LUẬN Án tiến sĩ kinh tế HÀ NỘI 2017 BỘ KẾ hoạch và ĐẦu tư viện chiến lưỢc phát triểN


Vai trò của các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập



tải về 2.15 Mb.
trang3/10
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích2.15 Mb.
#38863
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10
2.2.2. Vai trò của các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập

Một là, hệ thống các trường NCL tuy chưa phát triển như mong muốn, nhưng đã có những nỗ lực vượt khó khăn, tìm tòi cách đi, cách hoạt động, gánh vác một phần tải trọng giáo dục đại học của cả nước, mở rộng cơ hội học đại học, học nghề của nhân dân.

Hai là, các trường NCL đã huy động được nguồn lực lớn và đa dạng ngoài ngân sách Nhà nước cho GDĐH. Việc thành lập các cơ sở GDĐH NCL trong thời gian qua không chỉ tạo cơ hội cho hàng trăm nghìn người được tiếp nhận học vấn đại học, đảm bảo công ăn việc làm cho hàng nghìn giảng viên, mà còn huy động được nguồn lực tài chính khá lớn cho GDĐH. Tổng số vốn điều lệ đăng ký thành lập các trường này đến nay là 1.555 tỷ đồng. Năm 2014 tổng thu học phí từ các trường NCL là 2.850 tỷ đồng. Quy mô sinh viên là 218.200 người, đội ngũ giảng viên có 7.718 người [3], [4].

Ba là, nhiều trường đã khẳng định được chất lượng, tạo được niềm tin trong xã hội như Đại học FPT, Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Thăng Long, Đại học Hoa Sen...Việc hình thành và phát triển các cơ sở giáo dục đại học NCL trong thời gian qua đã góp phần nâng cao năng lực giáo dục đại học, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội và và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong giáo dục đại học ở Việt Nam. Các trường đã tạo công việc cho hàng nghìn cán bộ và giảng viên, huy động được nguồn lực to lớn của xã hội để hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước. Sự ra đời của các trường ngoài công lập cũng đã có tác động mạnh mẽ đến hệ thống các trường công lập trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng vào sự nghiệp giáo dục của đất nước;

Bốn là, tuy các trường đại học NCL còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong việc tạo dựng cơ sở vật chất, đội ngũ CB, GV và kinh nghiệm tổ chức đào tạo nhưng phương thức này cho phép huy động được sự đóng góp của các nhà đầu tư để xây dựng trường, góp phần thực hiện xã hội hóa GDĐH, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và đào tạo nguồn nhân lực trong điều kiện ngân sách giáo dục của Nhà nước còn hạn hẹp.

Năm là, việc mở rộng quy mô phát triển trường ĐH, CĐ NCL đã góp phần đáp ứng nhu cầu học tập của người dân, góp phần hoàn thành mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đề. Trong đó số sinh viên do các trường ngoài công lập đào tạo chiếm khoảng 15% số sinh viên cả nước. Mục tiêu đề ra đối với các trường NCL phấn đấu đến năm 2020 các trường NCL đào tạo chiếm 40% số sinh viên cả nước.

Sáu là, phát triển của các trường đại học, CĐ NCL nhằm tìm kiếm giải pháp và mô hình ĐH NCL năng động, hiệu quả, có sức sống nội lực mạnh mẽ đảm bảo duy trì và phát triển về quyền lợi của các nhà đầu tư, đồng thời để tự khẳng định mình và khẳng định sự đúng đắn của chủ trương phát triển mạng lưới trường ĐH ngoài công lập của Đảng và Nhà nước.

Bảy là, các trường NCL phát triển mạnh và có những trường là mô hình đối chứng về tổ chức quản lý, về hiệu quả đào tạo trong việc quản lý, sử dụng, phát huy tài sản nhân lực vật lực trong giáo dục đào tạo. Đây chính là động cơ để các trường công lập và NCL có sự cạnh tranh lành mạnh để tiến tới bình đẳng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH và HĐH của đất nước.

2.3. Phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập

2.3.1. Nguồn nhân lực trong các trường đại học và cao đẳng ngoài công lập

Nguồn nhân lực trong nhà trường đại học được hiểu là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý nhà trường và nhân viên phục vụ mà trung tâm là đội ngũ giảng viên. Đội ngũ giảng viên là tập hợp những người làm nghề dạy học giáo dục, được tổ chức thành một lực lượng cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập thể đó, tổ chức đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ qui định của pháp luật, thể chế xã hội. Như vậy, theo nghĩa hẹp, đội ngũ giảng viên là những thầy giáo, cô giáo, những người làm nhiệm vụ giảng dạy và quản lý giáo dục trong các trường ĐH&CĐ.

Nếu xét trên phương diện nguồn nhân lực thì ĐNGV chính là nguồn nhân lực chất lượng cao và ĐNGV có những đặc điểm sau:

- Những thành viên trong đội ngũ đã được tuyển chọn tương ứng với một hệ thống các tiêu chí về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và năng lực nghề nghiệp;

- Các thành viên được liên kết với nhau trên cơ sở thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng mà Nhà nước đã giao phó đối với hoạt động đào tạo ở ĐH;

- Mỗi thành viên, mỗi bộ phận của đội ngũ thực hiện những chức trách và nhiệm vụ chuyên biệt tùy thuộc vào vị trí và đặc điểm của môi trường hoạt động, song đều chịu sự quản lí thống nhất về thể chế, về tổ chức, về chuyên môn theo qui định của Nhà nước;

- ĐNGV hoạt động trong môi trường đào tạo nhằm hình thành nhân cách nghề nghiệp cho đối tượng đào tạo, vì thế nó mang đậm sắc thái văn hóa sư phạm trong các mối quan hệ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò, giữa nhà trường với xã hội. Đội ngũ giảng viên bao gồm cán bộ giảng dạy lý thuyết và thực hành. Đây là bộ phận quan trọng nhất của NNL trong các trường ĐH và CĐ NCL. Nhiệm vụ chủ yếu của đội ngũ giảng viên trong các trường ĐH và CĐ NCL là giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đây là bộ phận có vai trò vô cùng quan trọng, là yếu tố quyết định sự phát triển của một cơ sở GD&ĐT.

Giảng viên là chức danh nghề nghiệp làm công tác giảng dạy ở các trường ĐH, CĐ. Điều 70, Luật giáo dục, đã nêu rõ: “Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, hoặc các cơ sở giáo dục khác. Nhà giáo dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên, ở cơ sở giáo dục ĐH và sau ĐH gọi là giảng viên” [39]. Vậy giảng viên là nhà giáo ở các cơ sở giáo dục ĐH và sau ĐH.

Nhà giáo có các phẩm chất sau đây:

- Phẩm chất, đạo đức tư tưởng tốt

- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ

- Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp

- Lý lịch bản thân rõ ràng

Luật giáo dục cũng đã quy định đầy đủ quyền hạn của giảng viên.

Đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội ngày càng cao, đòi hỏi giáo dục ĐH cần có các yêu cầu cao về năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức đối với người giảng viên ĐH. Vì vậy, người giảng viên ĐH cần phải phấn đấu để có trình độ hơn hẳn mặt bằng đào tạo và phải thường xuyên tiếp cận tri thức mới, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp để có thể phục vụ tốt sự nghiệp giáo dục được coi là “quốc sách hàng đầu” của quốc gia.

Người giảng viên ĐH trước tiên phải có trình độ nhất định về sư phạm, nắm được các nguyên tắc cơ bản của giáo dục học, tâm lý học, đặc điểm của đối tượng giáo dục, phương thức tiến hành giáo dục,…đồng thời họ phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống,… để thực sự là tấm gương sáng cho người học noi theo.

Người giảng viên ĐH là nhà khoa học có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, có phẩm chất và năng lực tư duy khoa học của nhà nghiên cứu, thường xuyên tham gia nghiên cứu khoa học, nắm bắt kịp thời các thông tin khoa học mới, kiến thức mới để truyền đạt lại cho sinh viên. Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ chủ yếu của người giảng viên.

Phẩm chất chính trị của nhà giáo được Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao. Người cho rằng: “Có chuyên môn mà không có chính trị giỏi thì dù học giỏi mấy dạy trẻ con cũng hỏng”. Vì vậy, đòi hỏi người giảng viên phải có một bản lĩnh chính trị vững vàng.

Đối với mỗi đối tượng, yêu cầu và mức độ rèn luyện bản lĩnh chính trị là khác nhau. Với người giảng viên, thì điều quan trọng không chỉ có nhận thức chính trị đúng, mà còn phải có khả năng xử lý được những tình huống chính trị ở mức độ nhất định.

Bất kỳ nghề nào nếu người lao động muốn giỏi nghề và cống hiến được nhiều trong hoạt động nghề nghiệp thì phải tâm huyết với nghề. Lòng yêu nghề sẽ tạo động lực rất lớn cho hoạt động sáng tạo và sự phấn đấu vươn lên của mỗi người giảng viên.

Lao động nghề nghiệp của người giảng viên là lao động sư phạm ĐH, một loại hình lao động đặc biệt. Tìm hiểu đặc điểm của loại hình lao động đặc biệt này giúp ta tìm ra được các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ giảng viên phù hợp. Một số nét đặc trưng cơ bản trong lao động sư phạm của người giảng viên đó là:

- Đặc trưng về đối tượng lao động: Đối tượng tác động chủ yếu của người giảng viên là những sinh viên ĐH, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Trong đó, phần lớn là thanh niên - lực lượng trẻ, khoẻ, rất năng động và nhiệt tình, có khả năng tiếp nhận tri thức mới nhanh chóng và nhạy bén trước đời sống hiện thực. Nhiệm vụ của người viên là bằng lao động sáng tạo của mình (thông qua hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của bản thân), bằng phẩm chất và năng lực của nhà giáo, tác động vào các đối tượng trên nhằm đào tạo ra những người lao động có trí tuệ, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về NNL chất lượng cao cho đất nước.



- Đặc trưng về công cụ lao động: Công cụ lao động chủ yếu và quan trọng nhất của lao động sư phạm chính là bản thân người thầy giáo với toàn bộ nhân cách của người thầy, bao gồm: Tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, niềm tin, lối sống, nếp sống, tri thức, trong đó tri thức có vai trò rất quan trọng. Chính năng lực và phẩm chất của người thầy có sức lối cuốn, khích lệ rất lớn đối với sinh viên trong quá trình học tập, nghiên cứu. Nhân cách người thầy càng hoàn hảo thì công cụ lao động của người thầy càng sắc bén, là điều kiện thuận lợi để người thầy đạt hiệu quả cao trong lao động sáng tạo của mình.

- Đặc trưng về sản phẩm lao động: Sản phẩm lao động sáng tạo của người giảng viên ĐH là nhân cách của người học, gồm toàn bộ các giá trị về thể chất và tinh thần của người học sau khi trải qua quá trình đào tạo của một khoá học (họ trở thành những người lao động trí thức với đầy đủ các phẩm chất và năng lực cần có trong một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp nhất định) và những kết quả nghiên cứu khoa học.

Sản phẩm lao động sáng tạo của người giảng viên ĐH rất khó xác định được một cách cụ thể về mặt định lượng mà chủ yếu được đánh giá gián tiếp thông qua giá trị khoa học của bài giảng (lượng thông tin, phương pháp tiếp cận, sự nhận thức, tiếp thu của sinh viên), giá trị lý luận và thực tiễn của những phát minh khoa học mà họ tạo ra. Tất cả những sản phẩm đó không chỉ đánh giá đơn thuần bằng những con số cụ thể, ngay lập tức, mà có khi phải vài năm, thậm chí hàng chục năm sau, những phát minh khoa học, tiềm năng của sinh viên ra trường mới phát huy tác dụng và nở rộ khi gặp điều kiện thích hợp.

- Đặc trưng về giáo dục: Khác với giáo dục phổ thông, giáo dục ĐH khác cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp. Giáo dục phổ thông nhằm dạy cho học sinh ở tuổi vị thành niên những kiến thức phổ thông cơ bản về thế giới và xã hội. Còn đối tượng của giáo dục ĐH là sinh viên, họ phải học một lượng kiến thức tổng hợp rộng và sâu hơn so với phổ thông, sau đó tập trung học kiến thức chuyên ngành và những bộ môn khoa học có liên quan để trở thành những chuyên gia của ngành đó. Phương pháp dạy và học chủ yếu theo phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học. Giảng viên là người tổ chức các hoạt động học tập, tìm tòi, sáng tạo của sinh viên. Luôn cải tiến phương pháp dạy học, xây dựng môi trường GD-ĐT tích cực tạo mọi điều kiện phát huy năng lực, trí tuệ, tư duy của sinh viên, kết hợp hài hoà giữa học thầy với học bạn. Người thầy phải có sự chuẩn bị kỹ về nội dung và sáng tạo trong phương pháp, với phương pháp hợp lý thúc đẩy tính tích cực, chủ động tự giác trong học tập của sinh viên, động viên cổ vũ kịp thời sự sáng tạo của họ, giúp họ không ngừng vươn lên trong học tập và lao động sáng tạo.

- Đặc trưng về môi trường: Môi trường lao động của người giảng viên là một môi trường đặc biệt, trong đó các yếu tố giáo dục mang tính văn hoá, đạo đức rất cao, do đó việc học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống, phải rất được coi trọng. Người thầy, người giảng viên phải thực sự là tấm gương sáng cho những trí thức trẻ tương lai noi theo.

Như vậy, giảng viên là những người lao động trí thức, với đặc trưng lao động trí tuệ sáng tạo, họ là những người làm công tác giảng dạy, trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục ĐH nhằm đào tạo NNL có trình độ cao, bồi dưỡng và phát triển nhân tài cho đất nước, là lực lượng chủ yếu giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường. Năng lực của đội ngũ giảng viên là yếu tố quyết định chất lượng giảng dạy và học tập của các cơ sở giáo dục ĐH và CĐ. Ngoài năng lực chuyên môn là giảng dạy, một yêu cầu khác đối với người giảng viên là phải tích cực trong các hoạt động nghiên cứu khoa học. Để đạt được mục tiêu này ngoài sự vươn lên của mỗi một giảng viên, thì vai trò không kém phần quan trọng thuộc về các cơ sở đào tạo. Phát triển NNL mà cụ thể là phát triển đội ngũ giảng viên là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với các trường ĐH và CĐ ngoài công lập.

2.3.2. Khái niệm, nội dung phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập

Đội ngũ giảng viên là NNL cơ bản của nhà trường ĐH, do vậy theo phạm vi nghiên cứu của luận án đã xác định, phát triển NNL trong nhà trường CĐ, ĐH chính là phát triển đội ngũ giảng viên. Như vậy, phát triển NNL, mà trước hết là phát triển ĐNGV trong các trường ĐH, CĐ NCL là kết quả tổng hợp của nhà nước, nhà trường và mỗi một cá nhân nhằm cải biến về số lượng, hợp lý về cơ cấu và nâng cao về chất lượng của ĐNGV.

Tuỳ theo mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ của nhà trường, cơ sở đào tạo mà phát triển ĐNGV có thể theo 3 chiều hướng khác nhau:

- Lấy việc phát triển cá nhân người giảng viên làm trọng tâm. Đó là việc tạo ra sự chuyển biến tích cực của các giảng viên trên cơ sở nhu cầu mà họ đặt ra. Điều đó nhằm khuyến khích tài năng, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ và như vậy là thúc đẩy sự phát triển nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ.

- Lấy phát triển nhà trường làm trọng tâm, thì rõ ràng mục tiêu của nhà trường là cơ sở cho việc phát triển ĐNGV. Điều này thường tạo ra suy nghĩ cho rằng: Phát triển ĐNGV là công việc của nhà trường, là việc thực hiện mục tiêu của nhà trường với tư cách là thực hiện một nhiệm vụ do cấp trên (lãnh đạo nhà trường) giao cho mà người giảng viên phải thực hiện chứ không phải là nhu cầu của giảng viên. Do đó, đã tạo ra một sức ỳ đáng kể, hạn chế sự tích cực, sáng tạo của ĐNGV. Dẫn tới hiệu quả công tác phát triển ĐNGV thường là thấp.

- Phát triển ĐNGV trên cơ sở phát triển cá nhân giảng viên đồng thời với việc thực hiện mục tiêu nhà trường. Với quan điểm này thì phát triển ĐNGV được xem như một quá trình mà trong đó nhà trường và cá nhân giảng viên được đồng thời coi là trọng tâm. Đây là quan điểm mang tính hợp tác, vì cho rằng: Các nhu cầu phát triển của nhà trường cũng quan trọng như các nhu cầu phát triển của giảng viên, vì vậy cả 2 loại nhu cầu đều cần phải cân nhắc, được hoà hợp và cân bằng với nhau thì công tác phát triển ĐNGV mới đạt kết quả tốt.

Như vậy, mỗi quan điểm đều có những điểm tích cực, điểm hạn chế riêng. Vấn đề đặt ra là mỗi nhà trường cần xem xét vận dụng trên cơ sở thực trạng của tổ chức để có bước đi thích hợp, sao cho ĐNGV khi tiếp cận nhu cầu nhà trường đều thấy có nhu cầu của mình trong đó, tạo cho họ sự hứng thú, say mê và yên tâm với nghề nghiệp.

Chỉ thị 40/CT-TƯ ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về việc “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” nêu rõ: Mục tiêu chiến lược phát triển GD&ĐT là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo... để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Từ những phân tích trên đây, luận án cho rằng, phát triển NNL các trường ĐH, CĐ NCL là sự tăng tiến, chuyển biến theo chiều hướng tích cực của ĐNGV cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm hoàn thành mục tiêu giáo dục - đào tạo của trường ĐH, CĐ NCL, đáp ứng yêu cầu của nhà trường và xã hội.

Phát triển NNL các trường ĐH, CĐ NCL bao gồm những nội dung sau:



Một là, phát triển về mặt số lượng:

Số lượng giảng viên phản ánh quy mô của ĐNGV của mỗi nhà trường. Số lượng ĐNGV của mỗi trường phụ thuộc vào quy mô phát triển của nhà trường, nhu cầu đào tạo và các yếu tố tác động khách quan khác, như: chỉ tiêu biên chế của trường, các chính sách đối với ĐNGV... Phát triển ĐNGV về số lượng là để đảm bảo đủ giảng viên cần thiết đáp ứng được quy mô đào tạo, đảm bảo tính chủ động trong việc phân công giảng dạy của trường. Số giảng viên cần thiết được xác định bằng tổng số giờ trong 1 năm/ số giờ định mức của mỗi giảng viên. Việc phát triển đủ số lượng giảng viên cần thiết để đảm bảo số giờ giảng dạy của giảng viên không vượt quá số giờ theo quy định.



Hai là, phát triển về chất lượng

Phát triển ĐNGV về chất lượng là quá trình nâng cao phẩm chất, trình độ và năng lực của giảng viên.

Phẩm chất ĐNGV trước hết được biểu hiện ở phẩm chất chính trị, là yếu tố giúp cho người giảng viên có bản lĩnh vững vàng trước những biến động của xã hội. Trên cơ sở đó thực hiện hoạt động giáo dục toàn diện, định hướng xây dựng nhân cách cho học sinh - sinh viên có hiệu quả.

Trình độ của ĐNGV là yếu tố phản ánh khả năng trí tuệ của đội ngũ này, là điều kiện cần thiết để cho họ thực hiện hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trình độ của ĐNGV trước hết được thể hiện ở trình độ được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Trình độ của ĐNGV còn được thể hiện ở khả năng tiếp cận và cập nhật của đội ngũ này với những thành tựu KHCN mới của thế giới, những tri thức khoa học hiện đại, những đổi mới trong GD&ĐT để vận dụng trực tiếp vào hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của mình. Mặt khác, trong xu thế phát triển của xã hội hiện đại, ngoại ngữ và tin học cũng là những công cụ rất quan trọng giúp người giảng viên tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến của thế giới, tăng cường hợp tác và giao lưu quốc tế để nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Hiện nay, trình độ về ngoại ngữ tin học của ĐNGV đã và đang được nâng cao, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập.

Năng lực ĐNGV là khả năng giảng dạy và nghiên cứu khoa học, nói đến năng lực của ĐNGV, cần phải xem xét trên hai góc độ chủ yếu là năng lực giảng dạy và năng lực nghiên cứu khoa học. Năng lực giảng dạy của người giảng viên là khả năng đáp ứng yêu cầu học tập, nâng cao trình độ học vấn của đối tượng; là khả năng đáp ứng sự tăng quy mô đào tạo; là khả năng truyền thụ tri thức mới cho sinh viên. Năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên thể hiện khả phát hiện các vấn đề nghiên cứu, triển khai nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến kết quả nghiên cứu vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội…

Ba là, chuyển biến, hoàn thiện về cơ cấu

Phát triển ĐNGV hợp lý về cơ cấu là việc đảm bảo hài hòa các thành phần trong một thể thống nhất hoàn chỉnh. Trong đó:

Phát triển hài hòa về chuyên môn là việc đảm bảo tỷ lệ giảng viên hợp lý giữa các đơn vị trong nhà trường phù hợp với quy mô và nhiệm vụ đào tạo của từng chuyên ngành đào tạo.

Hài hòa về lứa tuổi là đảm bảo sự cân đối giữa các thế hệ trong nhà trường, tránh sự hụt hẫng về ĐNGV trẻ kế cận, cần có thời gian nhất định để thực hiện chuyển giao giữa các thế hệ giảng viên.

Hài hòa về giới tính là việc đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa giảng viên nam và giảng viên nữ trong từng khoa, bộ môn và chuyên ngành được đào tạo của nhà trường.

Hài hòa về chính trị là việc duy trì sự cân đối về tỷ lệ giảng viên trong các tổ chức chính trị - xã hội như: Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn… giữa các phòng, khoa, bộ môn trong nhà trường.

Trong các trường ĐH và CĐ NCL, tiêu chí quan trọng đối với phát triển ĐNGV về cơ cấu là tỷ lệ giữa giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng. Theo Thông tư số 29/2011/TT-BLĐTBXH ngày 24 tháng 10 năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thì tỷ lệ giảng viên, giảng viên cơ hữu ít nhất là 70% trong tổng số giảng viên, giảng viên đối với trường ĐH, CĐ.

Việc phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL do nhiều cấp thực hiện. Trong xu thế đổi mới căn bản công tác quản lý GD&ĐT hiện nay, các trường ĐH, CĐ NCL được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự, tài chính, chất lượng đầu ra... Từ đó, tham gia vào phát triển ĐNGV ĐH, CĐ các trường ĐH, CĐ NCL có nhiều chủ thể quản lý, với vai trò và trách nhiệm khác nhau.



* Hiệu trưởng nhà trường

- Xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV của nhà trường

- Ban hành các quy định về nâng cao trình độ, thực hiện nghĩa vụ giảng dạy, NCKH và dịch vụ xã hội của GV nhà trường;

- Tổ chức bồi dưỡng, đào tạo lại ĐNGV của nhà trường;

- Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của GV nhà trường;

- Tổ chức tuyển dụng, thi nâng ngạch và bổ nhiệm GV của nhà trường..



* Trưởng các khoa chuyên ngành

- Xây dựng kế hoạch phát triển ĐNGV của khoa/ngành;

- Tổ chức hoạt động giảng dạy, NCKH của GV khoa/ngành;

- Quản lý GV của khoa/ngành;

- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho GV của khoa/ngành;

- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho GV của khoa/ngành;

- Tổ chức đánh giá GV của khoa/ngành

* Trưởng các phòng ban chức năng

- Tham mưu và giúp Hiệu trưởng trong việc xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV của nhà trường;

- Tham mưu và giúp Hiệu trưởng trong việc ban hành các quy định về nâng cao trình độ, thực hiện nghĩa vụ giảng dạy, NCKH và dịch vụ xã hội của GV nhà trường;

- Tham mưu và giúp Hiệu trưởng trong việc tổ chức bồi dưỡng, đào tạo lại ĐNGV của nhà trường;

- Tham mưu và giúp Hiệu trưởng trong việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho GV của nhà trường;

- Tham mưu và giúp Hiệu trưởng trong việc tổ chức tuyển dụng, thi nâng ngạch và bổ nhiệm GV của nhà trường...

2.3.3. Các biện pháp phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập

Một là, xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên

Xây dựng quy hoạch là công việc đầu tiên nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ĐNGV nói chung, ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL nói riêng. Nếu làm tốt công tác quy hoạch sẽ bảo đảm đủ về số lượng, cơ cấu ĐNGV ĐH, CĐ cho từng ngành đào tạo.



Để việc xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL có cơ sở khoa học, các trường cần dựa trên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương; tỷ lệ GV/SV; trình độ đào tạo của GV... Bên cạnh đấy, việc xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV ĐH, CĐ phải đảm bảo những đặc trưng của ĐN về số lượng, cơ cấu và chất lượng.

Quy hoạch phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL bao gồm các nội dung sau cụ thể đây:

- Quy hoạch về số lượng và cơ cấu ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL: trên cơ sở chiến lược, kế hoạch phát triển của hệ thống các trường ĐH, CĐ và tình hình phát triển kinh tế - xã hội cần dự báo được số lượng NNL cần thiết theo cơ cấu hợp lý. Cơ cấu ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL hợp lý là cơ cấu phù hợp với cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực đào tạo của các trường ĐH, CĐ NCL. Điều này có thể nhận biết ở việc đưa ra định mức (số lượng) sử dụng lao động ở ngành, mỗi lĩnh vực chuyên môn đào tạo.

- Quy hoạch về chất lượng ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL: căn cứ định hướng và mục tiêu chiến lược trong phát triển của các trường ĐH, CĐ NCL, hoạch định chất lượng ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL cần đưa ra được yêu cầu về chất lượng ĐNGV trong giai đoạn thực hiện. Các yêu cầu này thể hiện ở số lượng lao động có năng lực cần thiết nhằm đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ của từng vị trí công tác, từng chuyên môn giảng dạy. Đây là một nội dung đặc trưng của quy hoạch phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL về chất lượng so với quy hoạch NNL thường chỉ quan tâm tới số lượng lao động.

Thông qua hai nội dung trên, công tác qui hoạch dự báo được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng, tức số lao động đủ năng lực cần thiết của ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL phục vụ yêu cầu phát triển của từ trường. So sánh các yêu cầu trên với kết quả đánh giá ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL hiện có sẽ xây dựng được quy hoạch tổng thể phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL trong thời kỳ, từ đó cũng đưa ra được kế hoạch phát triển ĐNGV dài hạn và hàng năm của các trường ĐH, CĐ NCL.

- Hoạch định phương hướng phát triển, xây dựng chiến lược, các cơ chế và chính sách để quản lý và triển khai phát triển ĐNGV của từng trường tham gia hệ thống các trường ĐH, CĐ NCL. Đây cũng là một nội dung quan trọng của công tác quy hoạch phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL.

Yêu cầu đặt ra đối với phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL là chiến lược phát triển ĐNGV phải được tích hợp với chiến lược phát triển của ngành giáo dục - đào tạo trong hội nhập quốc tế. Do vậy, hoạch định phương hướng, chiến lược phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ NCL được dựa trên kết quả dự báo về số lượng, cơ cấu và yêu cầu về chất lượng NNL trong thời kỳ hoạch định. Đồng thời, căn cứ vào kết quả phân tích thực trạng và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ của ngành, công tác quy hoạch cần đưa ra các cơ chế, chính sách và giải pháp phát triển ĐNGV các trường ĐH, CĐ.

Hai là, tuyển dụng và sử dụng đội ngũ giảng viên



tải về 2.15 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương