LUẬN Án tiến sĩ luật học hà NỘI 2014 h ọc viện chính trị quốc gia hồ chí minh nguyễn thị tuyết mai


Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



tải về 1.74 Mb.
trang8/13
Chuyển đổi dữ liệu14.06.2018
Kích1.74 Mb.
#39986
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


4.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Áp dụng tập quán làm nguồn bổ trợ cho pháp luật là giải pháp quan trọng trong giai đoạn mà hệ thống pháp luật thành văn chưa thực sự hoàn thiện. Ngay cả trong một hệ thống pháp luật hoàn thiện, áp dụng tập quán cũng sẽ làm cho hệ thống pháp luật thêm toàn diện và khả thi. Bởi vì, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật được đặt ở vị trí “thượng tôn“ chứ không phải là “độc tôn“ và vẫn phải sử dụng nhiều loại nguồn pháp luật khác trong đó có tập quán.

Để áp dụng tập quán trong giải quyết vụ, việc dân sự của TAND được hiệu quả, khoa học và bảo đảm pháp chế XHCN, cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, đồng thời, đảm bảo những quan điểm sau:

4.1.1. Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng tập quán

Đảm bảo pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Một trong những nội dung của nguyên tắc pháp chế XHCN là các cơ quan nhà nước phải thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, trong đó, Hiến pháp được đặt ở vị trí tối cao, mọi hành vi pháp lý không được trái Hiến pháp; pháp chế XHCN còn đòi hỏi pháp luật phải được hiểu và thực hiện một cách thống nhất trên phạm vi toàn quốc, tôn trọng tính đặc thù của địa phương nhưng các địa phương không được thực hiện những hoạt động mang tính biệt lệ, vô nguyên tắc. Đối với TAND, khi áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự, nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN đặt ra những yêu cầu cụ thể sau:

- Phải tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật: Quá trình áp dụng tập quán không được trái với những nguyên tắc cơ bản đã được nêu trong Hiến pháp. Trước hết, theo đúng quy định của Khoản 3 Điều 5 Hiến pháp 2013, “các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình”. Như vậy rõ ràng, những tập quán được áp dụng ở đây bắt buộc phải đảm bảo nguyên tắc Hiến định là tập quán tốt đẹp chứ không phải mọi loại tập quán. Bên cạnh đó, tập quán tốt đẹp để được áp dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể và để làm cho quan hệ xã hội đó trở thành quan hệ pháp luật thì phải phù hợp với những nguyên tắc được nêu trong các văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò là đạo luật gốc. Cụ thể, trong lĩnh vực dân sự thì phải đảm bảo nguyên tắc nêu trong Bộ luật dân sự; Trong lĩnh vực kinh doanh - thương mại phải phù hợp với Luật thương mại; Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì phải phù hợp với Luật tôn nhân và gia đình.

- Phải hiểu và áp dụng thống nhất những quy định của pháp luật khi áp dụng tập quán; hiểu thống nhất về tập quán. Chẳng hạn như, khi pháp luật cho phép áp dụng tập quán thì đương nhiên cơ quan có thẩm quyền sẽ được thực hiện quyền này. Nhưng đây cũng cần phải được hiểu là nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền. Nếu không có pháp luật mà có tập quán không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, ở vào các trường hợp được áp dụng tập quán thì không thể không áp dụng tập quán. Tập quán được viện dẫn phải là những tập quán có sự thống nhất về nội dung. Tức là, tập quán đó không phải là tất cả mọi người trong cộng đồng đều biết, nhưng nhất thiết phải là tập quán mà được những người biết về nó thống nhất về nội dung. Chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng tập quán thì phải áp dụng những tập quán đã được xác định là tồn tại và phải áp dụng theo cách hiểu thống nhất của cộng đồng. Việc đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật còn thể hiện ở khía cạnh, trong trường hợp án lệ được coi là nguồn của pháp luật thì pháp luật Việt Nam sẽ có ba loại nguồn là văn bản quy phạm pháp luật, tập quán và án lệ, khi đó, áp dụng án lệ hay áp dụng tập quán phải không được mâu thuẫn, chồng chéo và đảm bảo thứ tự ưu tiên trên cơ sở quy định pháp luật.

- Chỉ áp dụng tập quán khi ở vào những trường hợp pháp luật cho phép: Nghiên cứu những văn bản quy phạm pháp luật là nguồn cơ bản của các ngành luật chủ yếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho thấy, nguyên tắc áp dụng tập quán gần như chỉ được quy định cho việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội với nhau, trong đó không có chủ thể mang công quyền. Cụ thể, ngành luật Hình sự, luật Hành chính, luật Tố tụng Hình sự không hề có những văn bản cho phép áp dụng tập quán. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong trường hợp không có pháp luật cũng chỉ xuất hiện trong một số văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, gồm quan hệ dân sự, quan hệ kinh doanh - thương mại, quan hệ hôn nhân và gia đình. Trong Bộ luật Lao động không đề cập đến nguyên tắc này.

Như vậy, cần quán triệt quan điểm, dù hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn thiện, việc thiếu quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội là điều tồn tại trong mọi ngành luật, thì nguyên tắc áp dụng tập quán chỉ được quy định đối với một số ngành luật. Do đó, chỉ một số ngành luật được áp dụng tập quán, chứ không phải mọi ngành luật đều có thể sử dụng loại nguồn bổ trợ này.

Mặt khác, trong từng ngành luật cho phép áp dụng tập quán, không phải mọi quan hệ xã hội đều được áp dụng tập quán. Nguyên tắc cần đảm bảo ở đây là:

Thứ nhất, đối với các tập quán trong nước: Trong quan hệ hôn nhân và gia đình: Những phong tục, tập quán thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên tắc quy định tại Luật hôn nhân và gia đình thì được tôn trọng và phát huy. Ví dụ như việc thực hiện đám cưới, việc thực hiện các lễ trước và sau đám cưới (lễ dạm ngõ, lễ hỏi, lễ nạp tài, lễ lại mặt v.v..); Trong quan hệ dân sự và kinh doanh - thương mại: trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; tập quán không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật dân sự.

Thứ hai, đối với các tập quán quốc tế: Trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng tập quán thương mại quốc tế thì tập quán thương mại quốc tế được áp dụng; trường hợp các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài thoả thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế và tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng.

Sự chủ động, tích cực của TAND tối cao sẽ đảm bảo cho rất nhiều giải pháp đẩy mạnh áp dụng tập quán được khả thi. Chẳng hạn như chủ động tích cực để tập huấn về tập quán cho thẩm phán; chủ động, tích cực nghiên cứu về tập quán, tuyên truyền phổ biến về tập quán; chủ động tích cực kiến nghị và tham gia xây dựng, hoàn thiện pháp luật về áp dụng tập quán v.v..

Vai trò chủ động, tích cực của Tòa án còn thể hiện ở sự tích cực, chủ động của TAND cấp tỉnh, cấp huyện và các thẩm phán. Theo quy định hiện hành, tập quán là loại nguồn bổ trợ cho pháp luật thành văn. Nếu không có pháp luật thành văn thì có thể áp dụng tập quán. Tuy nhiên, việc áp dụng tập quán hiện nay không phải là sự bắt buộc cho mọi trường hợp. Do vậy, nếu chủ thể có thẩm quyền không áp dụng, thì không có chế tài cụ thể nào để xử lý. Đó cũng chính là lý do vì sao quan điểm áp dụng tập quán là phải phát huy vai trò chủ động, tích cực của TAND các cấp. Hiện nay, một trong những nguyên nhân khiến việc áp dụng tập quán chưa thực sự khả thi chính là do việc ngại áp dụng của các thẩm phán.

- Không tạo ra những biệt lệ, vô nguyên tắc khi áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự. Biệt lệ, vô nguyên tắc ở đây có thể là áp dụng tập quán trong những trường hợp không được áp dụng hoặc áp dụng những tập quán có nội dung không rõ ràng, không phù hợp, thậm chí, viện dẫn những cách xử lý mà thực tế không có tập quán. Để đảm bảo pháp chế XHCN, cần tránh những xu hướng này.



4.1.2. Áp dụng tập quán hướng đến việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Theo quan điểm của Đảng và trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật phải thực sự hoàn thiện. Do vậy, việc áp dụng tập quán ngoài mục đích bổ trợ cho pháp luật thì còn mang ý nghĩa là từ thực tiễn áp dụng, nhà nước sẽ lựa chọn những tập quán nào phù hợp với mục tiêu điều chỉnh các quan hệ xã hội của nhà nước đề nâng nó lên thành pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật trở nên hoàn thiện hơn. Đây vốn dĩ là cách làm truyền thống, ngay từ khi nhà nước mới được thành lập, giai cấp thống trị đã sử dụng phương pháp này để làm hình thành nên pháp luật bên cạnh việc ban hành những quy định mới. Đối với Việt Nam, cũng đã có trường hợp nhà nước thừa nhận tập quán, sau một thời gian áp dụng đã nâng lên thành pháp luật. Điều này không chỉ xảy ra trong các kiểu nhà nước trước đây mà còn cả trong nhà nước kiểu mới - Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, ví dụ như tập quán về hụi, họ, biêu, phường v.v..

Việc áp dụng tập quán hướng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, quan điểm này cần được quán triệt vì từ đây sẽ làm hoàn thiện hệ thống pháp luật theo các hướng:



Một là, sẽ hoàn thiện hệ thống nguồn của pháp luật, làm cho hệ thống pháp luật có nguồn “mở”, nguồn phong phú, đa dạng. Thực tế đã chứng mình, nguồn của pháp luật càng phong phú, đa dạng thì hệ thống pháp luật càng trở nên có tính toàn diện. Một hệ thống pháp luật có nguồn “đóng”, tức là chỉ dựa vào duy nhất nguồn văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ gây nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật do sự thiếu toàn diện của chính loại nguồn văn bản này. Ví dụ như đối với hoạt động xét xử hình sự, do nguồn “đóng”, chỉ thừa nhận duy nhất nguồn là Bộ luật Hình sự nên nhiều trường hợp phát sinh trên thực tế mà các cơ quan tiến hành tố tụng không thể thực thi pháp luật được [105]. Thừa nhận loại nguồn tập quán và áp dụng tập quán chính là một trong những giải pháp quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đảm bảo tính toàn diện cho hệ thống pháp luật.

Hai lภtừ việc áp dụng tập quán sẽ nâng những tập quán phù hợp và có tính phổ biến lên thành văn bản quy phạm pháp luật, bổ sung những quy phạm còn thiếu hụt trong hệ thống văn bản quy phạm.

Với ý nghĩa quan trọng đó, việc áp dụng tập quán cần thực hiện nghiêm túc, có tổng kết, rút kinh nghiệm và báo cáo cơ quan có thẩm quyền để có căn cứ đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần thành công cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.



4.1.3. Áp dụng tập quán trong nước trên cơ sở đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc, vùng, miền, cộng đồng

Như chúng ta đã biết, tập quán trong nước luôn gắn liền với các dân tộc, vùng miền, dòng họ, khu vực… Do vậy, khi áp dụng tập quán cần đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc. Có rất nhiều trường hợp pháp luật cho phép áp dụng tập quán có thể viện dẫn tới tập quán cộng đồng của nhiều chủ thể, mỗi chủ thể có những tập quán khác nhau. Trong trường hợp đó, tập quán nào được ưu tiên? Ví dụ như việc Bộ luật dân sự quy định con sinh ra khi cha, mẹ khác nhau về dân tộc thì dân tộc của con có thể chọn theo tập quán, giả sử tập quán của dân tộc người cha chỉ dẫn con phải mang dân tộc của cha, tập quán của dân tộc người mẹ chỉ dẫn con phải mang dân tộc người mẹ thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng tập quán của dân tộc nào? Ví dụ khác, trong giao dịch dân sự các bên thỏa thuận về đơn vị đo lường là một chục, người ở khu vực này cho rằng chục là 10 đơn vị, người ở khu vực khác lại cho rằng chục là 16 đơn vị, trong trường hợp đó phải áp dụng tập quán của khu vực nào? Chúng tôi cho rằng khi lựa chọn và áp dụng tập quán cần tránh việc phân biệt đối xử, mà phải thiết lập nguyên tắc đảm bảo công bằng, nếu không, sẽ xâm hại đến quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật, đồng thời có thể gây ra những chia rẽ trong cộng đồng dân cư.

4.1.4. Áp dụng tập quán nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ dân sự

Thông thường, trong quan hệ pháp luật, các bên luôn được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Tuy nhiên, đối với những quan hệ xã hội trong giao lưu dân sự mà pháp luật chưa điều chỉnh hoặc điều chỉnh không đầy đủ, quyền, lợi ích hợp pháp có thể chưa xác định được, thì bản thân các bên cũng luôn có quyền, có nghĩa vụ, có lợi ích chính đáng. Khi áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp dân sự, chủ thể có thẩm quyền phải lưu ý đảm bảo nguyên tắc này. Các tranh chấp dân sự suy cho cùng là tranh chấp về lợi ích, thông thường là lợi ích vật chất, cũng có thể có lợi ích tinh thần liên quan đến những giá trị nhân thân. Dù chưa có pháp luật điều chỉnh hay pháp luật chưa hoàn thiện, thì những nguyên tắc như bảo vệ giá trị đạo đức, trật tự công cộng, tính công bằng... vẫn luôn phải được tính đến. Do vậy, đối với hoạt động áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp dân sự, TAND phải quán triệt nguyên tắc bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các bên, vì điều đó cũng chính là bảo vệ giá trị đạo đức, bảo vệ trật tự công cộng, tôn trọng tính công bằng trong các quan hệ xã hội.

4.1.5. Áp dụng tập quán phải đảm sự tôn trọng, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức, quốc gia

Không chỉ bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các bên trong quan hệ pháp luật có áp dụng tập quán, mà việc áp dụng tập quán còn phải tôn trọng, bảo vệ lợi ích của cộng đồng, của quốc gia và của các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội. Một quy phạm tập quán tồn tại trong xã hội có thể có lợi cho cá nhân, cộng đồng, nhóm xã hội này nhưng không có lợi cho cá nhân, cộng đồng, nhóm xã hội khác. Thậm chí, một tập quán quốc tế có thể không có lợi cho một quốc gia trong một quan hệ pháp luật cụ thể. Ở vào những trường hợp trên, việc áp dụng tập quán phải được cân nhắc.



Quán triệt nguyên tắc này cũng chính là góp phần xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã đưa ra những cam kết hiến định trong Hiến pháp năm 2013 như: đối với các cá nhân, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ; trong mối quan hệ với các quốc gia khác, Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi.

4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



Từ việc phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng, phù hợp với những quan điểm nêu trên, chúng tôi cho rằng, việc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam không loại trừ khả năng áp dụng tập quán trong điều chỉnh các quan hệ pháp lý dân sự.

Để đảm bảo áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự của TAND cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ và khả thi. Các giải pháp này phải giải quyết được những nguyên nhân bất cập trong việc áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự ở Việt Nam, đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ dân sự cũng như của cả xã hội, bảo đảm tính hợp lý, sự công bằng, hiệu quả, linh hoạt mà hợp hiến trong hoạt động của cơ quan TAND.

Công trình này đề xuất các nhóm sau:



  • Nhóm giải pháp về lý luận;

  • Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật;

  • Nhóm giải pháp về công tác báo cáo, thống kê, tập hợp tập quán phục vụ hoạt động giải quyết vụ việc dân sự;

  • Nhóm giải pháp nâng cao năng lực và nhận thức của người có thẩm quyền và của nhân dân trong áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự;

  • Nhóm giải pháp về quy trình, thủ tục pháp lý trong hoạt động tố tụng.

4.2.1. Nhóm giải pháp về lý luận

Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc TAND áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ việc dân sự có thể khẳng định, những hạn chế từ lý luận về tập quán là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn trong việc hoàn thiện quy định pháp luật về tập quán và nhiều vướng mắc khi áp dụng tập quán trong thực tiễn hoạt động giải quyết các vụ, việc dân sự.

Để khắc phục hạn chế này, từ góc độ lý luận, cần tiếp tục nghiên cứu về tập quán từ nhiều cấp độ, khía cạnh như sau:



Thứ nhất, các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý, TAND tối cao cùng với các nhà khoa học tâm huyết với vấn đề này cần đẩy mạnh nghiên cứu làm rõ ba khái niệm: tập quán, tập quán trong nước, tập quán quốc tế

- Đối với tập quán trong nước:

Cần xây dựng khái niệm này thành khái niệm pháp lý, trình bày trong một đạo luật. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về tập quán và những khái niệm tương đồng hoặc có ý nghĩa, vai trò tương tự tập quán, ví dụ như luật tục, hương ước, phong tục, thông lệ... Điều quan trọng là, nếu pháp luật của một quốc gia cho phép tập quán được áp dụng như pháp luật trong một số trường hợp, thì nhất thiết phải làm cho khái niệm này trở nên đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu và đồng bộ trong hệ thống pháp luật.



Để thực hiện được công việc này, trước hết đòi hỏi phải có sự nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ văn hóa và ngôn ngữ. Vì mặc dù trong các loại từ điển Tiếng Việt đều có đưa ra định nghĩa về tập quán, song những định nghĩa này không đồng nhất với nhau. Hơn nữa, từ góc độ khoa học về văn hóa, mỗi công trình nghiên cứu về tập quán lại có những quan niệm khác nhau về vấn đề này. Cần làm cho khái niệm tập quán từ góc độ ngôn ngữ và góc độ văn hóa trở nên gần gũi với nhau hơn. Trên cơ sở khái niệm tập quán từ góc độ ngôn ngữ (nêu trong Từ điển tiếng Việt), cần nghiên cứu để phân biệt nó với những vấn đề liên quan như phong tục, luật tục, hương ước, lệ làng, tập tục v.v.. Dựa vào những nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa, đơn vị có chức năng nghiên cứu của Bộ Tư pháp hoặc TAND tối cao sẽ thực hiện những công trình nghiên cứu khoa học chuyên đề lý luận về tập quán làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng khái niệm tập quán, phong tục, thói quen, thông lệ v.v.. trong Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình và Luật thương mại.

- Đối với tập quán quốc tế:

Tương tự như đối với tập quán trong nước, cần luật hóa thuật ngữ tập quán quốc tế. Trên cơ sở chỉ rõ khái niệm tập quán quốc tế, cần nghiên cứu để phân biệt tập quán quốc tế với tập quán quốc gia (tập quán trong nước). Trước hết, phải thống nhất về mặt ngôn ngữ cách sử dụng những thuật ngữ này, ví dụ, nếu sử dụng ngôn ngữ tập quán thì có nghĩa chỉ là tập quán trong nước, còn nếu không phải là tập quán trong nước thì phải sử dụng ngôn ngữ là tập quán quốc tế để tránh nhầm lẫn. Trên thực tế, hiện nay trong Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Bộ luật hàng hải và nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam đã có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ này nhưng đang dừng ở cấp độ mặc định, chưa có quy định chính thức, rõ ràng.

Ngoài ra, cần làm rõ nội hàm của thuật ngữ tập quán quốc tế, phân biệt tập quán quốc tế với thông lệ quốc tế, thói quen trong giao lưu thương mại quốc tế v.v.. Các khái niệm liên quan đến tập quán quốc tế nêu trên cũng phải được thể chế hóa trong các đạo luật như Bộ luật dân sự, Luật thương mại v.v..

Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về tập quán trong nước và tiến hành tập hợp tập quán trong nước trong các văn bản pháp quy để làm cơ sở áp dụng giải quyết các vụ việc dân sự

Lý luận về tập quán trong nước ở nước ta hiện nay không phải là ít. Tập hợp tập quán ở Việt Nam hiện nay cũng rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu nghiên cứu từ góc độ văn hóa, ví dụ như các công trình nghiên cứu văn hóa dân gian, tập hợp luật tục với vai trò là một loại di sản văn hóa v.v.. Các công trình nghiên cứu từ góc độ luật học mặc dù đã có nhưng còn manh mún, riêng rẽ, chưa có công trình mang tính hệ thống, toàn diện về lý luận. Do vậy, nếu tiếp cận từ góc độ luật học thì các lý luận nghiên cứu từ lĩnh vực chuyên ngành khác chỉ hỗ trợ nghiên cứu chứ chưa đủ thông tin khoa học để góp phần hoàn thiện lý thuyết và thực tiễn pháp lý về áp dụng tập quán. Đặc biệt, các công trình sưu tập về tập quán, luật tục... cũng chỉ mang tính chất tham khảo. Các cơ quan có thẩm quyền không thể căn cứ vào một cuốn sách đã được xuất bản hay một công trình nghiên cứu có giới thiệu tập quán để lấy tập quán đó ra áp dụng trong xét xử dân sự.



Do vậy, từ góc độ khoa học pháp lý, cần tiến hành những nghiên cứu công phu, nghiêm túc, toàn diện và có tính hệ thống về tập quán với vai trò một loại nguồn của pháp luật làm cơ sở xây dựng các giáo trình, sách chuyên khảo về áp dụng tập quán trong xét xử dân sự. Đồng thời thực hiện việc tập hợp chúng theo những cách thức có đảm bảo về mặt thực tiễn và pháp lý (ví dụ như Bộ Tư pháp khảo sát, tập hợp và cung cấp cho Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định hoặc phối hợp với TAND tối cao ban hành thông tư liên tịch v.v..), sắp xếp theo tập quán vùng, miền, dân tộc v.v.. để các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền dễ tra cứu, áp dụng khi cần thiết.

Thứ ba, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về tập quán quốc tế và tập hợp tập quán quốc tế làm cơ sở áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự

Hiện nay, đây là mảng trống trong khoa học pháp lý Việt Nam. Chúng ta thiếu những nghiên cứu mang tính quy mô và chuẩn mực về tập quán quốc tế, đặc biệt, những kiến thức khoa học về tập quán quốc tế cần thiết trang bị cho các luật gia, luật sư tương lai chưa được chú trọng trong các cơ sở đào tạo luật học. Cụ thể, hiện nay chưa có một môn học chuyên sâu về tập quán quốc tế, mà các cơ sở đào tạo pháp luật chỉ chú trọng vào hệ thống pháp luật quốc gia hoặc các điều ước quốc tế. Tập quán quốc tế nếu có được nhắc đến cũng chỉ rất sơ sài trong một số giáo trình về Luật thương mại, Giáo trình Luật Quốc tế (Luật công pháp quốc tế và Luật tư pháp quốc tế)... Điều này dẫn đến thực trạng là nhiều người trong đội ngũ thẩm phán của Việt Nam không có được sự am hiểu sâu sắc về tập quán quốc tế nói chung, tập quán thương mại quốc tế nói riêng và dẫn đến ít áp dụng chúng trong giải quyết vụ, việc dân sự.

Cần thực hiện nhiều nghiên cứu chuyên sâu về sự ra đời, quá trình hình thành tập quán quốc tế, nội dung của tập quán quốc tế, đối tượng điều chỉnh của tập quán, các phiên bản mới, cập nhật của tập quán quốc tế trong từng lĩnh vực cụ thể. Việc này trước hết cần được thực hiện từ chính các cơ sở đào tạo ra những người sẽ làm công tác xét xử, giải quyết tranh chấp trong tương lai, đó là các cơ sở đào tạo về pháp luật như Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Tư pháp v.v.. Tại các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý cần có môn học về tập quán quốc tế với vai trò nguồn của pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp và các Trường đại học đào tạo về pháp luật cần chú trọng thực hiện các công trình nghiên cứu về tập quán với vai trò nguồn của pháp luật. Việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở cấp độ khẳng định vai trò nguồn bổ trợ của tập quán, mà còn phải nghiên cứu về cách hình thành, nội dung, những ưu điểm và hạn chế thường gặp khi áp dụng các loại tập quán v.v..



4.2.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật

Do cơ sở pháp lý chưa thực sự hoàn thiện, đồng bộ và khả thi, TAND hiện gặp nhiều trở ngại trong việc áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự. Để tháo gỡ trở ngại này, việc hoàn thiện các quy định pháp luật là điều cần thiết, cụ thể:

Một là, hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về áp dụng tập quán.

Đối với Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2005, khi đưa ra nguyên tắc áp dụng tập quán đã khắc phục được hạn chế so với Bộ luật dân sự năm 1995, đó là chỉ áp dụng trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận; và nếu không có tập quán thì mới áp dụng quy định tương tự của pháp luật. Tập quán (…) không được trái với những nguyên tắc quy định trong Bộ luật dân sự. Điều 3 với quy định như vậy là tương đối hoàn thiện. Song, để đảm bảo tính hệ thống, phù hợp với quy định trong những đạo luật khác như Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình thì phải ghi rõ, tập quán ở đây là tập quán trong nước hay tập quán nói chung, nếu không, sẽ dễ gây nhầm lẫn là tập quán, tức là bao hàm cả tập quán trong nước và tập quán quốc tế. Về vấn đề này, cách quy định như Luật thương mại đảm bảo tính chính xác và rõ ràng hơn, Luật thương mại đã phân định tập quán và tập quán thương mại quốc tế.

Vấn đề thứ hai cần lưu ý khi sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2005 là không nên quy định mang tính “mềm dẻo” là có thể áp dụng tập quán, mà phải quy định mang tính pháp lý, thể hiện sự khẳng định, đó là thì áp dụng tập quán. Từ “có thể” không phải là một từ phù hợp cho bộ phận quy định của quy phạm pháp luật. Vì Bộ luật dân sự dùng từ “có thể” tại Điều 3 nên việc TAND không áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật cho phép cũng không phải là vi phạm pháp luật.

Hiện nay, dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi khi sửa lại Điều 3 vẫn tiếp tục sử dụng từ có thể. Nhà làm luật nên cân nhắc, không nên quy định như vậy, mà nên quy định mang tính mệnh lệnh, dứt khoát hơn.

Ngoài Điều 3, trong Bộ luật dân sự năm 2005 có nhiều điều khoản cho phép áp dụng tập quán vẫn còn chưa rõ ràng và khó thực hiện. Cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định này, cụ thể:

- Điều 28 Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền xác định dân tộc cho cá nhân khi cá nhân được sinh ra: trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Quy định này dẫn đến khó áp dụng ở chỗ, không cho biết tập quán hay thỏa thuận của cha mẹ có giá trị ưu tiên hơn. Ví dụ khi cha mẹ không thỏa thuận được thì đương nhiên áp dụng tập quán. Nhưng nếu cha mẹ thỏa thuận được mà thỏa thuận này lại khác với tập quán thì áp dụng tập quán hay theo thỏa thuận của cha, mẹ ?

Về nguyên tắc, thỏa thuận của cha mẹ cần được ưu tiên thực hiện. Do đó, Điều luật này nên sửa lại theo hướng: trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha mẹ; trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ không có thỏa thuận thì áp dụng theo tập quán. Trường hợp xung đột về tập quán thì dân tộc của người con xác định theo dân tộc của người mà người con mang họ.

- Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005 về xác lập quyền sở hữu chung xác định: Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán. Tương tự như Điều 28, Điều 215 cần sửa lại theo hướng làm rõ thứ tự ưu tiên, vì cách quy định như Điều 215 không làm rõ thứ tự ưu tiên khi áp dụng.

Cụ thể, phải sửa đổi lại là: Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu; nếu cách chủ sở hữu không thỏa thuận thì áp dụng theo quy định của pháp luật; nếu pháp luật không quy định thì áp dụng tập quán.

- Điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005 tại Khoản 2 quy định: «Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán, vì lợi ích của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội». Điều này cũng cần sửa lại cho rõ hơn thứ tự ưu tiên áp dụng, vì nếu quy định theo thỏa thuận hoặc theo tập quán thì hai giả thiết này có trọng số ngang nhau, trong khi đó, tinh thần của Bộ luật dân sự nói chung là ưu tiên áp dụng thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận mới áp dụng tập quán.

Do vậy, quy định này sửa lại như sau: Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung vì lợi ích của cộng đồng theo thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì theo tập quán. Thỏa thuận và tập quán không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.

- Điều 265 Bộ luật dân sự năm 2005 về việc xác lập ranh giới giữa các bất động sản quy định: Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thoả thuận của các chủ sở hữu hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đó tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp.

Quy định này cũng cần phải được sửa lại theo hướng bỏ những từ «hoặc» trong các đoạn trên. Theo đó, phải ghi rõ trong các khả năng đặt ra, thứ tự ưu tiên của từng khả năng là gì ? Nếu không có khả năng thứ nhất thì phải áp dụng khả năng thứ hai. Tương tự như vậy cho bốn khả năng mà Điều luật trên đã quy định.



Hai là, hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực Hôn nhân và Gia đình.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 19/6/2014. Luật này cơ bản khắc phục được những hạn chế trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trước hết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đưa ra định nghĩa về tập quán về hôn nhân và gia đình. Đây là văn bản luật đầu tiên có định nghĩa về thuật ngữ này, khắc phục được khoảng trống pháp lý trong các đạo luật như Bộ luật dân sự, Luật thương mại. Theo đó, tại khoản 4 Điều 3 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tập quán về hôn nhân và gia đình được hiểu là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng. Quy định này có thể coi như kinh nghiệm cho việc hoàn thiện Bộ luật dân sự và Luật thương mại thời gian tới.

Về nguyên tắc áp dụng tập quán, Điều 7 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng”. Điều 7 Luật hôn nhân và gia đình tạo sự chặt chẽ khi khẳng định tập quán sẽ được áp dụng nếu pháp luật không quy định, các bên không có thỏa thuận. Điều kiện áp dụng phải là tập quán tốt đẹp, không trái Điều 2 của Luật và không vi phạm điều cấm của Luật. Các thẩm phán khi áp dụng sẽ dễ dàng hơn vì các điều kiện nêu trong Điều 7 của Luật rất cụ thể. Đồng thời, Điều luật này coi áp dụng tập quán như một quyền của chủ thể có thẩm quyền (được áp dụng), chứ không đơn thuần là một khả năng khi thực hiện pháp luật tố tụng (có thể áp dụng).

Để đảm bảo nguyên tắc trên được khả thi, nhanh chóng đi vào cuộc sống thì Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định quy định chi tiết. Khi ban hành quy định chi tiết, Chính phủ cần nghiên cứu để khắc phục những hạn chế của Nghị định 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số. Nghị định này đã đưa ra được 2 phụ lục, phụ lục A quy định những tập quán được khuyến khích phát huy và phụ lục B quy định những phong tục tập quán nghiêm cấm áp dụng hoặc vận động xóa bỏ. Tuy vậy, Nghị định 32/2002/NĐ-CP với cách quy định như hiện nay có thể gây hiểm lầm là chỉ có những tập quán được nêu trong Nghị định mới tồn tại và mới được khuyến khích phát huy; nghiêm cấp áp dụng hoặc vận động xóa bỏ. Nghị định mới phải cho thấy được những tập quán nêu trong phụ lục chỉ là một số tập quán, chứ không phải là tất cả.

Hạn chế thứ hai của Nghị định 32/2002/NĐ-CP là các tập quán mà nó nêu ra trong phụ lục còn quá sơ sài (10 tập quán khuyến khích phát huy; 14 tập quán nghiêm cấm áp dụng hoặc vận động xóa bỏ). Nghị định mới cần phải bổ sung để làm phong phú thêm, đầy đủ hơn.



Ngoài ra, việc hoàn thiện quy định về áp dụng tập quán trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình còn đòi hỏi phải rà soát những quy định liên quan đến áp dụng phong tục, tập quán đã lạc hậu để kịp thời điều chỉnh, ban hành mới. Chẳng hạn như đối với một trong những tranh chấp khá phổ biến có sự giao thoa về việc điều chỉnh của cả pháp luật và tập quán là tranh chấp đòi lại sính lễ dẫn cưới, của hồi môn…, trước đây, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã từng hướng dẫn tại Mục 3 Nghị quyết số 01 ngày 20-1-1988 (hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986). Tuy nhiên, hiện nay hướng dẫn này đã lạc hậu và không còn được áp dụng bởi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã hết hiệu lực. Trong khi đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 hiện hành lại không có hướng dẫn mới, dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất khi xét xử. Có tòa chấp nhận yêu cầu của nhà trai, buộc nhà gái phải trả lại toàn bộ lễ vật. Có tòa thì xét đến yếu tố lỗi của các bên để chấp nhận hay bác bỏ. Cần có hướng dẫn mới để chấm dứt tình trạng này.

Ba là, hoàn thiện các quy định của Luật thương mại năm 2005. Khác với Bộ luật dân sự và Luật hôn nhân và gia đình, Luật thương mại năm 2005 đã đưa ra được quy định giải thích các thuật ngữ mà nó sử dụng gồm Thói quen trong hoạt động thương mại; Tập quán thương mại, phân biệt giữa hai vấn đề này. Đây là ưu điểm so với các văn bản khác, nhưng cũng chính từ quy định này bộc lộ những bất cập về sự chưa hoàn toàn chính xác trong nội dung định nghĩa tập quán thương mại; đồng thời, định nghĩa này có sự khác biệt so với khái niệm tập quán nêu trong Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP, Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP. Do vậy, để giải quyết việc thiếu thống nhất về khái niệm tập quán và những khái niệm liên quan, cần sửa đổi quy định của Luật thương mại nêu trong khoản 4 Điều 3. Việc sửa đổi này phải phù hợp với quy định trong Bộ luật dân sự, coi đây là đạo luật gốc. Đồng thời, cần phân biệt rõ trong Luật thương mại các nhóm tập quán: tập quán trong nước, tập quán quốc tế.

Hơn nữa, quy định về áp dụng tập quán tại Điều 5 và Điều 13 của Luật thương mại rõ ràng đã phân biệt tập quán với tập quán thương mại quốc tế. Do vậy, khi sửa đổi, bổ sung Luật thương mại cần xem xét để đảm bảo sự đồng bộ giữa hai Điều luật này.

Bốn là, hoàn thiện quy định trong khoản 7 Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) về nguồn của chứng cứ. Điều khoản này quy định coi tập quán là nguồn của chứng cứ. Để đảm bảo tính đồng bộ, cần làm rõ thêm cách hiểu tập quán phải trên cơ sở pháp lý nào. Nếu sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự năm 2005 đưa ra được định nghĩa tập quán thì tại khoản 7 Điều 82 chỉ dẫn giải thích tập quán tại Bộ luật dân sự. Ngoài ra, phải có quy định chi tiết hơn để thực hiện khoản 7 Điều 82. Trong tài liệu tập huấn hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung) của TAND tối cao - Chương trình đối tác tư pháp, tại phần tập huấn về Chứng cứ và chứng minh trong Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, tài liệu có nêu rõ:

Đối với một tập quán muốn trở thành chứng cứ trong một vụ án cụ thể thì Thẩm phán phải yêu cầu đương sự trình bày rõ nguồn gốc của tập quán đó và chứng minh tập quán đó bằng cách ghi nhận nó bằng văn bản thể hiện việc cả cộng đồng dân cư nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo... Văn bản này có thể là bản xác nhận của cộng đồng nơi có tập quán đó và chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn về chữ ký của những người xác nhận và có thể có cả ý kiến của UBND về tập quán đó. Nếu không chứng minh được tính quy ước chung của cộng đồng trong cái gọi là "tập quán" thì nó sẽ không có giá trị chứng cứ [74, tr.6].

Nội dung trên chỉ là tài liệu tập huấn chứ không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên về mặt nguyên tắc không có giá trị ràng buộc. Tuy nhiên cũng qua tài liệu này cho thấy sẽ rất khó khăn cho đương sự khi phải chứng minh về một tập quán - nếu không muốn nói là không khả thi - và bản thân các thẩm phán cũng sẽ rất e ngại khi sử dụng chứng cứ đó. Vì làm sao có thể có được một văn bản thể hiện cả cộng đồng dân cư đồng ý, có xác nhận của công đồng dân cư? Ai được đại diện cộng đồng dân cư xác nhận? Ngoài ra còn phải có ý kiến của UBND, có chứng thực của UBND. Từ đây có thể thấy quy định này khi chỉ dừng lại ở cơ sở pháp lý như trên là không thể thực hiện được.

Năm là, bổ sung quy định chủ thể có thẩm quyền giải thích tập quán trong Bộ luật tố tụng dân sự. Vấn đề này hiện đang là khoảng trống trong pháp luật Việt Nam. Vấn đề cần làm rõ ở đây là, khi có tình huống nảy sinh cần áp dụng tập quán mà bản thân người áp dụng chưa thực sự thấu hiểu nội dung tập quán hay chưa xác định rõ là có hay không có tập quán trong thực tế thì chủ thể nào có thẩm quyền giải thích để giải thích này mang giá trị pháp lý? Việc quy định chủ thể có thẩm quyền giải thích tập quán là vấn đề hết sức cần thiết nhằm giúp cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng tập quán có thể mạnh dạn hơn khi thực hiện quyền của mình.

Để giải quyết vấn đề này, nên đưa ra những quy định trên cơ sở tham khảo quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Ví dụ, nguyên đơn hoặc bị đơn đưa ra một yêu cầu thì họ sẽ phải chứng minh cho yêu cầu đó; tương tự, một đương sự phản đối một yêu cầu tất nhiên cũng phải chứng minh là sự phản đối này có căn cứ. Giả sử đương sự đưa ra chứng cứ có nguồn từ tập quán thì đương nhiên đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh được sự tồn tại có thật, nội dung rõ ràng của tập quán. Khi đương sự gặp khó khăn trong việc chứng minh thì có thể yêu cầu TAND trên cơ sở thẩm quyền của mình thu thập chứng cứ.

Sáu là, sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức TAND, bổ sung thêm nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của TAND là: “Không được từ chối giải quyết đối với những vụ việc không thuộc thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước khác hoặc chưa được Nhà nước trao quyền cho các tổ chức khác".

Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam trong chế định về TAND đã không đưa ra nguyên tắc cấm từ chối xét xử. Song khi sửa đổi Luật Tổ chức TAND hiện hành để phù hợp với Hiến pháp thì cần thiết bổ sung nguyên tắc này, vì quy định này sẽ giúp cho người dân khi có tranh chấp mà pháp luật chưa quy định do các cơ quan Nhà nước giải quyết hoặc do các tổ chức được Nhà nước trao quyền giải quyết, thì đương nhiên sẽ có TAND giải quyết. Và nếu TAND không có cơ sở pháp luật để thụ lý, giải quyết thì sẽ căn cứ vào tập quán để giải quyết.

Bảy là, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn chi tiết về áp dụng tập quán trong lĩnh vực dân sự.

- Ban hành mới các Nghị định kèm danh mục các tập quán được phép áp dụng trong các lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình:



Cụ thể, từ những quy định cho phép áp dụng tập quán trong Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Bộ luật hàng hải, Pháp lệnh ngoại hối, Luật Chuyển giao công nghệ v.v.. rà soát, tập hợp các tập quán có nội dung điều chỉnh phù hợp với các quy định pháp luật nói trên và nhóm thành từng nhóm tập quán để ban hành trong các Nghị định, tạo cơ sở cho việc áp dụng chúng. Chẳng hạn như:

Trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa hẹp: Ví dụ thứ nhất, tại Điều 28 Bộ luật dân sự năm 2005 về quyền xác định dân tộc cho cá nhân khi cá nhân được sinh ra: trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ. Để áp dụng được quy định này, cần rà soát trong 54 dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại tập quán xác định dân tộc cho con như thế nào. Ví dụ thứ hai, tại Điều 265 Bộ luật dân sự năm 2005 về việc xác lập ranh giới giữa các bất động sản quy định: Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đó tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp. Để áp dụng được quy định này, cần rà soát và tập hợp tập quán của các dân tộc, vùng, miền về tập quán xác định ranh giới đất. Ví dụ thứ ba: Tại khoản 4 Điều 625 Bộ luật dân sự quy định «Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội ». Nếu chỉ dừng ở quy định như thế này trong Bộ luật dân sự thì các thẩm phán không thể áp dụng được vì quy định thiếu rõ ràng. Cần hướng dẫn chi tiết như thế nào là trái đạo đức xã hội. Điều cần thiết là phải xác định được những khu vực thả rông gia súc theo tập quán, xác định các tập quán bồi thường hiện đang tồn tại, ban hành thành dành mục các tập quán được áp dụng và tập quán không được áp dụng v.v..

Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: Ngoài việc sửa đổi, bổ sung hệ thống tập quán nêu tại Nghị định 32/2002/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Tư pháp cần kiến nghị sự hỗ trợ từ phía cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở các nước, tập hợp các tập quán quốc tế trong quan hệ hôn nhân và gia đình theo từng quốc gia, từng khu vực mà công dân Việt Nam thường có quan hệ hôn nhân. Có thực hiện điều này thì quy định tại Điều 121 Luật hôn nhân và gia đình 2014 mới khả thi.

Trong lĩnh vực thương mại nói chung và các hoạt động thương mại đặc thù nói riêng: Tại Điều 235 của Luật thương mại năm 2005 quy định: Khi thực hiện việc vận chuyển hàng hóa, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải tuân thủ các quy định của pháp luật và tập quán vận tải. Như vậy, để thực hiện được điều này, điều cần thiết là phải hệ thống hóa được các tập quán vận tải quốc tế và tập quán vận tải vùng, miền mà Việt Nam thường thiết lập quan hệ pháp luật. Tương tự, để đảm bảo tính khả thi cho Điều 4 của Bộ luật hàng hải năm 2005, cần tập hợp và phổ biến tập quán hàng hải quốc tế. Tính khả thi của Điều 4 Luật chuyển giao công nghệ năm 2006 không thể có được nếu không nắm được hệ thống tập quán quốc tế về chuyển giao công nghệ. Đồng thời, cần tập hợp các tập quán quốc tế trong hoạt động ngoại hối để quy định của Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) về cho phép áp dụng tập quán đảm bảo thực hiện. Sở dĩ việc tập hợp tập quán phải được thực hiện một cách khoa học và chính xác vì đối với các tập quán quốc tế về thương mại, khi áp dụng các bên cần phải chứng minh nội dung. Đồng thời, cần thiết phải tiến hành phân loại tập quán quốc tế khi áp dụng vì nếu có tập quán chung và tập quán riêng thì tập quán riêng có giá trị ưu tiên.

Tám là, sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND để ghi nhận quy định: Thẩm phán có nghĩa vụ áp dụng tập quán khi xét xử trong trường hợp pháp luật cho phép áp dụng và tồn tại tập quán không trái với những nguyên tắc do pháp luật quy định. Quy định này kết hợp với quy định về nguyên tắc cấm từ chối xét xử được quy định cho TAND trong Luật tổ chức TAND sẽ đảm bảo cho việc áp dụng tập quán của Thẩm phán trong trường hợp không có văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xét xử.

Đồng thời, liên quan đến các quy định về nhiệm kỳ bổ nhiệm thẩm phán và điều kiện tái bổ nhiệm, chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành để góp phần đảm bảo thẩm phán thực sự độc lập trong xét xử và chỉ tuân theo pháp luật. Trước hết, việc bổ nhiệm thẩm phán nên là suốt đời như những ngạch công chức khác. Nếu trong quá trình hoạt động nghề nghiệp thẩm phán có vi phạm pháp luật thì tùy thuộc vào từng vi phạm cụ thể mà xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ, công chức kết hợp với các quy định chuyên ngành theo những hình thức như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc. Nếu có được quy định này, chắc chắn các thẩm phán sẽ mạnh dạn hơn trong áp dụng tập quán vì không bị chi phối bởi tiêu chí không được để án mình xét xử bị hủy vì lỗi chủ quan quá 1,16% như quy định hiện hành.

Chín là, tiếp tục nghiên cứu và nâng các quy phạm tập quán trong lĩnh vực dân sự thành quy phạm pháp luật. Mục tiêu xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN chính là định hướng để chúng ta nỗ lực làm cho hệ thống pháp luật trở nên hoàn thiện hơn. Bên cạnh việc cho phép áp dụng tập quán, các nhà lập pháp, lập quy cũng cần thiết phải nghiên cứu để văn bản quy phạm pháp luật hóa các tập quán. Thời gian qua, chúng ta đã thực hiện việc này nhưng chưa phải là phổ biến, chẳng hạn như Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 để quy định về hình thức hụi, họ, biêu, phường. Đây là sự cụ thể hóa Điều 479 của Bộ luật dân sự năm 2005. Nếu tập quán phù hợp được nâng lên thành văn bản quy phạm pháp luật, chắc chắn khoảng trống pháp lý sẽ được giảm dần và hệ thống pháp luật sẽ ngày càng hoàn thiện, khả thi và thực tiễn hơn.

Mười là, tăng cường hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của TAND tối cao để giải thích, hướng dẫn áp dụng tập quán. Thời gian qua, hoạt động này đã được TAND tối cao chú trọng thực hiện. Thông qua những văn bản quy phạm pháp luật TAND tối cao ban hành, vấn đề áp dụng tập quán trong xét xử dân sự đã trở nên rõ ràng, chi tiết và khả thi hơn, khắc phục tình trạng quy định chung chung trong các đạo luật. Tuy nhiên, vì các quy định cho phép áp dụng tập quán trong lĩnh vực dân sự tồn tại trong rất nhiều đạo luật và các trường hợp có thể áp dụng tập quán ngày càng trở nên phong phú, nên TAND tối cao cần tiếp tục ban hành những văn bản có tính pháp lý về việc áp dụng tập quán để TAND các cấp thực hiện. Việc này phải thực hiện bằng hình thức ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như Thông tư của Chánh án TAND tối cao, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, Thông tư liên tịch của TAND tối cao với các chủ thể có thẩm quyền như Bộ trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

4.2.3. Nhóm giải pháp về công tác báo cáo, thống kê, tập hợp tập quán phục vụ hoạt động giải quyết vụ việc dân sự

Thứ nhất, TAND tối cao cần yêu cầu TAND các cấp thực hiện việc báo cáo, thống kê về tình trạng thụ lý hàng năm, trong đó có báo cáo chi tiết về những vụ việc người dân yêu cầu nhưng không thụ lý giải quyết do thiếu cơ sở pháp lý. TAND tối cao dựa trên những báo cáo này để thống kê số liệu cụ thể và nội dung của những vụ việc không được thụ lý. Quá trình này sẽ giúp TAND tối cao phát hiện, ghi nhận được những yêu cầu nảy sinh trên thực tiễn mà pháp luật chưa trù liệu đến để lấy làm cơ sở hướng dẫn cho TAND các cấp áp dụng tập quán, đồng thời kiến nghị bổ sung, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, trong thời điểm mà các Nghị định về ban hành danh mục các tập quán trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh - thương mại chưa được ban hành, để có căn cứ áp dụng tập quán một cách thống nhất mà vẫn đảm bảo không bị hành chính hóa, TAND tối cao yêu cầu TAND các cấp tập hợp tập quán, luật tục để TAND tối cao tổng hợp, phổ biến theo từng nhóm, cho từng lĩnh vực, từng vùng miền, cụ thể:

+ Nhóm tập quán, luật tục khuyến khích phát huy;

+ Nhóm tập quán, luật tục nghiêm cấm áp dụng;

+ Nhóm tập quán, luật tục vận động xóa bỏ.



Việc tổng hợp, phổ biến này chỉ mang tính chất ràng buộc trong hệ thống TAND và trong trường hợp chưa có các Nghị định hướng dẫn chi tiết các quy định cho phép áp dụng tập quán. Điều này góp phần làm cho từng quy định trong các đạo luật trở nên khả thi ngay từ khi đạo luật đó vừa mới bắt đầu có hiệu lực.

4.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực, nhận thức của người có thẩm quyền và của nhân dân trong áp dụng tập quán để giải quyết các vụ việc dân sự

Thứ nhất, nâng cao năng lực người có thẩm quyền áp dụng tập quán ở đây chủ yếu là những người thực hiện hoạt động tố tụng dân sự, kiểm sát hoạt động tố tụng dân sự và trong một số trường hợp là những người thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Nhóm giải pháp cụ thể này hướng tới việc nâng cao năng lực cho Thẩm phán TAND, Hội thẩm nhân dân và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.

Thẩm phán TAND, Hội thẩm nhân dân phải nhận thức được quyền đồng thời là nghĩa vụ khi áp dụng tập quán. Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cần nhận thức được tính hợp pháp, hợp hiến của việc áp dụng tập quán trên cơ sở pháp luật. Các chủ thể này không những phải am hiểu về pháp luật mà còn phải có kiến thức sâu sắc về văn hóa và đủ bản lĩnh để mạnh dạn áp dụng tập quán khi có căn cứ cho rằng thiếu pháp luật thành văn để giải quyết các tình huống pháp lý nẩy sinh. Với kiến thức sâu rộng về pháp luật và văn hóa, người có thẩm quyền sẽ có cách đánh giá khách quan, khoa học về sự tồn tại, nội dung của tập quán. Đồng thời, họ phải quán triệt sâu sắc rằng, dù Nhà nước có cố gắng liệt kê thì cũng sẽ không bao giờ liệt kê hết các tập quán, do vậy, khi áp dụng tập quán, không phải chỉ là áp dụng những tập quán nằm trong danh mục đã được ban hành (như là áp dụng danh mục trong Nghị định 32/2002/NĐ-CP trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình).

Để nâng cao năng lực cho đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên thì cần phải thực hiện các giải pháp gắn với các chủ thể có trách nhiệm như sau:

- Các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành pháp luật như Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trường đại học Luật Hà Nội, Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp, các trường trung cấp pháp lý v.v..và các Trường đại học, cao đẳng, trung cấp có giảng dạy pháp luật đại cương phải thực hiện sâu sắc hơn nội dung giảng dạy về hình thức pháp luật trong chương trình pháp luật đại cương dành cho các trường đại học hiện nay. Vì sẽ có nhiều Hội thẩm nhân dân không phải là người tốt nghiệp tại các cơ sở đào tạo Luật, tuy nhiên, nếu họ đã được trải qua chương trình pháp luật đại cương trong các trường đại học thì nhận thức về hình thức pháp luật sâu sắc sẽ hỗ trợ cho nhận thức và áp dụng tập quán trong nghề nghiệp sau này.

- Tăng thời lượng và làm phong phú, sâu sắc hơn nữa nội dung về hình thức pháp luật trong các giáo trình và chương trình giảng dạy lý luận chung về pháp luật cho sinh viên học chuyên ngành luật và kiểm sát (Trung cấp pháp lý, đại học các chuyên ngành luật, trường của ngành kiểm sát). Hiện nay nội dung này trong các giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, pháp luật đại cương rất mờ nhạt và khiêm tốn về dung lượng. Đồng thời, trong giáo trình và nội dung giảng dạy các ngành luật có sử dụng tập quán như ngành luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, luật kinh doanh - thương mại, công pháp quốc tế và tư pháp quốc tế… cần chú trọng nhấn mạnh hơn nữa nội dung về hình thức pháp luật. Thực tế, trong các giáo trình và chương trình giảng dạy, vai trò và nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng gần như tuyệt đối. Cần làm cho các cử nhân luật - sau này sẽ trở thành luật sư, thẩm phán, người làm công tác tư pháp, quản lý nhà nước… - nhận thức được rằng tập quán là nguồn không thể thiếu của pháp luật dù mức độ ảnh hưởng của nó trong từng ngành luật, trong từng giai đoạn lịch sử có thể khác nhau.

- TAND tối cao cần tăng cường tổ chức các hội nghị tập huấn về kỹ năng áp dụng tập quán theo từng chuyên đề và phổ biến tài liệu tập huấn này tới tất cả các TAND các cấp. Các hội nghị tập huấn có thể theo những chuyên đề như: Kỹ năng áp dụng tập quán trong giải quyết vụ, việc dân sự; Kỹ năng áp dụng tập quán trong giải quyết vụ, việc Hôn nhân và Gia đình; Kỹ năng áp dụng tập quán trong giải quyết vụ, việc kinh doanh - thương mại; Kỹ năng áp dụng tập quán quốc tế trong giải quyết các vụ, việc kinh doanh - thương mại… Các lớp tập huấn này phải tiến hành định kỳ, ít nhất là 5 năm một lần (trong nhiệm kỳ của thẩm phán) để đảm mọi thẩm phán đều nắm vững kỹ năng áp dụng tập quán trong giải quyết các vấn đề pháp lý. Trong các lớp tập huấn này sẽ cập nhật những bản án, quyết định có áp dụng tập quán, phân tích để các học viên tham gia lớp học nhận thức được một cách sâu sắc kỹ năng áp dụng tập quán trong giải quyết vụ việc dân sự.

- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần tăng cường tổ chức hội nghị tập huấn về kỹ năng kiểm sát việc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự của TAND cho các kiểm sát viên để khi kiểm sát viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ sẽ không có những nhận định chủ quan, sai lầm làm hạn chế hiệu quả áp dụng tập quán của TAND.

- TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần đẩy mạnh xây dựng các tài liệu phổ biến về tập quán cho kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân theo các mảng nội dung: tập quán trong nước và tập quán quốc tế.

Đối với tập quán quốc tế, tài liệu phổ biến phải chuyển tải nội dung các tập quán, cách thức hình thành, các phiên bản cập nhật theo từng thời kỳ, đối tượng áp dụng, quan hệ mà tập quán điều chỉnh… Thực tiễn cho thấy, sự am hiểu về tập quán quốc tế khó khăn hơn tập quán trong nước nhưng lại hết sức cần thiết. Để nâng cao năng lực của đội ngũ thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong việc áp dụng tập quán quốc tế, cần tập hợp và phổ biến tới từng cá nhân những tập quán thương mại quốc tế hiện hành và cập nhật các phiên bản mới trong trường hợp nó được sửa đổi, bổ sung. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa, vì hiện nay, trong bối cảnh quan hệ thương mại quốc tế ngày càng trở nên phổ biến, các bên trong quan hệ thương mại quốc tế có xu hướng ưu tiên sử dụng tập quán quốc tế điều chỉnh quan hệ mà họ tham gia. Do vậy, khi có tranh chấp xảy ra, nếu các bên lựa chọn chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là TAND ở Việt Nam thì điều nhất thiết là Tòa án phải áp dụng tập quán quốc tế. Việc này sẽ không thể thực hiện được nếu các thẩm phán của Việt Nam không am hiểu sâu sắc về tập quán quốc tế, không rõ là có hay không có tập quán quốc tế đó. Cần nhận thức được một cách sâu sắc rằng tập quán quốc tế cũng như tập quán trong nước, tồn tại để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Chẳng hạn có tập quán thương mại quốc tế, tập quán quốc tế trong quan hệ hôn nhân và gia đình, tập quán quốc tế về môi trường v.v..

Đối với tập quán trong nước, tài liệu phổ biến nói về nội dung, địa bàn áp dụng các tập quán và phổ biến theo từng địa phương cấp tỉnh nơi tồn tại tập quán. Có thể kế thừa những thành quả đã có về việc tập hợp tập quán là những sách, những công trình tập hợp tập quán, các bản hương ước cũ, hương ước mới. Trên cơ sở những công trình này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tái bản, sửa đổi, bổ sung và sử dụng lại thành các phụ lục kèm theo văn bản quy phạm pháp luật, liệt kê các tập quán này theo từng nhóm dựa trên tiêu chí giá trị pháp lý là: tập quán được khuyến khích áp dụng, được thừa nhận; tập quán vận động xóa bỏ; tập quán nghiêm cấm áp dụng. Những tập quán mới chưa hề được sưu tập, xuất bản thì sẽ tiến hành sưu tập và văn bản hóa, bổ sung vào kho tàng lưu trữ tập quán, phát triển nguồn tập quán pháp cho Việt Nam hiện nay.



Thứ hai, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội cần thực hiện tốt hơn trách nhiệm nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về tập quán và vai trò của tập quán trong quản lý xã hội:

Đối với tập quán trong nước, chúng ta đều biết, mặc dù có tính phổ biến rộng rãi trong cộng đồng nơi tập quán đó tồn tại, nhưng điều này không đồng nghĩa với việc mọi người trong cộng đồng đó đều biết về tập quán đó. Do vậy, cần thông qua các hình thức sinh hoạt văn hóa hoặc qua các loại tài liệu phát hành, tuyên truyền, phổ biến về nội dung của những tập quán tiến bộ, nhân văn, nhân đạo. Điều này một mặt sẽ giữ gìn, bảo tồn được những nét truyền thống, văn hóa tốt đẹp của địa phương, dân tộc, vùng miền; mặt khác, tạo điều kiện để tập quán ảnh hưởng lên hành vi của các chủ thể trong quan hệ xã hội và tránh những xung đột trong trường hợp Tòa án áp dụng tập quán. Ý nghĩa của việc nâng cao hiểu biết về tập quán, ở khía cạnh khác, chúng ta đều biết, trong hầu hết các quan hệ dân sự, một vấn đề mang tính nguyên tắc là Nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận của đương sự. Nếu đương sự am hiểu về phong tục tập quán, họ có thể đưa những quy định này vào trong hợp đồng, giao dịch với ý nghĩa là thỏa thuận của các bên. Những tranh chấp cũng vì vậy sẽ được hạn chế trong các giao lưu dân sự.

Đối với tập quán quốc tế, nếu các chủ thể trong quan hệ thương mại quốc tế không thực sự nắm rõ tập quán thì có thể sẽ áp dụng không chính xác hoặc làm vô hiệu khả năng áp dụng tập quán. Chẳng hạn như, do tập quán quốc tế về thương mại có nhiều loại nên để tránh sự nhầm lẫn hoặc hiểu không thống nhất về một tập quán nào đó, các bên trong quan hệ thương mại quốc tế cần phải quy định cụ thể tập quán đó trong hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng, tại điều khoản về giá có ghi: giá hàng là 250 USD/MT FOB Hải Phòng Incoterms 2000, điều này có nghĩa là áp dụng bản Quy tắc của ICC về các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms), bản sửa đổi năm 2000. Việc nêu cụ thể Incoterms 2000 sẽ giúp chúng ta tránh áp dụng nhầm các bản sửa đổi Incoterms trước đó, như bản sửa đổi năm 2000, 1980, 1990…



Những điều phân tích trên cho thấy, nếu không tạo nên sự am hiểu sâu sắc cho cả chủ thể trong quan hệ pháp luật lẫn chủ thể có thẩm quyền áp dụng tập quán thì việc áp dụng tập quán sẽ không mang lại hiệu quả tối đa. Nâng cao hiệu quả áp dụng tập quán trong xét xử dân sự của TAND không phải chỉ là nâng cao nhận thức của thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, mà còn là nâng cao nhận thức của các chủ thể pháp luật khác.

4.2.5. Nhóm giải pháp về thủ tục, quy trình trong hoạt động tố tụng dân sự

Việc đẩy mạnh áp dụng tập quán cần phải được thực hiện một cách đồng bộ. Ngoài các giải pháp về pháp lý và về nâng cao năng lực thì còn phải thực hiện những điều chỉnh liên quan đến thủ tục, qui trình giải quyết vụ việc dân sự.



Thứ nhất, TAND tối cao nghiên cứu sửa lại mẫu sổ thụ lý đề đảm bảo khi có vụ việc mà người dân yêu cầu Tòa án giải quyết, dù không có căn cứ pháp lý để giải quyết và Tòa án không thụ lý thì Tòa án vẫn thống kê, ghi nhận được trường hợp tranh chấp. Từ những thống kê này, Tòa án các cấp phản ánh lên TAND tối cao. TAND tối cao trong phạm vi thẩm quyền ban hành Nghị quyết hoàn thiện cơ sở pháp lý, hướng dẫn áp dụng tập quán hoặc chuyển tới cơ quan lập pháp, lập quy. Cơ quan lập pháp, lập quy có thẩm quyền sẽ ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể cho phép áp dụng tập quán để giải quyết hoặc ban hành quy phạm pháp luật thành văn điều chỉnh những quan hệ xã hội đó.

Để giải quyết được vấn đề này, chúng tôi cho rằng nên sửa lại tên hiện đang sử dụng thành "Sổ tiếp nhận, thụ lý và kết quả giải quyết…". Trong nội dung của sổ, cần bổ sung thêm hai cội là: Tiếp nhận (số, ngày, tháng, năm); Không thụ lý (lý do). Nếu không có sổ sách ghi chép những thông tin này thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền khó có thể nắm được những trường hợp pháp luận chưa hoàn thiện để thống kê về nhu cầu áp dụng tập quán và thực hiện việc hoàn thiện hệ thống pháp luật.

Thứ hai, hệ thống TAND cần thực hiện công khai tất cả các bản án có áp dụng tập quán trên phạm vi toàn quốc dưới dạng tư liệu chuyên đề hoặc ấn phẩm xuất bản tương tự như ấn phẩm xuất bản các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hiện TAND tối cao đang thực hiện và phổ biến tài liệu này cho TAND các cấp để tham khảo, rút kinh nghiệm, làm cho các thẩm phán trở nên mạnh dạn hơn khi áp dụng tập quán. Đây cũng là giải pháp góp phần làm cho hoạt động áp dụng tập quán trở nên thống nhất, hiệu quả. Ở một khía cạnh khác, việc công khai bản án, quyết định có áp dụng tập quán cũng là một trong những hoạt động hướng đến việc phát triển án lệ ở Việt Nam theo Đề án phát triển án lệ đã được Chánh án TAND tối cao phê chuẩn.
Kết luận chương 4
Việc ghi nhận sự tham gia điều chỉnh các quan hệ pháp luật của quy phạm tập quán là một trong những giải pháp đúng đắn của Nhà nước ta trong nỗ lực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Từ năm 1992 với sự ra đời Hiến pháp hiện hành, năm 1995 ra đời Bộ luật dân sự đến nay, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong hoạt động lập pháp, lập quy song nguồn tập quán luôn có một ví trí nhất định trong hệ thống pháp luật về dân sự. Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005 tiếp tục hoàn thiện thêm về cơ chế sử dụng tập quán trong điều chỉnh quan hệ dân sự. Hiến pháp năm 2013 vừa có hiệu lực đã tiếp tục đặt cơ sở hiến định cho vấn đề này. Tuy vậy không thể phủ nhận, việc áp dụng tập quán trong giải quyết các vụ, việc dân sự hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục hạn chế này, các nhà khoa học phải tiếp tục nghiên cứu làm hoàn thiện hơn lý luận về áp dụng tập quán, đồng thời, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ làm khả thi nguyên tắc áp dụng tập quán trong xét xử dân sự.

Trên cơ sở quan điểm nhất quán không phủ nhận vai trò nguồn bổ trợ của tập quán trong hệ thống pháp luật, thời gian tới, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật cần nhấn mạnh hơn nguồn tập quán trong hệ thống pháp luật. Quốc hội phải sửa đổi, bổ sung các đạo luật cho phép áp dụng tập quán gồm Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật Tổ chức TAND. TAND tối cao tập trung nâng cao năng lực áp dụng tập quán trong xét xử; thực hiện các hoạt động tập huấn nghiệp vụ này; công khai tất cả các bản án có áp dụng tập quán theo chuyên đề tập quán trong nước, tập quán quốc tế; hướng dẫn áp dụng hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đảm bảo những nguyên tắc về áp dụng tập quán trong xét xử dân sự được thực hiện; đồng thời, rà soát, điều chỉnh các mẫu sổ sách ghi chép việc khởi kiện, thụ lý các vụ, việc dân sự để đảm bảo kịp thời ghi nhận, phát hiện sự thiếu hoàn thiện của pháp luật, đẩy mạnh áp dụng tập quán. Chính phủ sớm ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành các đạo luật để văn bản hóa tập quán trong trường hợp cần thiết hoặc làm cho cơ chế áp dụng pháp luật được hoàn thiện hơn ở góc độ lập quy. Trong phạm vi thẩm quyền, các cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ quản lý về văn hóa tích cực sưu tầm hoặc thúc đẩy hoạt động sưu tầm, văn bản hóa phong tục, tập quán để cơ quan xét xử lấy đó làm căn cứ xác định nội dung tập quán trong những trường hợp sự viện dẫn thiếu rõ ràng hoặc có nhiều tranh cãi.

Từ thực tiễn hoạt động của TAND trong việc phát triển án lệ cho thấy, việc thừa nhận một loại nguồn của pháp luật là điều tương đối giản đơn; song việc đảm bảo cho sự thừa nhận ấy thực sự mang tính pháp lý và khả thi thì cần có sự vào cuộc của toàn bộ các cơ quan nhà nước và sự tham gia của các chủ thể pháp lý khác. Việc đưa một quy định vào một, một số đạo luật thực ra không phải là điều quá khó. Vấn đề thực sự cần thiết nhưng cũng vô cùng khó khăn là làm sao để quy định đó không chỉ nằm trên giấy. Thực tiễn áp dụng tập quán trong xét xử dân sự của TAND ở Việt Nam thời gian qua là sự minh chứng hết sức rõ ràng cho những nhận định mang tính tiểu kết trên đây của chúng tôi.


tải về 1.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương