LUẬN Án tiến sĩ kinh tế HÀ NỘI 2017 BỘ KẾ hoạch và ĐẦu tư viện chiến lưỢc phát triểN



tải về 2.15 Mb.
trang4/10
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích2.15 Mb.
#38863
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10
Trong mỗi trường ĐH, CĐ NCL, công tác tuyển dụng NNL có ý nghĩa rất to lớn. Khi mỗi trường ĐH, CĐ NCL nhận được một NNL xứng đáng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học sẽ góp phần quyết định vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín của nhà trường cũng như cho “ra lò” những sản phẩm tốt, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường lao động. Mọi quá trình tuyển dụng phải có gắn với đòi hỏi thực tế, gắn với yêu cầu của công việc kể cả về số lượng và chất lượng con người. Nếu tuyển dụng theo cảm tình, cơ chế thân quen hay bị một sức ép nào đó sẽ gây ra những hậu quả, nghiêm trọng cả về kinh tế và xã hội, là gánh nặng cho đơn vị và sớm hay muộn sẽ phá vỡ cơ cấu nhân lực của từng trường cũng như toàn hệ thống giáo dục. Người được tuyển dụng phải thoả mãn các yêu cầu chung của ngành giáo dục, đào tạo như đã phân tích trên là phải có đạo đức và phẩm chất chính trị - Kiến thức - Kỹ năng. Ngoài những yếu tố trên ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL còn phải có đủ sức khoẻ, khả năng làm việc lâu dài, quan trọng nhất là lòng trung thành và sự gắn bó với công việc

Tuyển dụng là để thường xuyên bổ sung ĐNGV. Còn sử dụng là để phát huy vai trò của ĐNGV. Giữa tuyển dụng và sử dụng ĐNGV ĐH, CĐ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuyển dụng tốt mới chọn được những GV giỏi, còn sử dụng tốt mới tạo điều kiện cho GV được tuyển dụng phát huy hết phẩm chất và năng lực của mình. Vì thế, các trường ĐH, CĐ NCL cần xây dựng phương thức tuyển dụng GV ĐH, CĐ theo hướng khách quan, công bằng và có yếu tố cạnh tranh.

Ngoài ra, cần hoàn thiện và thực hiện cơ chế hợp đồng dài hạn; bảo đảm sự bình đẳng giữa GV cơ hữu và GV hợp đồng, thỉnh giảng…

Ba là, đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV

Trong thực hiện phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL, đào tạo và bồi dưỡng là biện pháp chủ yếu nhất nhằm nâng cao không ngừng năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học của ĐNGV. Đào tạo, bồi dưỡng vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu đối với GV các trường ĐH, CĐ NCL. Nếu không được đào tạo, bồi dưỡng GV ĐH, CĐ sẽ nhanh chóng lạc hậu so với sự tiến bộ của khoa học giáo dục. Đặc biệt, khi muốn thực hiện tốt vai trò của mình trong các trường, GV ĐH, CĐ NCL càng cần được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, chu đáo.

- Về đào tạo, cần tập trung nâng cao trình độ của GV, đảm bảo cho đội ngũ này được chuẩn hóa (tỷ lệ GV có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ) theo quy định chung của Chính phủ và Bộ GD&ĐT.

- Về bồi dưỡng, cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi, mang tính đặc thù, giúp cho GV ĐH, CĐ NCL ngày càng đáp ứng tốt hơn vai trò đa dạng và phức hợp của mình trong một môi trường sư phạm đã được mở rộng.



Bốn là, đãi ngộ và tạo môi trường thuận lợi, tôn vinh ĐNGV

Môi trường làm việc có ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả công việc. Một môi trường tốt sẽ nuôi dưỡng sự cống hiến, sáng tạo. Trong khi đó, một môi trường bất lợi sẽ làm mất đi những dự định tốt đẹp của con người. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn trong các trường ĐH, CĐ NCL. Chính sách đãi ngộ, tôn vinh, tạo môi trường để ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL phát huy tốt vai trò của mình. Trước hết cần xây dựng và ban hành chính sách mới đối với GV, bao gồm tiêu chuẩn, định mức lao động, điều kiện làm việc, nhiệm vụ khoa học và công nghệ, chế độ nghỉ để trao đổi học thuật và cơ chế đánh giá khách quan kết quả công việc...

2.3.4. Các tiêu chí đánh giá công tác phát triển nguồn nhân lực các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập

Phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL được đánh giá bằng tổng hợp các kết quả hoạt động nhằm làm gia tăng số lượng, phát triển chất lượng và biến đổi hợp lý về cơ cấu ĐNGV. Vì vậy, luận án xây dựng tiêu chí đánh giá phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL chủ yếu dựa trên thước đo hiệu quả các hoạt động tạo nguồn, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, đãi ngộ để lực lượng này phát triển toàn diện. Tuy nhiên, những tiêu chí hàm chứa tính chất mở cao để phù hợp với thực tiễn phát triển ĐNGV ở các trường ĐH, CĐ NCL ở nước ta cả hiện tại và những năm tiếp theo.



- Tiêu chí phản ánh kết quả phát triển nguồn (tạo lập NNL trong các trường ĐH, CĐ NCL)

Tiêu chí này đánh giá những thành tựu chủ yếu trong công tác phát triển nguồn, chuẩn bị nguồn cho hiện tại và tương lai. ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL không phải tự nhiên hình thành và phát triển mà phải trải qua quá trình tạo nguồn rất công phu, sàng lọc kĩ càng. Vì vậy, những thành tựu đạt được trong công tác phát triển nguồn là một trong những yếu tố quan trọng để gia tăng mạnh cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng của ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

Các chỉ tiêu cụ thể đánh giá công tác phát triển nguồn bao gồm:

(1) Kết quả đạt được trong việc đổi mới và nâng cao số lượng, chất lượng tuyển dụng ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

(2) Kết quả đạt được trong việc đổi mới và nâng cao số lượng, chất lượng và cơ cấu tuyển dụng, tuyển chọn ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

Nội dung chỉ tiêu (1) phản ánh tính chất cơ sở nền tảng theo chiều rộng để phát triển ĐNGV. Vì vậy, kết quả đạt được trong việc tạo nguồn là một nội dung không thể thiếu trong đánh giá quá trình phát triển của ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL. Chỉ tiêu (2) đề cập tới công tác phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL là những người đã và đang giảng dạy trong các trường ĐH, CĐ NCL. Kết quả tạo nguồn đđào tạo và bồi dưỡng lực lượng này có ý nghĩa rất quan trọng để phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL có đạo đức, vừa giỏi chuyên môn, vừa thạo kỹ năng và vững vàng trong hoạt động NCKH phù hợp với quá trình hội nhập.



- Tiêu chí phản ánh kết quả đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL

Đây là tiêu chí có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đánh giá sự phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL nhằm tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của các tố chất tiêu biểu phản ánh về chất lượng ĐNGV. Nếu hệ thống đào tạo ĐH và SĐH được tổ chức, đổi mới sắp xếp hợp lý, theo hướng hiện đại hoá và không ngừng nâng cao chất lượng thì sẽ tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong ĐNGV các trường ĐH, CĐ.



- Tiêu chí đánh giá kết quả việc thu hút, sử dụng và đãi ngộ ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL

Đây là tiêu chí cụ thể phản ánh thực chất quá trình phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL. Lực lượng này chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc khi các các cơ chế, chính sách vừa mang tính đột phá, vừa mang tầm chiến lược và được thực thi hiệu quả. Vì vậy, tiêu chí này đề cập đến việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL trong toàn ngành; phản ánh sự đãi ngộ đặc biệt để các tài năng (cả ở dạng tiềm năng và hiện thực) có cơ hội phát triển, tự phát triển và cống hiến. Tiêu chí này có một số chỉ tiêu cụ thể:

(1) Cơ chế, chính sách nhằm thu hút, tạo nguồn, tuyển chọn ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

(2) Cơ chế, chính sách ưu đãi đối với quá trình đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

(3) Những cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút, sử dụng, đãi ngộ đối với ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

Các chỉ tiêu trên quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống cơ chế, chính sách ổn định thể hiện sự ưu đãi đặc biệt đối với ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL. Tuy nhiên, những chỉ tiêu này có tính động rất cao để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn.

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập

2.4.1. Các nhân tố khách quan



2.4.1.1. Cơ chế thị trường và chủ trương, chính sách của nhà nước

Cơ chế kinh tế thị trường, sự tác động của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường có thể kể đến như sự cạnh tranh không lành mạnh cũng đã tác động ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thu hút nhân lực cho GD và ĐT nói chung cũng như đối với việc thu hút nhân lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển ĐNGV của các trường ĐH, CĐ NCL ở Việt Nam.

Chính sách thu hút, đãi ngộ của Nhà nước, của ngành, của địa phương cùng với chế độ đãi ngộ thích đáng đối với người có trình độ cao, có tâm huyết với nghề, sẽ là cơ hội tốt cho các trường ĐH, CĐ NCL trong việc thu hút nhân lực cho mục tiêu phát triển ĐNGV.

Đảng và Nhà nước đã và đang từng bước đổi mới trong lĩnh vực GD-ĐT. Nghị quyết TW khóa VIII nhấn mạnh: “đầu tư cho GD-ĐT là đầu tư cho phát triển”; thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD-ĐT, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương, lương GV phải được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm chế độ phụ cấp tùy theo tính chất của công việc, theo vùng do Chính phủ quy định”.



Đại hội XI của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Mục tiêu tổng quát Đại hội XI của Đảng xác định: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Để đạt được mục tiêu đó, phải xác định đúng các khâu đột phá. Một trong ba khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được xem là khâu đột phá thứ hai. Vấn đề đặt ra là vì sao, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao lại được coi là khâu đột phá? Điều này xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay và từ yêu cầu của thời đại mới với những đổi thay to lớn. Trước hết, cần thấy rằng nguồn nhân lực nước ta, sau 30 năm đổi mới với nhiều nỗ lực, đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thể lực của con người Việt Nam đã từng bước được nâng lên. Nhưng so với nhiều nước trong khu vực và so với yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn rất bất cập. Bối cảnh thế giới hiện nay lại đang có những thay đổi rất nhanh, hết sức phức tạp, khó lường, cộng với thảm họa thiên tai và xung đột quân sự đang diễn ra ở nhiều nơi. Nhiều vấn đề toàn cầu như dân số, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, dịch bệnh... đòi hỏi phải giải quyết. Khoa học - công nghệ và kinh tế tri thức đang diễn ra mạnh mẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có chiến lược khai thác tốt nhất mọi nguồn lực sẵn có, trong đó nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - sức mạnh nội sinh của mỗi một quốc gia, có ý nghĩa quyết định nhất. ĐNGV ĐH, CĐ là nguồn lực quan trọng của các trường NCL. Phát triển đội ngũ này phải được xem là khâu then chốt trong chiến lược phát triển các trường NCL giai đoạn hiện nay.



2.4.1.2. Quá trình hội nhập quốc tế trong giáo dục đại học

Hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực hợp tác và sức cạnh tranh đang trở thành nhiệm vụ ưu tiên của các trường ĐH Việt Nam. Thực hiện Nghị quyết 14 của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006 -2020, nhiều trường ĐH đã triển khai việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài, trước mắt là bằng tiếng Anh; nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo và nghiên cứu có khả năng thu hút người nước ngoài; tiếp thu có chọn lọc các chương trình đào tạo tiên tiến của thế giới; đạt được thỏa thuận về tương đương văn bằng, chương trình đào tạo với các cơ sở GDĐH trên thế giới; khuyến khích các hình thức liên kết đào tạo chất lượng cao, trao đổi GV, chuyên gia với nước ngoài; khuyến khích GV là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy tại Việt Nam; tăng số lượng lưu học sinh nước ngoài tại Việt Nam; Tạo cơ chế và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các cơ sở GDĐH có uy tín trên thế giới mở cơ sở GDĐH quốc tế tại Việt Nam hoặc liên kết đào tạo với các cơ sở GDĐH Việt Nam.

Hội nhập quốc tế trong GDĐH đang đặt ra những yêu cầu mới đối với việc xây dựng và phát triển ĐNGV nói chung, ĐNGV trong các trường ĐH, CĐ NCL nói riêng.

2.4.1.3. Sự chuyển đổi phương thức đào tạo của các trường đại học

Hiện nay, nhiều trường ĐH, trong đó có các trường ĐH, CĐ NCL đã chuyển sang đào tạo theo HTTC. Triết lý của phương thức đào tạo này là hướng tới người học, xem người học là trung tâm của quá trình đào tạo. Thời gian học trên lớp giảm xuống chỉ còn 50% so với trước đây; thời gian còn lại dành cho các hoạt động độc lập của sinh viên (thảo luận nhóm, thí nghiệm, thực hành...); các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đánh giá mới được sử dụng một cách phổ biến... đòi hỏi người GV ĐH nói chung, GV ĐH, CĐ NCL nói riêng phải có nhiều năng lực để thích ứng. Vì thế, trong phát triển ĐNGV ĐH, CĐ ở các trường NCL cần đặc biệt chú ý đến phương diện chất lượng với những năng lực như tổ chức dạy học theo HTTC; hướng dẫn tự học, tự nghiên cứu cho SV; đánh giá kết quả học tập của SV theo các thang điểm số, điểm chữ... của người GV. Bên cạnh đấy, đào tạo theo HTTC còn cho phép SV được đăng ký GV, lựa chọn các lớp học phần để xây dựng kế hoạch học tập riêng cho mình. Vì thế, số lớp học phần sẽ tăng lên. Bên cạnh các lớp có đông SV (thường là môn chung), sẽ có các lớp ít SV. Sĩ số SV/lớp giảm có thể cần phải tăng hợp lý số lượng GV/bộ môn.

Bên cạnh những yếu tố trên, việc phát triển NNL trong các trường ĐH, CĐ NCL còn chịu sự ảnh hưởng, tác động của các yếu tố sau:

- Điều kiện kinh tế gia đình, thu nhập của giảng viên, xét ở góc độ chủ quan hay khách quan thì yếu tố này luôn có tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống, sự gắn bó nghề nghiệp của bản thân giảng viên cũng như đối với nhiệm vụ phát triển ĐNGV của các trường.

- Tuổi đời, thâm niên nghề nghiệp trong ĐNGV, yếu tố này với cơ cấu hài hòa, hợp lý đó là điều kiện để ĐNGV phát triển bền vững, đồng thời tạo điều kiện để có sự kế thừa phát triển liên tục trong ĐNGV.

- Điều kiện môi trường làm việc của ĐNGV, yếu tố này có tác động trực tiếp đến đời sống văn hóa tinh thần, niềm tin và điều kiện làm việc đảm bảo phát huy năng lực nghề nghiệp cho giảng viên, qua đó có tác động thúc đẩy phát triển ĐNGV.

2.4.2. Các nhân tố chủ quan

2.4.2.1. Nhận thức, trình độ và bộ máy của các chủ thể quản lý đối với việc phát triển đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng ngoài công lập

Phát triển ĐNGV ĐH, CĐ là phát triển nguồn nhân lực đặc thù của các trường NCL. Việc phát triển đó diễn ra như thế nào phụ thuộc một phần đáng kể vào sự quan tâm của các chủ thể quản lý, từ Trưởng các phòng ban chức năng, Trưởng khoa/ngành đến Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng nhà trường.

Sự quan tâm này thể hiện ở chỗ các chủ thể quản lý nhận thức đúng đắn vai trò của ĐNGV ĐH, CĐ trong các trường NCL; xây dựng quy hoạch, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và tạo động lực để ĐNGV ĐH, CĐ NCL phát huy vai trò của mình.

Lãnh đạo nhà trường mà trực tiếp là Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhiệm vụ phát triển ĐNGV, vì vậy được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường sẽ tạo nên điều kiện thuận lợi có tác động ảnh hưởng tích cực đến phát triển ĐNGV như có chủ trương, chính sách phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, kinh phí, nhân lực đảm bảo cho phát triển ĐNGV.

Việc xây dựng bộ máy quản lý hợp lý, có sự phân công trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu quả có vai trò quan trọng đối với việc phát triển nhà trường trong đó có công tác phát triển ĐNGV.

Đội ngũ CBQL có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý nhà trường. CBQL phải là những người nắm chắc và hiểu sâu sắc mục tiêu, chương trình, nội dung đào tạo, biết chỉ đạo, tổ chức giảng dạy học tập có hiệu quả, là trung tâm thu hút ĐNGV.

Thực tiễn chỉ ra rằng những cơ sở đào tạo có bộ máy quản lý tổ chức khoa học, đồng bộ và đội ngũ CBQL chuẩn, tâm quyết và có tầm nhìn sẽ biết huy động được sức mạnh tập thể trong xây dựng, tổ chức thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển nhà trường trong đó có nội dung phát triển ĐNGV.

2.4.2.2. Sự tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của chính đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng

Trong phát triển ĐNGV, phát triển các yếu tố bên trong của ĐN này giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Đó là các yếu tố liên quan đến phẩm chất và năng lực của GV các trường ĐH, CĐ NCL.

Phẩm chất và năng lực của GV nói chung, GV ĐH, CĐ NCL nói riêng được hình thành thông qua con đường đào tạo, bồi dưỡng nhưng lại được phát triển và hoàn thiện bằng sự trải nghiệm ngay trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Có thể nói, sự tự học, tự bồi dưỡng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi GV.

Nếu không có tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL không những không đáp ứng được yêu cầu đổi mới công tác đào tạo giảng viên hiện nay mà còn không đáp ứng được sự phát triển của chính bản thân mình.

Trên đây là một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển ĐNGV ĐH, CĐ trong các trường NCL. Từ đó, để phát triển hiệu quả ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển này.

2.4.2.3. Môi trường sư phạm, uy tín, thương hiệu, chính sách của trường

Môi trường sư phạm, bầu không khí dân chủ cởi mở trong nhà trường có tác động đến công tác phát triển ĐNGV. Nó tác động đến tâm tư, tình cảm, lý trí và hành vi của các thành viên nhà trường. Bầu không khí làm việc trong nhà trường tốt sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động trong nhà trường nhất là phát triển ĐNGV.

Uy tín, thương hiệu của nhà trường càng tốt thì càng thu hút được giảng viên và công tác phát triển ĐNGV gặp thuận lợi. Giảng viên trách nhiệm và gắn bó với nhà trường. Uy tín, thương hiệu nhà trường mạnh sẽ giúp trường thuận lợi trong công tác tuyển sinh, góp phần tăng thêm việc làm, thu nhập và các chính sách đãi ngộ đối với tập thể nhà trường đặc biệt là ĐNGV tốt hơn, tạo động lực khiến giảng viên tự giác gắn bó với nhà trường, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển ĐNGV.

Trong điều kiện cơ chế, chính sách của nhà nước chưa đầy đủ, thiếu động bộ, còn chồng chéo ảnh hưởng đến công tác phát triển ĐNGV, nếu nhà trường biết tranh thủ các nguồn đầu tư, tổ chức hợp lý, hiệu quả các nguồn lực tài chính, xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, các quy chế tuyển dụng, sử dụng, đào tạo và bồi dưỡng phù hợp sẽ tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, giảng viên tích cực tự giác tham gia góp phần phát triển ĐNGV trong nhà trường.


2.5. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học và bài học rút ra các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập ở Việt Nam

2.5.1. Kinh nghiệm các nước về phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học



2.5.1.1. Kinh nghiệm các trường đại học ở Pháp

Ở Pháp, Nhà nước đã thực hiện những biện pháp nhằm đa dạng hóa các nguồn thu nhập không bao cấp, tăng cường thêm kinh phí cho sự nghiệp giáo dục. Ví dụ như: Thu học phí dịch vụ cho những hoạt động đặc thù như mở các khóa học không nằm trong chương trình của bằng cấp quốc gia; khuyến khích các đóng góp ở cấp chính quyền và tổ chức công lập; huy động nguồn tài chính từ các công ty, xí nghiệp bằng thuế dạy nghề (theo tỷ lệ 0,5% quỹ lương) và thuế đào tạo liên tục (thep tỷ lệ 15% quỹ lương); các trường đại học ngoài công lập hoạt động với 12% kinh phí là nguồn công cộng và 88% là nguồn tư nhân...

Nước Pháp hầu như chỉ có đại học công mà trình độ gần sàn sàn như nhau ở mỗi tỉnh khiến người đi học không nhất thiết phải chọn các tỉnh lớn hay thủ đô để đến học. Mặt khác, thành quả lớn của cách mạng 1789 là đi học không mất tiền, từ tiểu học đến đại học. Vào trường đại học chỉ cần có bằng tú tài và ghi tên vào học. Tất nhiên, ngoài hệ thống trường đại học, nước Pháp còn có hệ thống trường lớn (grandes escoles) mà muốn vào phải qua những kỳ thi rất khó mà không phải sinh viên nào cũng có thể thi được và hệ thống các IUT (instituts universitaires de technologies) nằm ngay trong trường đại học, nhưng muốn vào thì phải qua đợt tuyển hồ sơ chặt chẽ và trong khi học có thể bị đuổi sau mỗi học kỳ nếu kém. Sinh viên tốt nghiệp ở hệ trường lớn hay ở hệ IUT không lo bị thất nghiệp. Về số lượng sinh viên thì hệ thống trường đại học là đông sinh viên nhất, và đầu tư của nhà nước vào hệ này ít tiền hơn hệ kia, chỉ bằng hơn nửa hệ trường lớn. Có thể nói hệ thống trường đại học là hệ đại trà cho thanh niên Pháp. Những năm 70 của thế kỷ trước được người Pháp coi là thời kỳ hoàng kim của kinh tế Pháp, và từ đây nước Pháp sản xuất không kịp sinh viên tốt nghiệp ngành này. Thế là bắt đầu từ những năm 1970 hệ thống trường đại học thương mại tư thục ra đời và cùng với các trường thương mại còn có những trường tư về ngành khác, nhưng không nhiều như trường thương mại.

Ở Pháp có ba loại trường đại học tư thục thương mại: 1) Trường phụ thuộc vào phòng Thương mại tỉnh; 2) Trường của một nhóm cổ đông; và 3) Trường của một nhóm cổ đông thành lập theo luật Hội 1901.

Loại trường thứ nhất là Trường phụ thuộc Phòng Thương mại của tỉnh, do Phòng thương mại xây trường thì tài chính hoạt động được hình thành từ 3 nguồn. Nguồn thứ nhất là học phí (6.000-7.000 euros/năm/sinh viên) chiếm 30% ngân sách; Nguồn thứ hai là thuế TA (taxe d’ apprentissage) do xí nghiệp trả, đáng lẽ họ phải đóng cho Nhà nước vì sử dụng người đã qua đào tạo ở các trường nghề hay trường đại học, nhưng nếu họ trả trường đại học thì Nhà nước không yêu cầu họ đóng nữa; thuế TA chiếm 20% ngân sách; Nguồn thứ ba là trợ cấp của phòng Thương mại chiếm 50% ngân sách của các trường NCL.

Nguồn ngân sách của các trường NCL tại Pháp được chi cho các khoản sau:

a. GV, giáo sư (phần lớn là cơ hữu): 50% ngân sách

b. Bảo dưỡng cơ sở vật chất, thiết bị: 30%

c. Hành chính, lãnh đạo: 15%

d. Quảng cáo: 5%

Loại trường thứ 2 do cổ đông xây trường và là chủ sở hữu trường, đối với loại thứ 3 thì trường là sở hữu tập thể, nghĩa là không thuộc sở hữu riêng của bất kỳ cá nhân nào. Đối với loại trường thứ 2, cổ đông có thể lấy lãi hay để lại cho nhà trường, trong trường hợp lấy lãi thì lãi không được vượt lãi tiết kiệm của ngân hàng 1 điểm %, ví dụ lãi ngân hàng trong khoảng từ 5 đến 7% thì cổ đông có thể lấy lãi trong khoảng từ 0 đến 8%. Đối với loại trường thứ 3 thì bắt buộc cổ đông phải để toàn bộ lợi nhuận lại cho trường do trường thành lập theo luật Hội 1901, nghĩa là Hội phi lợi nhuận. Nếu cổ đông làm việc ở nhà trường thì lương của họ cũng được khống chế ở mức hợp lý. Người ta gọi một trường đại học tư thục là một xí nghiệp trí thức. Loại trường thứ 2 phải đóng thuế, còn loại trường thứ 3 thì không phải đóng thuế.

Nguồn tài chính của 2 loại trường thứ 2 và thứ 3 được hình thành từ:



(1). Học phí: khoảng 10.000 euros/năm/sinh viên, chiếm 85-90% ngân sách

(2). Thuế TA: 10-15 % ngân sách, do xí nghiệp tặng

Ngân sách của 2 loại trường này được dùng để trang trải các khoản chi phí hoạt động sau:

(1). Giảng viên, giáo sư (phần lớn là mời): 35-40% ngân sách

(2). Bảo dưỡng cơ sở vật chất, thiết bị: 20%

(3). Hành chính, lãnh đạo: 15%

(4). Quảng cáo: 10%

(5). Lãi suất: 10-15%

Ở nước Pháp cũng như các nước tiên tiến trên thế giới, pháp luật luôn được tôn trọng, các quy định của Nhà nước cho các trường tư thục được tôn trọng triệt để. Vấn đề xây trường dành cho phòng Thương mại đối với loại (1), còn cho cổ đông đối với loại (2) và (3). Sau đó có được hưởng lãi hay không đều được quy định cụ thể. Các trường luôn đóng thuế đầy đủ nếu như pháp luật quy định họ phải đóng góp, trốn thuế được coi là một tội nặng.

Về quan hệ của người bỏ tiền đầu tư đóng góp vào trường với đội ngũ giáo sư nhà trường thì cũng có sự khác nhau giữa trường loại (1) so với trường loại (2) và (3). Đối với trường loại (1) thì vì lợi ích nguồn nhân lực mà trường đào tạo cho các doanh nghiệp của Phòng thương mại. Cho nên Phòng thương mại thường gây áp lực để đào tạo theo ý họ muốn, sinh viên ra trường phải phục vụ ngay được. Nhiều giáo sư rất sợ áp lực của phòng Thương mại, vì giáo sư thì thích làm nghiên cứu theo ý tưởng của mình, còn xí nghiệp thì thấy đề tài mà nhà khoa học đánh giá là hay lại không thiết thực. Điển hình là hệ thống IUT trong hệ đại học công của Pháp mà ta đã nói ở trên, hệ thống này nhận tài trợ của xí nghiệp để sinh viên được dạy dỗ tốt hơn hệ đại học công đại chúng. Đánh đổi lại, sinh viên của hệ này khi ra trường không được học thẳng lên thạc sĩ, tiến sĩ, mà phải đi làm ít nhất là 3 năm, sau đó có muốn học thêm gì thì tùy ý; nếu đại học nào nhận sinh viên vừa tốt nghiệp IUT ra làm thạc sĩ, tiến sĩ, thì sẽ bị cắt trợ cấp của xí nghiệp.

Đối với loại (2) và (3) thì người đầu tư thành lập trường có thể vì thích thú, vì thiên hướng thích làm nghề tự do và cũng vì có tiền sẵn. Đối với hai loại trường này các cổ đông phần lớn là trí thức, cho nên khi mở trường họ đảm đương được các trọng trách điều hành trường. Ở đây họ cũng làm áp lực lên đội ngũ giáo sư để đi theo đường lối của họ, có khi vì lãi, có khi vì thích thú với một hướng phát triển nào đó. Nhưng nói chung, họ tôn trọng quy định của nhà nước cho các trường đại học tư về cách lấy lãi của cổ đông, về thu học phí và về chi tiêu trong trường, cho nên áp lực của họ lên đội ngũ giảng dạy có khó chịu đôi khi, nhưng không lớn. Vả lại giáo sư ở các trường đại học tư không phải là những giáo sư lớn như trong hệ thống đại học công, nên không có mâu thuẫn gì nhiều về đường lối nghiên cứu khoa học, nguyên nhân gây ra mâu thuẫn lớn giữa nhà đầu tư và nhà khoa học.

2.5.1.2. Kinh nghiệm của Anh quốc

Ở Anh, trợ cấp của ngân sách Nhà nước vẫn là nguồn tài chính cơ bản đối với các đại học công lập, phần còn lại là học phí, các khoản thu mang tính tự nguyện như thu đóng góp, hỗ trợ, viện trợ, trợ cấp... còn các đại học ngoài công lập, kinh phí Nhà nước chỉ có 30%; còn lại là 70% là do dân đóng góp các loại. Bộ Giáo dục chỉ quản lý cấp học từ mầm non tới khi công dân Anh 18 tuổi, riêng bậc đại học, họ có toàn quyền tự chủ trong quản lý. Nghiên cứu về quá trình phát triển của giáo dục ĐH của Anh quốc, ta thấy giáo dục ĐH của nước này rất chú trọng đến phát triển ĐNGV. Tuy nhiên, vai trò của người giảng viên thường bị ảnh hưởng rất lớn do sự lấn át quyền hành của người tài trợ. Trước năm 1960, khi mà 95% nguồn vốn hoạt động của các trường ĐH do nhà nước cấp thì cơ chế quản lý hầu hết nằm trong tay hội đồng giảng viên, vì vậy vai trò của ĐNGV trong các trường ĐH rất lớn.



Đội ngũ học giả và giảng viên, ở các trường ĐH có tiếng nói rất có trọng lượng. Tuy nhiên, do nguyên tắc tài chính chi phối hoạt động đối với trường ĐH, nên vai trò của giảng viên trong hội đồng quản trị giảm xuống, phản ảnh của mối quan hệ ai là người tài trợ của trường ĐH. Vào năm 1945, khi mà 95% nguồn vốn hoạt động của các trường ĐH do nhà nước cấp thì cơ chế quản lý hầu hết nằm trong tay hội đồng giảng viên (senate) (Fulton, 2002).

Vào những năm 1960, do chịu tác động của phong trào dân chủ, sự gia tăng sinh viên và các nhân viên ít thâm niên vào hội đồng học thuật (senate hoặc academic board) nên vai trò của các nhà khoa học, các giảng viên giỏi đã giảm xuống. Ngoại trừ hai trường ĐH danh tiếng là Oxford và Cambridge. Do lãnh đạo của các trường này rất tôn trọng các giá trị truyền thống, chú trọng tới ĐNGV giỏi nên không ủng hộ sự tham gia của các thành viên bên ngoài mà chủ yếu dựa vào đội ngũ học giả của nhà trường. Lý do của hiện tượng này là, một mặt, nhờ danh tiếng nên hai trường này nên có lợi thế trong kêu gọi các nguồn tài trợ, mặt khác hai trường nay có lượng tài sản khổng lồ nên ít bị tác động của thị trường. Đối với các trường còn lại, thường thực hiện cơ chế quản lý dựa vào hai hội đồng là Hội đồng điều hành và Hội đồng học thuật. Trong đó, Hội đồng điều hành là cơ quan chịu trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của cơ sở ĐH, ra quyết định về chiến lược phát triển, quy chế hoạt động nội bộ, phân bổ tài chính, bổ nhiệm nhân sự và điều kiện làm việc. Hội đồng điều hành bao gồm phần lớn là các thành viên bên ngoài như từ các ngành công nghiệp, cựu sinh viên, các hiệp hội nghề nghiệp. Hội đồng học thuật là cơ quan tối cao về học thuật, xác định nhiệm vụ giáo dục, tư vấn về phân bổ tài chính và nguồn lực cho việc thực hiện giảng dạy và nghiên cứu. Thành viên của hội đồng học thuật phần lớn là đội ngũ học giả trong trường. Như vậy, tiếng nói của ĐNGV tuy có giảm so với trước, song vẫn giữ được chất lượng của ĐNGV.

Từ năm 1963, các trường ĐH, nhất là những trường NCL phải hoạt động theo điều lệ và mô hình phát triển trường đã lựa chọn, nên quyền lực giữa Hội đồng điều hành và Hội đồng học thuật (giảng viên) bắt đầu có sự thay đổi. Theo quy định, Hội đồng điều hành có quyền trong việc bổ nhiệm nhân sự vào hội đồng giảng viên và ngược lại. Kết quả là có đại diện của những người không phải là học giả và giảng viên vào hội đồng học thuật. Hiện tượng này kéo dài khoảng 30 năm và làm cho chất lượng của ĐNGV có chiều hướng giảm xuống.

Từ năm 1992, các trường ĐH hoạt động theo hình thức công ty, vì vậy quyền quản lý trong nhà trường tập trung vào hội đồng điều hành. Hội đồng điều hành trường phần lớn là các thành viên bên ngoài bao gồm là đại diện hoặc thành viên chỉ định của chính quyền địa phương và có một số ít các thành viên học thuật. Hội đồng học thuật tuy vẫn tồn tại, song trong Hội đồng đã có một số thành viên là nhân viên hành chính, hỗ trợ học thuật và sinh viên. Nhiệm vụ của hội đồng học thuật chỉ giới hạn trong vai trò tư vấn. Quyền quyết định về phương hướng chung của nhiệm vụ học thuật và chương trình giảng dạy nằm trong tay hội đồng điều hành.

Mặc dù có được vị thế là cơ sở giáo dục ĐH độc lập, song với sự tham gia đông đảo của các thành viên là chính quyền địa phương trong hội đồng điều hành, nên quyền hạn của hội đồng điều hành cũng bị giảm sút và giới hạn, do chịu sự chi phối rất nhiều của chính quyền địa phương. Tính tự chủ của trường giảm xuống, đây là một vấn đề bất đồng dai dẳng trong mối quan hệ giữa hội đồng điều hành trường và chính quyền địa phương.

Quyền lực của hội đồng học thuật so với hội đồng điều hành trong trường ĐH sau năm 1992 xếp vai trò thứ yếu. Hơn nữa, tính tự chủ của các trường cũng bắt đầu giảm xuống thấp hơn so với trước năm 1992. Lý do của tình trạng này là sau năm 1992 các trường ĐH không hoạt động theo điều lệ mà theo các điều khoản quản trị ban hành bởi Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Cơ cấu của Hội đồng quản trị của các trường không có tính ổn định, vì chính phủ có thể thay đổi các thành viên của các hội đồng trong trường bất cứ khi nào. Điều này cũng có nghĩa là các trường ĐH sau năm 1992 bị bộ GD kiểm soát trực tiếp hơn về cơ cấu quản trị so với các trường trước năm 1992, khi các trường có điều lệ hoạt động, có chiến lược phát triển được ban hành bởi một ban riêng của trường.



2.5.1.3. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, mỗi bang tự tổ chức lấy các trường học, gọi là trường công (public schools) còn lại gọi là trường tư (tương tự như trường NCL ở Việt Nam). Trường tư do tư nhân vận hành, không bị quản lý bởi các cơ quan Nhà nước nhưng thông thường chất lượng dịch vụ giáo dục ở các trường này đều được duy trì ở mức bằng hoặc tốt hơn hệ thống trường công.

Ban đầu, việc hình thành các trường học tư nhân ở Mỹ là vấn đề được tranh cãi. Tuy nhiên, nhờ lựa chọn các mô hình phát triển đúng đắn nên các trường tư luôn đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định do Nhà nước đặt ra. Trường tư ở Mỹ thường có học phí cao nhưng đổi lại chất lượng giáo dục cũng rất cao.

Ở Mỹ, các cơ sở giáo dục được thành lập không có nghĩa là đạt kiểm định. Việc được cấp phép hoạt động có nghĩa là các trường đáp ứng đủ các yêu cầu về thành lập trường theo quy định của từng bang đối với các tiêu chí như cơ sở vật chất, tiền ký quỹ, thuế... Còn việc kiểm định lại liên quan đến chất lượng các chương trình đào tạo. Mỹ có 2 tổ chức kiểm định là Bộ Giáo dục liên bang (USDE) và (CHEA) là cơ quan độc lập được các trường và các tổ chức kiểm định thừa nhận. Tuy nhiên, hai cơ quan trên không trực tiếp kiểm định các trường, mà các trường yêu cầu được trực tiếp kiểm định, vì rằng nếu kết quả kiểm định tốt, nghĩa là chất lượng giáo dục của trường được đảm bảo, thì trường có thể tiếp cận với ngân sách chính phủ (hỗ trợ tài chính và dự án nghiên cứu).



- Chất lượng giáo dục ĐH ở Mỹ chịu ảnh hưởng của thị trường lao động nhiều hơn là việc kiểm định của nhà nước. Nền ĐH của Mỹ chịu nhiều ảnh hưởng của các trường ĐH Anh về các ngành học nhân văn và của các trường ĐH Đức về việc nghiên cứu, đào tạo sau ĐH và đào tạo chuyên ngành. Tuy nhiên, qua nghiên cứu có thể rút ra những nét nổi bật sau đây:

Một là, hệ thống giáo dục ĐH và sau ĐH của Mỹ mang tính cạnh tranh rất cao.

Tuy tư tưởng về giáo dục là mang tính đại chúng, hay cho tất cả mọi người, trong hệ thống giáo dục ĐH và đặc biệt là các trường đào tạo sau ĐH có một hệ thống chọn lọc cao và hết sức cạnh tranh. Mỗi trường đều có những quy định về tiêu chuẩn tiếp nhận sinh viên riêng, nên các trường ĐH tốt nhất cũng là những trường sinh viên khó được tiếp nhận vào học nhất. Năm 1991, trường ĐH California chỉ tiếp nhận 40% tổng số những người xin học có đủ tiêu chuẩn, đối với trường Harvard con số này chỉ là 17,2%. Điều này rõ ràng khác hẳn với các trường ĐH nói chung và ĐH NCL nói riêng ở nước ta.



Hai là, việc tổ chức kiểm soát giáo dục rất linh hoạt và hiệu quả.

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không có một hệ thống giáo dục toàn quốc, Hiến pháp không quy định trách nhiệm giáo dục của chính phủ liên bang nên tất cả các vấn đề giáo dục đều thuộc về từng bang. Cho dù có một Bộ Giáo dục của liên bang nhưng chỉ có các chức năng: thu thập thông tin, cố vấn và giúp đỡ tài chính cho các chương trình giáo dục nhất định.

Hiến pháp từng bang lại cho phép các cộng đồng địa phương kiểm soát thực sự về mặt hành chính đối với các trường công. Ban giám hiệu các trường này gồm các công dân được bầu lên từ cộng đồng dân cư và chính họ, chứ không phải là bang, đề ra chính sách phát triển của trường bao gồm cả việc sẽ dạy những nội dung gì.

Việc kiểm định chất lượng được thông qua các công trình nghiên cứu đánh giá. Hàng năm, có hàng trăm công trình nghiên cứu kiểm tra khắt khe các trường học trên toàn quốc được công bố. Ở mỗi trường lại có các khoa nghiên cứu và đánh giá về giáo dục. Trong những giai đoạn nhất định việc kiểm tra đánh giá này lại có phần khắt khe hơn. Những cuộc tranh luận của công chúng về chất lượng, nội dung và các mục tiêu giáo dục luôn diễn ra công khai trên toàn nước Mỹ.



Ba là, giáo dục Mỹ đề ra các mục tiêu rất cụ thể.

Mục tiêu lớn nhất của giáo dục Mỹ là “làm cho bản thân trở nên tốt hơn”, hay “vươn lên trên thế giới này”. Hàng triệu người nhập cư tới Mỹ thường gắn liền những hy vọng của họ mong muốn có được một cuộc sống tốt đẹp hơn với một nền giáo dục tốt cho chính bản thân họ và quan trọng nhất cho con cái họ. Cho dù mục tiêu cuối cùng là tiền tài, danh vọng, quyền lực hay chỉ đơn giản là kiến thức… thì bước khởi đầu thường từ ngưỡng cửa của trường ĐH.



Bốn là, chú trọng việc đánh giá chất lượng giảng dạy và đề cao trách nhiệm của giảng viên.

Cuối học kỳ, trước kỳ thi hết môn, mỗi sinh viên được phát một mẫu “đánh giá giảng dạy”. Sinh viên được nhận xét về những điều bổ ích hay chưa bổ ích của môn học, ưu điểm và nhược điểm của môn học, ưu điểm và nhược điểm của người giảng dạy, các giáo sư không được can thiệp vào đánh giá này. Đây là một hình thức xả “stress” mà các ĐH Mỹ dành cho sinh viên. Trong một chừng mực nhất định, dựa trên những đánh giá của sinh viên, các trường có thể thay đổi một phần nội dung môn học, khiến cho nó dễ được thu nhận hơn. Một số ĐH thông báo lại cho giáo sư bản tổng hợp những đánh giá của sinh viên đối với bài giảng của giáo sư này.

Việc đề cao trách nhiệm của giảng viên được xác định như sau:

- Mọi giảng viên đều có quyền tham gia quá trình đào tạo ban đầu và các hoạt động đào tạo liên tục nhằm phát triển chuyên môn, qua đó giảng viên sẽ được cung cấp kiến thức và các kỹ năng cần thiết.

- Mọi tiểu bang và cấp quận huyện phải đề ra các chiến lược thích hợp nhằm thu hút, tuyển chọn, chuẩn bị, tái đào tạo và hỗ trợ việc phát triển chuyên môn cho các giảng viên, để hình thành một NNL gồm những nhà giáo chuyên nghiệp, tài giỏi để có thể giảng dạy những nội dung mới.

Năm 1997, lần đầu tiên Sở Giáo dục Alaska đã công bố tám tiêu chuẩn cụ thể dành cho giảng viên và những ai công tác trong ngành giáo dục để nâng cao chất lượng giảng dạy, bao gồm:

(1) Người thầy phải mô tả được triết lý giáo dục của nhà sư phạm và nhấn mạnh được sự liên quan của triết lý đó với tác vụ dạy học của mình.

(2) Người thầy phải thông hiểu cách thức mà qua đó học sinh học hỏi và phát triển, cũng như áp dụng những điều này trong tác vụ dạy học của mình.

(3) Người thầy phải dạy cho học sinh biết cách tôn trọng các đặc tính cá nhân và văn hóa của riêng họ.

(4) Người thầy phải nắm rõ lĩnh vực nội dung dạy học của mình cũng như các phương pháp để giảng dạy nội dung này.

(5) Người thầy phải tạo cơ hội, giám sát và đánh giá quá trình học của học sinh.

(6) Người thầy phải kiến tạo và duy trì một môi trường học tập mà trong đó tất cả học sinh và nguồn lực xã hội tham gia đóng góp tích cực.

(7) Người thầy phải thực hiện tác vụ của mình với tư cách một người cộng tác với cha mẹ, gia đình và cộng đồng.

(8) Người thầy phải tham gia đóng góp vào sự nghiệp giáo dục của nhà trường, địa phương, đất nước.



Năm là, chú trọng công tác kiểm định giáo dục.

Nét nổi bật trong chiến lược phát triển giáo dục ở Mỹ chính là việc họ rất chú trọng đến công tác kiểm định chất lượng giáo dục ĐH và sau ĐH. Ở Mỹ, có sự phân biệt rất rõ ràng giữa các trường được kiểm định (accredited universities) và các lò sản xuất bằng cấp (degree/diploma mills). Trên các trang web đều có thông báo về các dấu hiệu nhận biết về các lò sản xuất bằng cấp, thậm chí có cả danh sách các trường bị đưa ra tòa do vi phạm luật (như không đảm bảo các yêu cầu theo quy định, lừa đảo, hay không thông báo công khai cho mọi người biết về việc không được kiểm định).

Được kiểm định dưới mắt công chúng có nghĩa là chất lượng được đảm bảo, sinh viên trong các trường được kiểm định có thể chuyển đổi lẫn nhau, và tạo được niềm tin đối với các nhà tuyển dụng. Sinh viên từ các trường không được kiểm định sẽ không có lợi thế khi tìm việc.

Sắp tới các tổ chức kiểm định Mỹ sẽ tập trung vào việc nâng cao ý thức của công chúng về các lò sản xuất bằng cấp, siết chặt các quy định kể cả việc thông qua cơ quan lập pháp để trở thành luật, và tăng cường việc hợp tác với các nước để nhằm hạn chế các tác hại phát sinh từ các lò bằng cấp này.



2.5.1.4. Kinh nghiệm của Nhật Bản

Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học

Ở Nhật Bản, nội dung và phương pháp đào tạo ở bậc ĐH được cải thiện song song với quá trình đại chúng hoá. Từ các năm đầu của thể kỷ XXI, giới giảng viên và ban chấp hành các trường ĐH bắt đầu ý thức đến phương pháp đào tạo để thích ứng với nhu cầu mới của sinh viên. Hầu hết các trường ĐH đều chuẩn bị và công bố đầy đủ tài liệu giới thiệu, giải thích nội dung của từng môn học và thực thi các cuộc điều tra ý kiến và mức độ hấp thụ của sinh viên đối với từng môn học. Kết quả của các cuộc điều tra này thường được dùng như một tiêu chí quan trọng trong việc bình xét giảng viên và cải thiện chương trình giáo khoa thích dụng cho các năm sau.



Một nguyên nhân khác đưa đến biến đổi trong phương pháp và nội dung đào tạo ở bậc ĐH trong thế kỷ XXI này là biến đổi trên nhu cầu của xã hội Nhật nói chung, trong đó xí nghiệp dần dần từ bỏ tập quán shushin-koyo (suốt đời làm việc trong một xí nghiệp). Vì người lao động không tiếp tục làm việc nhiều năm trong một xí nghiệp, xí nghiệp không còn tích cực thực thi các chương trình đào tạo tại xí nghiệp, và từ đó có khuynh hướng nhận sinh viên tương đối có đầy đủ kiến thức thực dụng ngay ở thời điểm ra trường.

Nới rộng phạm vi tự trị của ĐH

Một cải cách mới bắt đầu thực hiện từ năm 2006 là thi hành điều lệ thừa nhận các ĐH quốc lập như một đơn vị độc lập (kokuritsudagakui no hojinka - pháp nhân hóa ĐH quốc lập). Điều lệ này đưa đến một số kết quả cụ thể như các trường có thể thống hợp toàn thể hoặc một vài phân khoa để nâng năng suất giáo dục và nghiên cứu, các trường có thể gia giảm học phí cho sinh viên trong phạm vi 20% của mức học phí quyết định bởi chính phủ, hiệu trưởng trường ĐH được quyền tuyển chọn nhân viên tư nhân và quyết định trong việc tuyển chọn giảng viên và định mức lương cho người từ nước ngoài, v.v. Song song với việc được hưởng phạm vi tự trị rộng hơn, ngược lại các ĐH quốc lập phải tự lập hơn trên mặt ngân sách như phải tự tạo một phần của ngân sách dùng trong các các công trình nghiên cứu. Trước kia ngân sách chính phủ bổ trợ cho các ĐH được quyết định theo truyền thống, dựa vào thông lệ trong quá khứ, ngày nay ngân sách này được quyết định dựa vào tiêu chuẩn cạnh tranh như thành quả nghiên cứu, thành quả giáo dục, tinh thần liên đới với xã hội địa phương, thành tích hoạt động quốc tế, v.v.

Xúc tiến cạnh tranh trong nghiên cứu khoa học. Từ lâu Nhật Bản có mục ngân sách dành riêng cho việc xúc đẩy nghiên cứu khoa học, thường gọi tắt là kakenhi (kagakukenkyuhi - Khoa học nghiên cứu phí). Ngân sách này khá lớn nhằm vào mục đích bổ trợ tổn phí nghiên cứu và công bố thành quả của cá nhân và đoàn thể được tuyển chọn mỗi năm trên tiêu chuẩn cạnh tranh. Song song với chương trình cải cách giáo dục bậc ĐH, từ năm 2006 chính phủ Nhật thực thi một chương trình mới dựa trên mục ngân sách dưới danh hiệu Chấn hưng khoa học kỹ thuật: (kagaku gijutsu shinko chosei-hi, khoa học kỹ thuật chấn hưng điều chỉnh phí). Mục ngân sách mới này nhằm vào mục đích thúc đẩy hoạt động nghiên cứu dựa trên các căn bản như liên đới quốc tế (thúc đẩy các chương trình nghiên cứu cộng đồng giữa các cơ quan trong và ngoài nước), nghiên cứu phù hợp với nhu cầu địa phương, khuyến khích hoạt động nghiên cứu trong lớp người trẻ tuổi và nữ giới, v.v. Mục ngân sách mới này đã tạo ra một không khí cạnh tranh sôi động trong giới ĐH trong các năm gần đây.



2.5.1.5. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Cùng với đổi mới kinh tế, Trung Quốc luôn coi trọng cải cách giáo dục. Nhằm khắc phục các hạn chế của mô hình giáo dục cũ, Trung Quốc đã thực hiện cải cách giáo dục ĐH theo các hướng sau đây:

(1) Chấn chỉnh, sắp xếp lại hoạt động ở các trường ĐH

Từ đầu những năm 1990, Trung Quốc tiến hành cải cách trong các trường ĐH, hầu như tất cả các trường ĐH và CĐ ở Trung Quốc đều được chấn chỉnh, lập lại kế hoạch, sắp xếp các hoạt động phù hợp với nhu cầu của kinh tế thị trường và phát triển khoa học kỹ thuật, với những nội dung chính như sau:

- Bỏ các khóa học, môn học không cần thiết, ít sinh viên theo học. Nhiều trường đã đổi mới chương trình giảng dạy, thay đổi cơ cấu các môn học, bỏ các môn học trùng lặp, ít học sinh theo học, đưa thêm vào các môn mới đáp ứng các yêu cầu cấp thiết của xã hội.

- Biên soạn sách giáo khoa mới, đưa thêm vào chương trình đào tạo các môn học như: tài chính, quản lý, luật và tin học nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp thiết của công cuộc hiện đại hóa đất nước. Trong cải cách và xây dựng các môn học mới, các trường luôn hướng vào mục tiêu phục vụ việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Trong những năm cuối thập niên 1990, cơ cấu kinh tế nông thôn Trung Quốc thay đổi rất mạnh mẽ, các trường ĐH nông nghiệp đều củng cố, làm giàu thêm các nội dung giảng dạy để đáp ứng các yêu cầu cao hơn về khoa học kỹ thuật nông nghiệp hiện đại.

- Kết hợp việc giảng dạy với nghiên cứu, gắn kết giữa khoa học với kỹ thuật, chăm lo bồi dưỡng và đào tạo cán bộ cho các ngành khoa học mới, các ngành mũi nhọn.

- Thuê chuyên gia giỏi người nước ngoài vì mục đích đào tạo của trường. Ngày càng nhiều các trường ĐH ở Trung Quốc thuê chuyên gia, giảng viên nước ngoài vào làm việc phục vụ mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo của trường. Việc các giảng viên nước ngoài giảng dạy ở các trường ĐH, CĐ ở Trung Quốc rất phổ biến kể từ đầu những năm 2000, nhiều giảng viên nước ngoài được trả thù lao cao.

(2) Đẩy mạnh hợp tác giữa các trường ĐH với các doanh nghiệp và hợp tác giữa các trường ĐH với nhau

Việc liên kết, hợp tác cùng hỗ trợ lẫn nhau giữa các trường ĐH cũng như giữa các trường ĐH với các tổ chức khác là một phương thức mới, có hiệu quả trong cải cách hệ thống các trường ĐH. Trên thực tế ở Trung Quốc đã diễn ra các hình thức hợp tác sau đây:

- Hợp tác giữa các trường ĐH với các cấp chính quyền trung ương và địa phương để tăng nguồn tài chính xây dựng trường lớp và bổ sung đội ngũ cán bộ chính quyền. Để mở rộng các kênh phục vụ, chính quyền các cấp ở cả trung ương và địa phương Trung Quốc cùng tham gia xây dựng và đóng góp cho hoạt động của các trường ĐH. Nhờ đó hoạt động đào tạo gắn liền với nhu cầu của địa phương, nguồn tài chính cũng phong phú hơn.

- Hợp tác giữa các trường ĐH với các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội để cùng sử dụng các lợi thế chung, gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn. Trong những năm 1990, ĐH Bách khoa Tứ Xuyên đã từng thiết lập quan hệ hợp tác với 160 xí nghiệp lớn và vừa. Tham gia trong ban lãnh đạo trường có cả lãnh đạo của một vài xí nghiệp và tổ chức xã hội.



- Hợp tác giữa các trường ĐH với nhau để phối hợp cùng sử dụng các nguồn lực như cán bộ giảng dạy, lớp học, thư viện... cũng như nâng cao chất lượng dạy và học. Nhiều trường ĐH, CĐ đã liên kết, hợp tác với nhau để cùng sử dụng các thế mạnh của nhau và tăng hiệu quả đào tạo. Với một số môn, sinh viên theo học có thể chọn danh mục nhiều hơn ở các trường. Xu hướng này đã khuyến khích các lực lượng xã hội cùng tham gia xây dựng và quản lý trường học, cùng tìm ra các kênh huy động tài chính để tăng hiệu quả đào tạo.

(3) Đào tạo các nhà khoa học đầu ngành



Trung Quốc đã bổ nhiệm các nhà khoa học trẻ tuổi, có năng lực, có tri thức mới để nắm các cương vị chủ chốt. Các trường ĐH và CĐ đều đặc biệt coi trọng điều này, họ đã cân nhắc, bổ nhiệm nhiều cán bộ trẻ vào những chức vụ xứng đáng. Đồng thời, để khuyến khích các giảng viên trẻ thực sự trở thành lực lượng trụ cột trong các ngành khoa học, tất cả các trường đều cải tiến các hình thức kiểm tra, đánh giá và tạo ra nhiều cơ hội cho lớp trẻ được thử thách, rèn luyện họ thông qua các khoá học giảng dạy mở rộng, nâng cao trong các trường nổi tiếng hoặc tại các viện nghiên cứu ở nước ngoài.

Nhiều trường ĐH được sự đồng ý và hỗ trợ của Chính phủ đã thành lập nhiều quỹ làm phần thưởng cho các học giả trẻ tuổi. Bên cạnh đó, các trường ĐH đều có chính sách ưu tiên trong phân phối nhà ở để động viên các tài năng trẻ.

Tất cả những cải cách, đổi mới chính sách giáo dục và mô hình đào tạo ĐH trên đây là cơ sở quan trọng để Trung Quốc thực hiện mục tiêu xây dựng các trường ĐH của họ thành những trường ĐH đẳng cấp quốc tế.

(4) Quản lý giảng dạy

Nhiều trường ĐH nhấn mạnh đến gắn lý thuyết với thực tiễn. Một số trường ĐH lớn đang từng bước thực hiện loại hình giảng dạy tư vấn (advisory teaching), ở đó chuyên gia tư vấn thuyết trình những chỉ dẫn khoa học cho sinh viên, còn sinh viên tiếp thu và học cách truyền cảm hứng. Giảng viên chuẩn bị bài giảng dưới hình thức thảo luận và gợi mở vấn đề cho người học suy nghĩ, từ đó khơi dậy sáng kiến và lòng nhiệt tình của sinh viên.

Một số biện pháp được đưa ra nhằm cải thiện chất lượng sinh viên tốt nghiệp. Đó là việc trợ cấp cho những nghiên cứu sinh xuất sắc xuất bản luận án tiến sỹ có chất lượng và cải thiện các tiêu chuẩn về hệ thống thông tin và đánh giá chất lượng để đảm bảo độ tin cậy trong đánh giá tốt nghiệp để cấp bằng cho các cấp như tiến sỹ, thạc sỹ và ĐH. Đưa ra các chuyên ngành mới, mở các khóa học mới, với cách thức giảng dạy mới. Bộ Giáo dục cũng đã đưa ra một số yếu tố khác để nâng cao chất lượng giảng dạy như: đổi mới cập nhật sách giáo khoa, đa dạng hoá cách giảng dạy, sử dụng các cách giảng dạy hiện đại trên cơ sở tiếp xúc, gợi mở cho họ đưa ra những ý tưởng mới…

2.5.2. Các bài học nhằm phát phát triển đội ngũ giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập Việt Nam



Một là: để nâng cao chất lượng của ĐNGV cần phải hình thành các tổ chức hợp lý, tạo ra diễn đàn để giảng viên phát biểu ý kiến phát triển chung của nhà trường, đồng thời phản ánh các nguyện vọng của mình nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

Đội ngũ học giả là linh hồn của cơ sở GDĐH, mặc dù Anh quốc áp dụng nguyên tắc của cơ chế thị trường trong giáo dục ĐH, tuy nhiên tiếng nói của đội ngũ học giả vẫn được coi trọng. Để phát triển ĐNGV cần tăng cường vai trò của hội đồng giảng viên trong các trường ĐH và CĐ. Kinh nghiệm của Anh quốc cho thấy, trước năm 1992 do vai trò của các nhà giáo được coi trọng nhưng sau năm 1992, do các trường ĐH hoạt động theo hình thức công ty, vì vậy quyền quản lý trong nhà trường tập trung vào hội đồng điều hành. Hội đồng học thuật tuy vẫn tồn tại, song quyền quyết định về phương hướng chung của nhiệm vụ học thuật và chương trình giảng dạy nằm trong tay hội đồng điều hành. Quyền lực của hội đồng học thuật so với hội đồng điều hành trong trường ĐH sau năm 1992 xếp vai trò thứ yếu nên chất lượng giáo dục giảm sút.



Hai là: phải nâng cao năng lực quản lý trong nhà trường, chú trọng việc đánh giá chất lượng giảng dạy và đề cao trách nhiệm của giảng viên.

Theo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, cuối học kỳ, trước kỳ thi hết môn, mỗi sinh viên được phát một mẫu “đánh giá giảng dạy”. Sinh viên được nhận xét về những điều bổ ích hay chưa bổ ích của môn học, ưu điểm và nhược điểm của môn học, ưu điểm và nhược điểm của người giảng dạy, các giáo sư không được can thiệp vào đánh giá này. Trong một chừng mực nhất định, dựa trên những đánh giá của sinh viên, các trường có thể thay đổi một phần nội dung môn học, khiến cho nó dễ được thu nhận hơn. Một số ĐH thông báo lại cho giáo sư bản tổng hợp những đánh giá của sinh viên đối với bài giảng của giáo sư này.

Ba là: phải có biện pháp thích hợp nhằm đề cao vai trò trách nhiệm của giảng viên, hình thành các tiêu chí cụ thể để giảng viên thực hiện, đồng thời làm cơ sở cho việc kiểm tra đánh giá giảng viên.

Bốn là: nới rộng phạm vi tự trị cho các trường ĐH, cho phép hiệu trưởng và ban giám hiệu nhà trường có quyền quyết định trong việc lựa chọn giảng viên, đồng thời tăng kinh phí nghiên cứu khoa học để ĐNGV nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với công tác giảng dạy.

Năm là: đa dạng hóa các nguồn kinh phí, thu hút các giảng viên giỏi trong và ngoài nước thông qua chế độ đãi ngộ và môi trường làm việc; Chú trọng công tác đào tạo giảng viên tại chỗ nhất là các giảng viên trẻ; Đẩy mạnh hợp tác giữa các trường ĐH với các doanh nghiệp và hợp tác giữa các trường ĐH với nhau.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2



Trong chương 2, luận án đã đề cập đến những vấn đề cốt lõi nhất để làm cơ sở cho việc nghiên cứu luận án. Tác giả đã khái quát các nội dung cơ bản của nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực. NNL của các trường ĐH, CĐ NCL bao gồm hai bộ phận chính là các cán bộ quản lý và ĐNGV, đây là bộ phận quan trọng nhất của NNL trong các trường ĐH và CĐ NCL. Phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL, từ đó xây dựng khái niệm, làm rõ nội dung, tiêu chí đánh giá phát triển NNL - ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL. Theo đó, phát triển NNL các trường ĐH, CĐ NCL là sự tăng tiến, chuyển biến theo chiều hướng tích cực của ĐNGV cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm hoàn thành mục tiêu giáo dục - đào tạo của trường ĐH, CĐ NCL, đáp ứng yêu cầu của nhà trường và xã hội.

Nghiên cứu sinh cũng lựa chọn các nước: Pháp, Anh, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc để khảo sát kinh nghiệm phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL, từ đó rút ra các bài học cho phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL Việt Nam.

Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG NGOÀI CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM

3.1. Khái quát về các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập Việt Nam

3.1.1. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ảnh hưởng đến phát triển các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập ở Việt Nam

Sau hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước trong đó có những nội dung liên quan đến đổi mới giáo dục đại học, với phương châm "Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", nhìn một cách tổng thể, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với giáo dục từ năm 1986 đến nay có những nội dung cơ bản sau:


- Đổi mới tư duy giáo dục từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Giáo dục là quốc sách hàng đầu và coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.

- Đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chủ trương, chính sách và kế hoạch phát triển giáo dục trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.

- Thực hiện dân chủ hoá và bình đẳng mọi cơ hội trong giáo dục cho mọi người với phương châm "Đảng, Nhà nước và toàn dân chăm lo cho giáo dục" và "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", đồng thời xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân trong giáo dục.

- Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng toàn diện trong dạy chữ, dạy người và dạy nghề để có được nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với quá trình đòi hỏi của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

- Đa dạng hoá giáo dục - đào tạo, đa phương hoá nguồn lực cho giáo dục theo hướng xã hội hoá giáo dục và xây dựng xã hội học tập, trong đó mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện để học tập suốt đời.

- Đổi mới giáo dục phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đồng thời phải biết huy động, khai thác tốt nhất nguồn lực ngoài Nhà nước và khu vực, quốc tế.

- Tăng quyền tự chủ và tính trách nhiệm cho từng cơ sở giáo dục, cho từng cá nhân và giáo dục giúp mọi người nâng cao được năng lực tự lập nghiệp, tự làm giàu, tự làm chủ cuộc sống của mình góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng văn minh.

- Kiên định sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới giáo dục. Sớm đưa giáo dục lên tầm cao mới theo hướng giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc và nhanh chóng hiện đại hoá giáo dục, mở rộng quan hệ hợp tác, chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá.

Bước ngoặt đối với GDĐH NCL là Luật Giáo dục 2005 và Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 2/8/2006 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục. Theo các văn bản quy phạm pháp luật, thì từ năm 2006 loại hình bán công và dân lập đã bị xóa sổ, chỉ còn hai loại hình là công lập và tư thục.

Ngày 11 tháng 05 năm 2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/2011/NĐ-CP nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006, trong đó có một số nội dung liên quan đến các trường NCL. Đối với ĐNGV, Nghị định quy định, người tốt nghiệp các trình độ đào tạo muốn trở thành nhà giáo mà chưa qua đào tạo về nghiệp vụ sư phạm thì phải được bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm…

Đặc biệt Luật Giáo dục Đại học 2012, có hiệu lực ngày 01/01/2013, với nhiều điều, khoản liên quan đến hoạt động của các trường ĐH, CĐ NCL. Đây chính là hành lang pháp lý vững chắc để loại hình trường ĐH, CĐ NCL phát triển.

Sau khi Luật Giáo dục đại học năm 2012 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành, Đảng và Nhà nước rất quyết tâm đổi mới giáo dục thể hiện là: ngày 04 tháng 11 năm 2013 Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tiếp theo đó, ngày 09 tháng 6 năm 2014 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 44/NQ-CP về Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Ngày 25 tháng 7 năm 2014, Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số: 2653/QĐ-BGD&ĐT về Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Nội dung Quyết định đề ra hai mục tiêu: 1/ Xác định những nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu của ngành giáo dục để triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW; 2/ Kế hoạch hành động là căn cứ để Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan quản lý giáo dục các cấp và các cơ sở giáo dục xây dựng kế hoạch triển khai và chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 44/NQ-CP của Chính phủ.

Chín nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: 1/ Tăng cường công tác tuyên truyền về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; 2/ Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân; 3/ Đổi mới chương trình giáo dục các cấp học và trình độ đào tạo; 4/ Đổi mới hình thức, phương pháp dạy học, kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo; 5/ Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ, công chức, viên chức quản lý giáo dục; 6/ Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo; 7/ Đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo; 8/ Tăng cường cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo; 9/ Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục và đào tạo.

3.1.2. Quá trình hình thành và phát triển các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập

Trung tâm đại học dân lập Thăng Long tại Hà Nội được thành lập năm 1988, tiền thân của Đại học Thăng Long ngày nay, cũng là cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập đầu tiên ở nước ta. Với sự thành công của 5 năm thí điểm, trên cơ sở Trung tâm ĐHDL Thăng Long, vào tháng 8-1994, Trường ĐHDL Thăng Long chính thức được thành lập. Đây chính là trường ĐH NCL đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất, thể hiện tư tưởng đổi mới của Đảng ta trong lĩnh vực GD&ĐT. Lịch sử phát triển các trường NCL tại Việt Nam có thể chia làm hai giai đoạn chủ yếu như sau.

Giai đoạn 1: Từ năm 1995-2000 là giai đoạn đầu của sự bùng nổ các trường dân lập, điển hình là các trường ĐHDL Đông Đô, ĐHDL Phương Đông, ĐHDL Thăng Long, ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, ĐHDL Hải Phòng, ĐHDL Hùng Vương, ĐHDL Văn Lang. Các trường trong giai đoạn này chủ yếu là do các nhà giáo có uy tín, những người từng lãnh đạo các trường ĐH công lập thành lập. Sự xuất hiện của các trường này đã đem lại một sinh khí mới cho môi trường giáo dục ĐH lúc đó, nhưng việc phát triển quá nóng và yếu kém trong quản trị đã dẫn tới không đảm bảo chất lượng.

Giai đoạn 2: Từ năm 2001-2015 được đánh dấu bởi sự công nhận các trường ĐH tư thục. Trong giai đoạn bùng nổ 2005-2009, số trường đã tăng từ 35 lên 77 và hiện nay là 90 trường, tức là gấp đôi chỉ trong 05 năm. Đây cũng là giai đoạn đánh dấu sự có mặt của trường ĐH quốc tế và các nhà đầu tư từ các doanh nghiệp như các trường ĐH RMIT, ĐH FPT, ĐH Tân Tạo...

Những trường ĐH mang dấu ấn doanh nghiệp này đã đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở vật chất và quản trị, nhưng không phải trường nào cũng thành công. Các trường ĐH NCL thành công là các trường thể hiện được sự khác biệt của mình với cả các trường công lập và NCL khác, những khác biệt này đáp ứng đúng nhu cầu cấp thiết của xã hội mà các trường công lập kém năng động không đáp ứng được. Một trong những yếu tố giúp các trường ĐH NCL thành công là nhờ quản trị chuyên nghiệp. Thể hiện của việc quản trị tốt là việc có một hệ thống tài chính lành mạnh. Một điều nữa giúp những trường ĐH NCL thành công chính là các trường này đã xây dựng được môi trường sư phạm lành mạnh. Nhiều trường NCL đã nêu cao tính “thực học - thực nghiệp” hay “học thật”… nhờ đó làm tăng uy tín của nhà trường đối với sinh viên, phụ huynh và xã hội.

Tuy nhiên, các trường như vậy không nhiều, phần lớn các trường ĐH NCL vẫn đang phải vật lộn với các bài toán ngắn hạn trước mắt. Những chính sách vĩ mô không ổn định, đánh giá sai lầm về đầu tư giáo dục vì lợi nhuận đã khiến các nhà đầu tư cảm thấy bất ổn và suy nghĩ ngắn hạn. Nhược điểm chính của các trường ĐH công lập hiện nay là thiếu động lực để đổi mới, trong lúc nhược điểm chính của các trường NCL là tầm nhìn ngắn hạn. Nếu khắc phục được, thì chính các trường NCL là nơi có động lực mạnh mẽ nhất để cải thiện chất lượng dạy và học- yếu tố quyết định chất lượng NNL của nước ta hiện nay.

Về số lượng các trường ĐH và CĐ NCL

Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xã hội hóa giáo dục đạt được những kết quả bước đầu... Cùng với các trường công lập, các trường ĐH, CĐ NCL đã và đang thể hiện được vai trò, chức năng của mình trong việc nâng cao chất lượng NNL nước ta. Hệ thống các trường ĐH và CĐ không ngừng phát triển. Từ một trung tâm thí điểm là Trung tâm ĐH dân lập Thăng Long năm 1988, thì đến năm học 2014- 2015 cả nước có 90 trường ĐH, CĐ NCL, trong đó bao gồm 61 trường ĐH và 29 trường CĐ.



Bảng 3.1. Số liệu về các trường ĐH và CĐ Việt Nam
giai đoạn 2004-2015


Năm học

Cả nước

Công lập

Ngoài công lập

Tổng số

Đại học

Cao đẳng

Tổng số

Đại học

Cao đẳng

Tổng số

Đại học

Cao đẳng

2004 - 2005

230

93

137

201

71

130

29

22

7

2005 -2006

255

104

151

221

79

142

34

25

9

2006 -2007

322

139

183

275

109

166

47

30

17

2007 - 2008

369

163

206

282

100

182

87

63

24

2008 - 2009

393

170

223

295

101

194

98

69

29

2009 -2010

403

176

227

300

103

197

103

73

30

2010 - 2011

414

191

223

306

113

193

108

78

30

2011 - 2012

419

195

224

337

125

212

82

66

12

2012 - 2013

424

198

226

343

134

209

81

64

17

2013-2014

415

195

238

344

135

226

89

61

28

2014-2015

423

198

226

344

135

226

90

61

29


tải về 2.15 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương