LUẬN Án tiến sĩ kinh tế HÀ NỘI 2017 BỘ KẾ hoạch và ĐẦu tư viện chiến lưỢc phát triểN



tải về 2.15 Mb.
trang7/10
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích2.15 Mb.
#38863
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Nguồn: [3]

Số giảng viên có trình độ ĐH và CĐ khối NCL năm 2001 là 2.403 người và năm 2012 là 7.807 người tăng 3,2%. Tương tự, số giảng viên có trình độ khác tăng 4,7%, tức là tăng từ 23 người năm 2001 lên 107 người năm 2012.

Tỷ trọng của số giảng viên ĐH và CĐ trong tổng số giảng viên của khối NCL giảm từ 53,1% năm 2001 xuống còn 43,2% năm 2012 (giảm 9,9%). Đối với số giảng viên trình độ khác, do có sự tăng mạnh về số lượng, nên tỷ trọng trong tổng số giảng viên của khối cũng tăng lên. Tuy nhiên, do số lượng quá ít nên tỷ trọng trong tổng số giảng viên của khối tăng không đáng kể, năm 2001 tỷ trọng này là 0,5% và năm 2012 là 0,6%. Đây cũng là nét khác biệt của khối NCL so với cả nước và khối công lập. Trong cùng thời gian nói trên tỷ lệ của số giảng viên khác so với tổng số giảng viên toàn khối cả nước và khối công lập giảm tương ứng là 0,7% và 0,8%.

Một nét khá nổi bật của giảng viên khối NCL là tỷ trong của số giảng viên có trình độ trên ĐH, cũng như số giảng viên có trình độ ĐH và CĐ trong khoảng thời gian trên biến động rất thất thường. Chiều hướng thay đổi của hai loại giảng viên này không biểu hiện rõ xu thế. Chẳng hạn, đối với giảng viên có trình độ trên ĐH năm 2006 chiếm tỷ trọng khá cao là 54,1%, vào năm 2009 tỷ trọng này giảm xuống còn 42,2% và sau đó lại tăng lên và đến năm 2012 chiếm tỷ trọng cao nhất trong toàn giai đoạn là 56%. Ngược lại số giảng viên có trình độ ĐH và CĐ lại chiếm tỷ trọng khá thấp là 45,2% và năm 2009 lại chiếm tỷ trọng cao nhất là 55,7% và năm 2012 lại chiếm tỷ trọng thấp nhất là 43,2%. Dường như có sự thay thế giữa giảng viên có trình độ trên ĐH với giảng viên có trình độ ĐH và CĐ trong khối NCL.



Chất lượng ĐNGV còn được thể hiện qua chất lượng hoạt động giảng dạy và chất lượng NCKH của giảng viên. Liên quan đến hoạt động giảng dạy, thực trạng hiện nay cho thấy có tình trạng quá tải giờ dạy của ĐNGV ĐH do việc thành lập ồ ạt các cơ sở GDĐH cùng với sự gia tăng nhanh chóng về quy mô đào tạo trong khi số lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy không tăng kịp theo tốc độ tăng quy mô. Thực tế này diễn ra phổ biến, đặc biệt là đối với giảng viên những môn chung như Triết học, Ngoại ngữ, Kinh tế chính trị… và giảng viên nhóm ngành hấp dẫn như Công nghệ thông tin, Ngân hàng, Tài chính kế toán... Có những giảng viên dạy 1.000 tiết/năm trong khi quy định là 260 tiết/năm. 




Hình 3.1. Cơ cấu giảng viên ĐH ngoài công lập
theo trình độ chuyên môn


Nguồn: [3]; [28].

Tình trạng quá tải giờ dạy diễn ra liên tục trong thời gian dài khiến cho rất nhiều giảng viên ĐH không còn thời gian dành cho học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không cập nhật được một cách thường xuyên các kiến thức, kỹ năng mới khiến cho nội dung bài giảng của họ nghèo nàn, lạc hậu và không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Phương pháp giảng dạy của một bộ phận không nhỏ giảng viên ĐH chậm được đổi mới, chủ yếu vẫn là thuyết trình theo kiểu thầy đọc - trò chép. Trong khi đó, công tác NCKH ở nhiều cơ sở đào tạo chưa được chú trọng đúng mức; nội dung NCKH của nhiều đề tài, dự án chất lượng không cao, tính thực tiễn và khả năng ứng dụng còn nhiều hạn chế, đôi khi chỉ nhằm đối phó hoặc để chấm điểm bình xét thi đua, xét phong danh hiệu.

Cùng với các nhà khoa học thuộc các viện nghiên cứu, các giảng viên tại các trường ĐH và CĐ phải là lực lượng nòng cốt trong việc nghiên cứu và ứng dụng các kết quả nghiên cứu đó vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giảng viên là lực lượng đồng thời phải thực hiện hai nhiệm vụ: giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hai nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ và tương hỗ lẫn nhau; nếu chỉ thực hiện được một trong hai nhiệm vụ ấy thì có nghĩa, người thầy đó chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình. Như vậy, nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu của mỗi giảng viên, nhất là với mục tiêu “mỗi trường ĐH là một viện nghiên cứu”.

Trong những năm vừa qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của ĐNGV trong các trường ĐH, CĐ đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của ngành giáo dục và nền khoa học nước nhà. Nhiều sáng kiến, phát minh được áp dụng vào thực tế, nhiều kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào các lĩnh vực đã tạo ra hiệu quả nhất định trong đời sống kinh tế- xã hội… Song, với sự phát triển nhanh chóng của đất nước như hiện nay thì có thể đánh giá một cách thẳng thắn: đội ngũ cán bộ khoa học nói chung, lực lượng giảng viên tại các trường ĐH, CĐ nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu (cả về số lượng và chất lượng) để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Trên thực tế, ở nước ta hiện nay đang thể hiện sự bất cập giữa nghiên cứu và giảng dạy trong ĐNGV: tại hầu hết các trường ĐH, dường như giảng viên đặt nặng hơn đối với việc giảng dạy và coi nhẹ hoạt động nghiên cứu.

3.3. Phân tích thực trạng các biện pháp phát triển nguồn nhân lực các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập ở Việt Nam

3.3.1. Về công tác quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập ở Việt Nam

Xuất phát từ yêu cầu, chiến lược phát triển, các trường ĐH, CĐ NCL đều có những dự báo đón đầu vì vậy công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, mà chủ yếu là ĐNGV được thường xuyên quan tâm gắn liền với sự phát triển của nhà trường. Hội đồng quản trị và Ban Giám hiệu của một số trường ĐH, CĐ NCL nhận thức được tầm quan trọng nên đã tích cực thực hiện công tác phát triển đội ngũ giảng viên. Mục tiêu của công tác qui hoạch phát triển ĐNGV ở các trường giai đoạn 2010-2015 là tuyển dụng mới ĐNGV ở các ngành nghề, đào tạo và bồi dưỡng số GV cơ hữu đạt trình độ theo qui định nhằm đáp ứng yêu cầu tăng qui mô đào tạo của trường, đào tạo bồi dưỡng số GV nòng cốt làm hạt nhân ở các khoa chuyên môn trong tổ chức xây dựng chương trình đào tạo theo qui định. Tùy điều kiện qui mô, thực trạng ĐNGV từng trường mà xây dựng các mục tiêu, nội dung và giải pháp thực hiện cụ thể để phát triển ĐNGV, và đều hướng tới mục tiêu là phát triển ĐNGV về số lượng, về cơ cấu ngành nghề, chuẩn hóa và nâng chất lượng ĐNGV đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực của địa phương, vùng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh một số ít trường ĐH, CĐ NCL quan tâm đến hoạt động quy hoạch phát triển ĐNGV, nhìn chung, trong hệ thống các trường ĐH, CĐ NCL ở Việt Nam hiện nay, công tác quy hoạch phát triển ĐNGV trong nhà trường còn nhiều hạn chế. Rất ít trường đưa ra được kế hoạch phát triển dài hạn từ 5 năm trở lên. Công tác quy hoạch dài hạn ở các trường ĐH, CĐ NCL chưa được thực hiện tốt, các chính sách về quy hoạch đội ngũ giảng viên chủ yếu là từ phía Chủ tịch Hội đồng quản trị quyết định.

Bảng 3.10. Tổng hợp đánh giá về về công tác quy hoạch phát triển ĐNGV



TT

Công tác quy hoạch phát triển ĐNGV

Điểm TB đánh giá

NQT

GV

1

Quy hoạch phát triển ĐNGV gắn liền với chiến lược phát triển trong dài hạn (5 năm trở lên)

3,11

2,83

2

Quy hoạch phát triển ĐNGV gắn liền với chiến lược phát triển trong trung hạn (từ 2-5 năm)

3,07

2,79

3

Quy hoạch phát triển ĐNGV gắn liền với chiến lược phát triển trong ngắn hạn (1 năm trở xuống)

3,12

2,85

4

Quy hoạch về số lượng GV cơ hữu đáp ứng yêu cầu giảng dạy các chương trình đào tạo

3,62

3,46

5

Công tác quy hoạch về chất lượng ĐNGV đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo

2,57

2,59

6

Công tác quy hoạch về cơ cấu ĐNGV

2,44

2,37

7

Quy hoạch phát triển ĐNGV đảm bảo đi tắt đón đầu, đáp ứng yêu cầu từng giai đoạn phát triển

3,20

2,54

8

Quy hoạch phát triển ĐNGV đảm bảo tính thống nhất từ cấp bộ môn cấp khoa và cấp trường

3,27

2,95

Điểm trung bình

2,99

2,92

Nguồn: Tác giả khảo sát

Kết quả khảo sát tại các trường ĐH, CĐ NCL cho thấy, công tác quy hoạch phát triển ĐNGV gắn liền với chiến lược phát triển ở các trường ĐHCĐ, NCL được khảo sát đã không được các nhà quản trị và GV đánh giá cao (lần lượt là 2,99 và 2,92). Điểm trung bình các tiêu chí đánh giá của nhà quản trị có phần cao hơn so với đánh giá từ phía GV.

Tiêu chí được các nhà quản trị và GV đánh giá cao nhất là quy hoạch về chất lượng ĐNGV đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo với điểm trung bình do các NQT đánh giá là từ 3,62 và các GV đánh giá là 3,46. Tiêu chí được đánh giá thấp trong công tác quy hoạch phát triển ĐNGV ở hầu hết các trường thuộc về tiêu chí quy hoạch phát triển ĐNGV gắn liền với chiến lược phát triển trong ngắn hạn và dài hạn.

Việc quy hoạch, kế hoạch phát triển ĐNGV của nhà trường, nhìn chung cũng chỉ đạt mức trung bình khá. Nhà trường cũng mới chỉ có một vài kế hoạch cho việc quy hoạch đội ngũ giảng viên. Vì là trường NCL nên mọi quy hoạch chưa diễn ra nhiều, phần lớn đều do sự sắp xếp của chủ tịch Hội đồng quản trị điều hành và chỉ đạo. Đây cũng là điểm hạn chế của nhà trường cần được khắc phục trong thời gian tới.

3.3.2. Về tuyển dụng và sử dụng giảng viên

Công tác tuyển dụng GV các trường ĐH, CĐ NCL về cơ bản được thể hiện trong Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Điều lệ trường Đại học, Quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐH, CĐ NCL.

- Về tiêu chuẩn của giảng viên các trường ĐH, CĐ NCL: phải có đủ các tiêu chuẩn quy định về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và sức khoẻ theo quy định pháp luật, cụ thể như sau:

Theo Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học, đã quy định cụ thể 5 tiêu chuẩn của giảng viên đại học; bao gồm: 1- Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; 2- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Có bằng thạc sĩ trở lên đối với giảng viên giảng dạy các môn lý thuyết của chương trình đào tạo đại học; có bằng tiến sĩ đối với giảng viên giảng dạy và hướng dẫn chuyên đề, luận văn, luận án trong các chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ; 3- Có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu công việc; 4- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; 5- Lý lịch bản thân rõ ràng.

Tại điểm e khoản 1 Điều 77 của Luật giáo dục quy định về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với GV giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng thạc sĩ trở lên đối với GV giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng tiến sĩ đối với GV giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận án tiến sĩ.

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 54 Luật Giáo dục Đại học quy định về chức danh của giảng viên bao gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư. Trình độ chuẩn của chức danh GV giảng dạy trình độ đại học là thạc sĩ trở lên. Trường hợp đặc biệt ở một số ngành chuyên môn đặc thù do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định.

- Về hình thức và phương thức tuyển dụng GV

Hình thức tuyển dụng gồm xét (sơ tuyển) và thi (sát hạch, phỏng vấn)

Xét: sơ tuyển thông qua hồ sơ, văn bằng, chứng chỉ được đào tạo, kết quả học tập, nghiên cứu trong quá trình được đào tạo và các nhận xét, đánh giá của cơ sở đào tạo hoặc của cơ quan đơn vị đã công tác.

Thi: Phỏng vấn trực tiếp để đánh giá khả năng sư phạm, khả năng ứng xử trong các tình huống trong khi giảng dạy, đánh giá sơ bộ về khả năng chuyên môn (có thể thông qua giảng thử). Thi năng lực sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học.

Điều 79 Luật Giáo dục quy định: “Nhà giáo của trường cao đẳng, trường đại học được tuyển dụng theo phương thức ưu tiên đối với sinh viên tốt nghiệp loại khá, loại giỏi, có phẩm chất tốt và người có trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có nguyện vọng trở thành nhà giáo. Trước khi được giao nhiệm vụ giảng dạy, giảng viên cao đẳng, đại học phải được bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm” [39].

Khoản 3 Điều 54 Luật Giáo dục Đại học quy định: Hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học ưu tiên tuyển dụng người có trình độ từ thạc sĩ trở lên làm giảng viên.

- Tổ chức tuyển dụng

+ Căn cứ vào nhu cầu công việc và kế hoạch biên chế của nhà trường, tuyển dụng theo kết quả từ cao xuống thấp.

+ Ưu tiên người có văn bằng tốt nghiệp Tiến sỹ (TS), Thạc sỹ (Ths) và có bằng tốt nghiệp ĐH loại giỏi, xuất sắc.

+ Cơ sở GDĐH có thể quy định chỉ tuyển người có bằng ThS, TS. Nhưng phải xem xét kết quả học đại học, phải từ loại khá trở lên [40].



Như vậy, theo quy định hiện hành, các trường ĐH, CĐ NCL được quyền chủ động tuyển dụng giảng viên nhưng phải đảm bảo theo các tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, văn bằng, chứng chỉ, chuyên ngành đào tạo, khả năng giảng dạy...mà Nhà nước quy định. Trong đó, ưu tiên tuyển chọn những người có bằng tốt nghiệp đại học từ loại khá trở lên, người đã có bằng thạc sĩ, tiến sĩ, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có phẩm chất tốt và có nguyện vọng trở thành giảng viên để bổ sung vào đội ngũ giảng viên của trường; đồng thời đảm bảo về định mức tỉ lệ SV/GV theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các trường ĐH, CĐ NCL cần xây dựng các tiêu chuẩn tuyển dụng và tổ chức hình thức tuyển chọn phù hợp với từng vị trí và chuyên môn công tác của giảng viên; đảm bảo quy trình tuyển dụng khách quan, công bằng.

Qua khảo sát thực tế ở 05 trường ĐH, CĐ NCL cho thấy, trong giai đoạn 2010-2015, các trường đã từng bước quan tâm tuyển dụng GV theo chuẩn trình độ đào tạo, chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, xem xét kết quả học tập và điều kiện triển vọng phát triển nghề nghiệp trong thời gian tới của các ứng viên. Đặc biệt nhiều trường xây dựng và thực hiện quy trình tuyển dụng trên tinh thần trách nhiệm, dân chủ, công khai và hiệu quả. Phát huy vai trò của khoa chuyên môn trong bước kiểm tra để đánh giá ứng viên về kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm và kỹ năng, đồng thời phân công GV nòng cốt phụ trách hướng dẫn, kèm cặp giúp đỡ GV mới được tuyển trong thời gian thử việc.

Các nhà quản trị tại các trường khảo sát đánh giá về công tác tuyển chọn và sử dụng ĐNGV ở hầu hết các tiêu chí đều cao hơn các GV. Điểm trung bình nhà quản trị cho với công tác này là 3,27 và GV là 3,11. Tiêu chí được đánh giá thấp nhất là khâu thông báo tuyển dụng và thu hút nguồn ứng viên tham gia. Điều này được lý giải là do việc đăng thông báo tuyển dụng chưa được làm đúng với quy trình đã quy định.

Bảng 3.11. Tổng hợp đánh giá về công tác tuyển chọn và sử dụng ĐNGV



TT

Công tác tuyển chọn và sử dụng ĐNGV

Điểm TB đánh giá

NQT

GV

1

Việc tuyển chọn được xây dựng thành các quy định có tiêu chí tuyển chọn rõ ràng, khoa hoc

3,13

3,03

2

Kế hoạch tuyển chọn được xây dựng khoa học

3,21

3,14

3

Công tác xây dựng quy trình tuyển chọn

3,33

3,17

4

Thông báo tuyển dụng công khai, đầy đủ thông tin và thu hút được nhiều ứng viên

3,10

2,90

5

Kết quả công tác tuyển dụng lựa chọn được những người có năng lực, đáp ứng yêu cầu

3,44

3,33

6

ĐNGV được bố trí sử dụng theo đúng năng lực

3,53

3,34

7

ĐNGV được bố trí sử dụng mang tính chiến lược

3,11

2,89

Điểm trung bình

3,27

3,11


tải về 2.15 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương