căn cứ Điều 1, Điều 3 của UCP 500. 1. Chấp nhận yêu cầu của Công ty Jinyuan Quảng Tây đối với Ngân hàng Đông Á theo đơn khởi kiện đề ngày 08/01/2007. 2. Buộc Ngân hàng Đông Á phải thanh toán cho Công ty Jinyuan Quảng Tây, Trung Quốc số tiền trong hóa đơn thương mại là 180.270,84 USD (một trăm tám mươi nghìn, hai trăm bảy mươi đô la Mỹ, tám mươi tư cent) theo L/C số 009LC1061370003 mở tại Ngân hàng Đông Á - Chi nhánh Hà Nội ngày 17/5/2006. 3. Buộc Ngân hàng Đông Á phải thanh toán cho Công ty Jinyuan Quảng Tây khoản tiền lãi do chậm thanh toán L/C là 8.000 USD...”.

- Áp dụng tập quán để giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại (3): Tòa án áp dụng tập quán quốc tế giải quyết tranh chấp hợp đồng gia công trong thương mại: Nguyên đơn đòi bị đơn bồi thường thiệt hại do giao sản phẩm gia công chậm so với thời hạn trong hợp đồng. Số tiền thiệt hại mà Tòa án yêu cầu bị đơn phải bồi thường cho nguyên đơn chính là tiền chênh lệch giữa cước vận chuyển bằng đường hàng không so với cước vận chuyển bằng đường biển. Tập quán mà Tòa án áp dụng để buộc bị đơn bồi thường phần cước chênh lệch này là: trong vận chuyển hàng hóa quốc tế, việc vận chuyển thông thường là bằng đường biển vì giá cước rẻ. Do bị đơn chậm giao hàng gia công làm cho nguyên đơn phải vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không [Phiếu thăm dò ý kiến của Phó Chánh tòa Kinh tế, TAND thành phố Hồ Chí Minh, thăm dò do Nghiên cứu sinh thực hiện vào tháng 4/2013].



- Áp dụng tập quán để giải quyết việc kinh doanh, thương mại (1): Áp dụng thông lệ quốc tế để giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Bên phải thi hành quyết định cho rằng thỏa thuận trọng tài phải được xác lập bằng một văn bản riêng ngoài hợp đồng. Tòa án áp dụng thông lệ quốc tế để công nhận thỏa thuận trọng tài có thể quy định ngay trong hợp đồng [Phiếu thăm dò ý kiến của Phó Chánh tòa Kinh tế, TAND thành phố Hồ Chí Minh, thăm dò do Nghiên cứu sinh thực hiện vào tháng 4/2013]. Cụ thể, khi giải quyết một tranh chấp về kinh doanh, thương mại quốc tế có tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó, thường các bên có hai loại ý kiến khác nhau. Một bên trong quan hệ tranh chấp có thể cho rằng một thỏa thuận trọng tài chỉ có hiệu lực khi thỏa thuận đó lập thành một văn bản riêng. Một bên khác trong quan hệ có thể phủ nhận quan điểm đó và cho rằng thỏa thuận trọng tài có thể quy định ngay trong hợp đồng. TAND sẽ áp dụng thông lệ quốc tế để giải quyết tranh chấp này. Theo thông lệ quốc tế, thỏa thuận trọng tài có thể quy định ngay trong hợp đồng chứ không nhất thiết phải lập thành một văn bản riêng.

3.2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ BẤT CẬP TRONG ÁP DỤNG TẬP QUÁN ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY



3.2.1. Kết quả đạt được và các nguyên nhân

3.2.1.1. Về kết quả đạt được

* Về chủ thể áp dụng

Từ phần trình bày về những vụ án áp dụng tập quán điển hình nêu trên có thể khẳng định, quy định cho phép căn cứ vào tập quán trong xét xử dân sự đã được TAND ở các cấp xét xử từ sơ thẩm đến phúc thẩm, giám đốc thẩm áp dụng. Chủ thể áp dụng là các thẩm phán của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh và TAND tối cao. Theo kết quả thăm dò ý kiến của luận án, trong 215 thẩm phán được hỏi, có 54 người từng áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự.

Một điều cần lưu ý ở đây là, việc áp dụng tập quán trong nước thuộc thẩm quyền của TAND các cấp nên TAND từ cấp huyện đến TAND tối cao đều đã từng áp dụng. Còn việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế chỉ thực hiện đối với các quan hệ thương mại quốc tế. Quan hệ thương mại quốc tế nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND từ cấp tỉnh trở lên theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Do vậy TAND cấp huyện không có thẩm quyền áp dụng tập quán thương mại quốc tế. Trên thực tế, các vụ việc áp dụng tập quán thương mại quốc tế ở nước ta thời gian qua đều chỉ được thực hiện tại TAND cấp tỉnh và TAND tối cao. Như vậy, việc thực hiện này, xét theo thẩm quyền được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự là hoàn toàn phù hợp.

* Về quy trình áp dụng

Thủ tục tố tụng là một trong những căn cứ quan trọng để đánh giá giá trị hiệu lực của một bản án, quyết định của cơ quan xét xử. Thủ tục tố tụng không được đảm bảo hoặc bị vi phạm là một trong những căn cứ để hủy bản án, quyết định. Việc áp dụng tập quán để giải quyết các vụ, việc dân sự của Tòa án không là ngoại lệ của trường hợp này. Theo quy định tại Điều 3 Bộ luật tố tụng dân sự, mọi hoạt động tố tụng dân sự của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này. Như vậy, việc áp dụng tập quán muốn đảm bảo tính đúng đắn nhất thiết phải tuân theo quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.

Thực tiễn những vụ việc đã áp dụng tập quán cho thấy, hầu hết các vụ, việc mà Tòa án áp dụng tập quán thì đều có căn cứ pháp lý và đúng quy trình, thủ tục. Một số vụ án xét xử ở cấp sơ thẩm sau đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị, điều này không liên quan đến trình tự, thủ tục mà chủ yếu do các chủ thể có thẩm quyền hoặc đương sự có xung đột với nhau về quan điểm liên quan đến các tập quán đã được áp dụng.



* Về việc đảm bảo nguyên tắc trong áp dụng tập quán

Từ thực tiễn áp dụng tập quán có thể khẳng định, hầu hết các trường hợp áp dụng tập quán thì đều đảm bảo nguyên tắc, tức là, trong quan hệ dân sự nói chung, chỉ áp dụng khi pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia không quy định và các bên không có thỏa thuận; trường hợp quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài, chỉ áp dụng tập quán thương mại quốc tế khi các bên lựa chọn áp dụng tập quán thương mại quốc tế. Và các trường hợp này đều áp dụng các tập quán không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Về vấn đề này, đúng như nhận định của một nhà nghiên cứu, “chưa thấy một ví dụ nào cho thấy việc áp dụng tập quán quốc tế trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam" [15, tr.68].

* Về việc phát huy vai trò tập quán, góp phần làm hoàn thiện hệ thống pháp luật

Có một thực tế là các hệ thống pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng sẽ luôn có những “lỗ hổng“, tức là luôn có những quan hệ xã hội cần thiết được điều chỉnh mà thiếu quy phạm pháp luật điều chỉnh. Tập quán pháp có thể được xem là một trong những giải pháp khả thi để khắc phục hiện tượng này.



Một điều cần thống nhất khi nhận định về vai trò của tập quán đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là, việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự không đồng nghĩa với việc áp dụng tập quán để giải quyết toàn bộ các tranh chấp trong vụ, việc đó. Đôi khi (và vấn đề này sẽ ngày càng phổ biến), chỉ một, một số quan hệ cụ thể trong toàn bộ tranh chấp đó cần thiết và phải được áp dụng tập quán, còn nhiều quan hệ còn lại trong tranh chấp vẫn áp dụng pháp luật. Ví dụ như trong bản án số 12/DSPT ngày 18-01-2005 của TAND thành phố Hà Nội, toàn bộ vụ việc được giải quyết trên cơ sở pháp luật, chỉ có duy nhất vấn đề chứng cứ để chứng minh ngày chết của người để lại di sản thì Tòa án căn cứ vào bia mộ khi cải táng và căn cứ vào tập quán địa phương quy định thời gian tối thiểu từ khi chết đến khi cải táng để khẳng định ngày mà người để lại di sản chết.

Vì sự phong phú, đa dạng và ngày càng phức tạp của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại mà vấn đề áp dụng tập quán sẽ là cần thiết, để lấp đầy khoảng trống pháp lý, làm cho hệ thống pháp luật luôn hoàn thiện vì sự phong phú của nguồn pháp luật.



* Qua thực tiễn áp dụng có thể văn bản hóa tập quán, làm cho pháp luật trở nên hoàn thiện hơn

Chúng ta đều biết trường hợp từ chối xét xử của các TAND về tranh chấp hụi, họ, biêu, phường phát sinh từ ngày 01/7/1996 (ngày Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực). Tại sao lại có trường hợp này? Trên thực tế, họ, hụi, biêu, phường là hình thức giao dịch dân sự rất phổ biến ở nước ta. Trước khi Bộ luật dân sự năm 1995 có hiệu lực (01/7/1996), tranh chấp hụi, họ được toà án giải quyết theo Thông tư liên ngành số 04 ngày 08/08/1992 giữa Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và TAND tối cao. Từ khi Bộ luật dân sự năm 1995 có hiệu lực, do trong Bộ luật không có quy định về họ, hụi nên dù những tranh chấp liên quan đến hình thức giao dịch này diễn ra nhiều song không được giải quyết. Đến tận thời điểm năm 1999, TAND tối cao có Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 hướng dẫn các TAND địa phương là các toà án không thụ lý các tranh chấp về hụi, họ phát sinh từ ngày 01/7/1996, để chờ hướng dẫn mới. Việc Bộ luật dân sự năm 2005 tại Điều 479 quy định: Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là một hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên. Hình thức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật là thực sự cần thiết. Một mặt, nó ghi nhận và bảo vệ các quan hệ xã hội theo tập quán vốn đang xuất hiện ngày càng nhiều, rất cần sự điều chỉnh của pháp luật; mặt khác, góp phần định hướng các quan hệ đó phát triển theo hướng tiến bộ, lành mạnh.

Từ quy định của Bộ luật D\dân sự năm 2005, lúc đầu, quan hệ hụi, họ, biêu, phường hoàn toàn chỉ dựa trên tập quán và được Nhà nước thừa nhận, bảo đảm thực hiện. Nhưng sau đó, Chính phủ đã bằng việc văn bản hóa, làm cho tập quán trở thành quy phạm pháp luật thông qua Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về hụi, họ, biêu, phường. Đây là cách làm mà chúng ta có thể phát huy.

* Việc áp dụng tập quán có thể làm định hình đường lối giải quyết các trường hợp tương tự về sau, làm căn cứ cho việc phát triển án lệ

Những vụ việc áp dụng tập quán thời gian qua cho thấy, người có thẩm quyền áp dụng tập quán đã làm một việc gần như là mở đường trong những trường hợp chưa hề có quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ tranh chấp. Sự mở đường này chính là bài học quý cho các thẩm phán khi gặp phải những vụ việc tương tự về sau. Dù rằng vào trước đó và thời điểm này, chúng ta chưa thừa nhận án lệ, song hoạt động hướng dẫn xét xử hàng năm của TAND tối cao rất gần gũi với việc tạo lập án lệ. Những bản án, quyết định có áp dụng tập quán trong giải quyết vụ, việc dân sự có thể được tham khảo, rút kinh nghiệm, làm hình thành nên đường lối giải quyết cho những vụ việc tương tự về sau.

3.2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả trên

Những thành tựu nói trên là rất đáng kể và là sự minh chứng cho tính đúng đắn của quan điểm phát huy vai trò tập quán trong việc hỗ trợ nhà nước quản lý xã hội. Điều này càng đặc biệt đáng được ghi nhận trong bối cảnh những quy định về áp dụng tập quán thực sự chưa hoàn thiện. Sở dĩ có được những thành tựu trên là do nhiều nguyên nhân.



Trước hết, do sự lãnh đạo đúng đắn của các cấp ủy Đảng. Với các văn kiện chỉ đạo kịp thời, khoa học, các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương và Đảng ủy ngành Tòa án đã lãnh đạo ngành TAND phát triển ngày càng lớn mạnh, đặc biệt kể từ sau khi có Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Nghị quyết lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Trên cơ sở Văn kiện, Nghị quyết của Trung ương Đảng, hàng năm Ban Cán sự Đảng TAND tối cao đều có Nghị quyết về việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ công tác trong tâm của năm. Trong những năm gần đây, đặc biệt từ sau khi có Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, Ban Cán sự Đảng TAND tối cao luôn chú trọng việc tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, Quốc hội Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác cải cách tư pháp; chỉ đạo thực hiện quyết liệt các giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ để xây dựng đội ngũ công chức Tòa án đủ năng lực; Thường xuyên thực hiện công tác giáo dục tư tưởng, chính trị; Duy trì thực hiện công tác tập huấn, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho ngành Tòa án. Với sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Ban Cán sự và các cấp ủy Đảng TAND tối cao, chất lượng các hoạt động áp dụng pháp luật được nâng cao, trong đó có chất lượng công tác áp dụng tập quán trong xét xử các vụ án dân sự [78].

Thứ hai, do TAND tối cao và các cấp Tòa án khác chú trọng đẩy mạnh nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, công chức Tòa án. Chỉ tính riêng trong 03 năm là từ năm 2010, 2011 đến năm 2012 ngành Tòa án đã cử 713 cán bộ đi đào tạo sau đại học (trong đó có 12 người được cử đi đào tạo tiến sỹ, thạc sỹ ở nước ngoài). Có 520 lượt cán bộ, công chức được cử tham dự các hội thảo quốc tế về sở hữu trí tuệ, tranh chấp thương mại quốc tế - vốn là những lĩnh vực thường xuyên phải áp dụng tập quán quốc tế hoặc thông lệ quốc tế. Ngành Tòa án đã tổ chức 102 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, trong đó tập trung chủ yếu vào việc tập huấn các văn bản pháp luật và các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao. TAND tối cao cũng đã phân cấp cho Chánh án TAND các tỉnh tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ hoặc đột xuất về chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thuộc quyền quản lý và việc này được duy trì đúng quy định.

Thứ ba, do công tác tổ chức thực hiện việc áp dụng pháp luật của toàn ngành TAND luôn được chú trọng, nghiêm túc. Hàng năm, TAND tối cao đều ban hành hoặc phối hợp ban hành những văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, ban hành nhiều công văn trao đổi nghiệp vụ với Tòa án địa phương. Chẳng hạn, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao đã ban hành nhiều Nghị quyết hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự; TAND tối cao đã phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng và ban hành Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT/TANDTC-BQP-BNV hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND... Những hoạt động này góp phần làm cho công tác xét xử dân sự nói chung và hoạt động áp dụng pháp luật, áp dụng tập quán nói riêng càng ngày càng trở nên rõ ràng về cơ sở pháp lý.

Thứ tư, sự phát triển đáng kể về số lượng và trình độ năng lực của thẩm phán, là những người đóng vai trò quan trọng trong việc thực tiễn hóa nguyên tắc áp dụng tập quán trong các đạo luật. Tính đến cuối năm 2012, số lượng thẩm phán và hội thẩm ngày càng được tăng lên đáp ứng yêu cầu của công việc. Vào năm 2010, toàn ngành TAND có 4.680 thẩm phán. Năm 2011, có hơn 200 thẩm phán TAND các cấp được bổ nhiệm mới. Trong năm 2012, có thêm 241 thẩm phán TAND các cấp được bổ nhiệm mới. Tính đến ngày 30/9/2012, toàn ngành TAND có 4.914 Thẩm phán (trong đó Thẩm phán TAND tối cao là 112 người; Thẩm phán trung cấp là 1.246 người; Thẩm phán sơ cấp là 3.556 người). Các thẩm phán đều đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đội ngũ thẩm phán, ngành TAND còn có số lượng 15.906 hội thẩm bao gồm Hội thẩm TAND cấp tỉnh và Hội thẩm TAND cấp huyện [75]. Việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ Tòa án được chú trọng thực hiện. Công tác bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ được tiến hành thường xuyên. Ngoài ra, TAND tối cao còn cử giảng viên hỗ trợ cho các Tòa án địa phương tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm nhân dân, biên soạn tài liệu tập huấn cho Hội thẩm nhân dân v.v.. Việc mạnh dạn áp dụng tập quán của nhiều chủ thể cho thấy bản lĩnh, sự am hiểu sâu sắc về văn hóa, phong tục, tập quán của các thẩm phán cũng như sự am hiểu sâu sắc các quy định về tập quán thương mại quốc tế của một bộ phận không nhỏ thẩm phán của Việt Nam. Một số người hoạt động thực tiễn như luật sư, thẩm phán cho rằng các thẩm phán mạnh dạn áp dụng tập quán thường là những thẩm phán có uy tín, có kinh nghiệm do đã được tập huấn, hướng dẫn tốt.

Thứ năm, cùng với thời gian, hệ thống pháp luật cũng đã trở nên hoàn thiện hơn, cơ chế cho phép áp dụng tập quán trong xét xử dân sự ngày càng rõ ràng và khả thi, đồng thời, ý thức pháp luật của nhân dân được nâng cao.

Điều này được minh chứng qua những phân tích ở trên, trong những đạo luật như Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật dân sự năm 2005, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật thương mại năm 2005, Bộ luật hàng hải năm 2005, Luật chuyển giao công nghệ năm 2006... và trong những văn bản dưới luật như Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) Nghị định 32/2002/NĐ-CP; Nghị định 144/2006/NĐ-CP v.v..

Mức độ ngày càng hoàn thiện của hệ thống pháp luật tác động tích cực đến ý thức pháp luật của nhân dân. Nhân dân đã có thể dễ dàng tiếp cận với các văn bản quy phạm pháp luật thông qua cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước. Hệ thống truyền thông cũng phát huy vai trò to lớn khi tuyên truyền phổ biến pháp luật tới nhân dân. Trong các cơ sở giáo dục phổ thông trung học và giáo dục chuyên nghiệp đều có chương trình giảng dạy về pháp luật.

Thứ sáu, sự am hiểu tập quán của nhân dân và sự phong phú của tập quán trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam, trong đó có nhiều tập quán tiến bộ là thế mạnh để lựa chọn và làm cho quy định về áp dụng tập quán trong nước ngày càng trở nên phát huy hiệu quả.

Điều thuận lợi của Việt Nam khi thừa nhận tập quán là Việt Nam có rất nhiều dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ mà hệ thống tập quán, luật tục của nhiều dân tộc tương đối hoàn chỉnh và điều chỉnh toàn diện đời sống xã hội, được nhân dân nắm rõ để thực hiện. Bên cạnh đó, thiết chế làng xã tồn tại lâu đời ở Việt Nam với những lệ làng, hương ước là sản phẩm thành văn hoặc bất thành văn chứa đựng hệ thống quy phạm phong phú đa dạng đóng vai trò như cương lĩnh tĩnh thần là công cụ điều chỉnh mối quan hệ nội bộ thôn làng hết sức hữu hiệu. Các quy phạm này đủ chi tiết có thể bổ khuyết cho pháp luật và có sức mạnh bảo đảm thực hiện - trong đó có cả bảo đảm bằng dư luận xã hội và chế tài nghiêm khắc của cộng đồng, và chúng đang có xu hướng vận động để phù hợp với thực tiễn hơn. Ngoài ra, những đặc điểm của quy phạm tập quán như tính hợp lý, tính có ích, tính tự giác trong thực hiện... là yếu tố tác động tích cực tới hiệu quả áp dụng tập quán với vai trò nguồn bổ trợ pháp luật. Tập quán là loại quy phạm phát sinh từ đời sống nên phần lớn chúng có tính hợp lý, có vai trò tích cực trong quản lý xã hội. Sự tồn tại của một tập quán trong nhiều trường hợp có lý do sâu sắc là tập quán đó có ích cho cộng đồng. Bởi vậy, tập quán dễ được thực hiện một cách tự nguyện, không cần cưỡng chế. Điều này khác với đặc điểm của pháp luật là luôn phải đảm bảo thực hiện bởi nhà nước. Đặc điểm của tập quán như đã nêu ở trên chính là yếu tố tác động tích cực tới hoạt động áp dụng tập quán ở Việt Nam hiện nay.

Những quan hệ dân sự theo tập quán đều đã được diễn ra hằng ngày, có tính truyền thống, nên các thẩm phán có cơ sở mạnh dạn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự liên quan. Đơn cử, chỉ tính trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình, thông qua Nghị định 32/2002/NĐ-CP, Chính phủ liệt kê ra 10 loại phong tục tập quán ở phụ lục A và trong nội dung cũng có rất nhiều quy định khẳng định về sự tôn trọng và phát huy phong tục tập quán hiện đang điều chỉnh quan hệ xã hội mà điều khoản đó điều chỉnh. Và số lượng tập quán được liệt kê trong phụ lục A cũng chỉ là con số rất nhỏ nhoi, bên cạnh đó, còn có rất nhiều tập quán trong nước điều chỉnh quan hệ dân sự, quan hệ thương mại cùng với nhiều tập quán thương mại quốc tế, tạo nên một cơ sở tập quán phong phú. Sự đa dạng, phong phú của tập quán trong nước và tập quán quốc tế là nguồn bổ trợ hữu hiệu để hoạt động xét xử dân sự của TAND không bị rơi vào tình trạng thiếu quy phạm điều chỉnh hành vi, đánh giá hành vi.

Thứ bảy, các tập quán thương mại quốc tế đã có vị trí tương đối ổn định trong hệ thống nguồn của pháp luật Việt Nam và ngày càng được hoàn thiện về nội dung chính là thuận lợi cho hoạt động áp dụng tập quán trong thương mại quốc tế và giải quyết tranh chấp liên quan.

Chúng ta đều biết, các tập quán thương mại quốc tế đã hình thành trong lịch sử. Trong mỗi giai đoạn phát triển của hoạt động giao lưu thương mại quốc tế, những tập quán này thường được bổ sung, hoàn thiện, làm hình thành nên nhiều phiên bản khác nhau, đáp ứng tốt hơn việc điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế.



Những giá trị pháp lý và giá trị xã hội của tập quán quốc tế chính là yếu tố tác động tích cực đến việc áp dụng tập quán quốc tế ở Việt Nam thời gian qua. Tập quán quốc tế thường được các bên trong quan hệ pháp lý quốc tế biết đến, thừa nhận và lựa chọn bởi nó khắc phục được sự thiếu hụt của hệ thống pháp luật quốc gia, các điều ước song phương, đa phương. Xu hướng hội nhập làm xuất hiện những quan hệ quốc tế mà pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế chưa trù liệu đến, hoặc đã trù liệu đến song không hợp lý. Đây chính là nguyên nhân góp phần làm cho hoạt động áp dụng tập quán thương mại ngày càng trở nên phổ biến, dễ thực hiện và đạt hiệu quả cao trong việc giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại.

Thứ tám, do những thành tựu trong hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học liên quan đến tập quán pháp. Thời gian vừa qua, các nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu về tập quán, tập quán pháp, tập quán quốc tế. Nhiều công trình khoa học sưu tầm về tập quán, luật tục đã được xuất bản. Nhiều công trình dịch thuật và giới thiệu về tập quán quốc tế trong các lĩnh vực (thương mại, vận tải, tài chính ngân hàng, hàng hải...) đã xuất hiện ở Việt Nam. Những hoạt động khoa học này có ý nghĩa to lớn về trước mắt và lâu dài cho việc nâng cao nhận thức về tập quán, đánh giá thực trạng áp dụng tập quán, đánh giá mức độ đi vào cuộc sống của pháp luật khi cho phép áp dụng tập quán, đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo tính khả thi, hiệu quả áp dụng tập quán trong hoạt động xét xử của TAND các cấp nói riêng, trong quản lý nhà nước nói chung.


tải về 1.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương