LUẬN Án tiến sĩ kinh tế HÀ NỘI 2017 BỘ KẾ hoạch và ĐẦu tư viện chiến lưỢc phát triểN



tải về 2.15 Mb.
trang5/10
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích2.15 Mb.
#38863
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Nguồn: [3][4]

Theo Hiệp hội các trường ĐH, CĐ NCL, năm 2014 cả nước có 90 trường NCL (gồm 61 trường ĐH và 29 trường CĐ), chiếm khoảng 22,2% tổng số các trường ĐH - CĐ trên toàn quốc. Quy mô đào tạo của các cơ sở giáo dục ĐH, CĐ NCL ngày càng tăng, góp phần không nhỏ vào việc tăng tỷ lệ sinh viên. Hiện nay, số lượng sinh viên ĐH - CĐ chính quy của các cơ sở giáo dục ĐH NCL là 314.054 sinh viên, chiếm khoảng 14,4% tổng số sinh viên cả nước.

Sự hình thành và phát triển của các trường ĐH, CĐ NCL, đã góp phần quan trọng cho sự phát triển về cơ sở vật chất của nền giáo dục ĐH và CĐ cả nước. Đa số các trường NCL chủ yếu được thành lập theo phương thức xây dựng mới hoàn toàn cả về cơ sở vật chất lẫn đội ngũ cán bộ, giảng viên. Nhiều trường đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy hiện đại, chú trọng đầu tư chương trình, tăng cường hợp tác quốc tế để triển khai hiệu quả nhiều chương trình đào tạo tiên tiến. Đến nay có khoảng 30 trường đã xây dựng được trụ sở khang trang, đã đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Bên cạnh việc đầu tư khá lớn về vật chất, các trường ĐH, CĐ NCL đã huy động được đông đảo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học có trình độ cao tham gia sự nghiệp đào tạo NNL có trình độ cho đất nước.

Sau hơn 20 năm hình thành và phát triển các trường ĐH, CĐ NCL đã huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục ĐH và CĐ.

 Trong điều kiện đất nước còn khó khăn, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục hạn chế, mô hình giáo dục ĐH NCL đã phát huy có hiệu quả tiềm năng của xã hội, huy động được nguồn lực đầu tư lớn từ nhiều thành phần và các nhà đầu tư khác nhau. Hệ thống các trường ĐH, CĐ NCL đã chia sẻ gánh nặng với ngân sách nhà nước trong việc đầu tư phát triển giáo dục đào tạo; tạo điều kiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu được tiếp cận giáo dục ĐH của mọi tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao năng lực đào tạo của giáo dục ĐH và phát triển NNL có trình độ cho đất nước. Tổng số vốn điều lệ đăng ký thành lập các trường này năm 2009 là 1.555 tỷ đồng. Năm 2008 tổng thu học phí từ các trường NCL là 1.850 tỷ đồng. Tổng số tiền đã huy động được trong đạt gần 30 ngàn tỉ đồng, gấp 6 lần tổng số tiền phát hành trái phiếu giáo dục lần đầu [4]. Có thể xem đấy là khoản tài chính mà các trường ĐH và CĐ NCL đã gánh cho ngân sách nhà nước.

Sự phát triển mạng lưới của các trường ĐH, CĐ NCL đã góp phần giải quyết tình trạng phân bố không đồng đều về giáo dục ĐH và CĐ tại các vùng miền. Đến nay, đã có 40/63 tỉnh, thành phố có trường ĐH (đạt tỷ lệ 63%); có 60/63 tỉnh, thành có trường CĐ (đạt tỷ lệ 95%) và có 62/63 tỉnh, thành có ít nhất 1 trường CĐ hoặc ĐH (đạt tỷ lệ 98%, trừ tỉnh Đắk Nông chưa có trường ĐH, CĐ nào).

Từ sự phát triển của hệ thống các trường ĐH và CĐ NCL trên đây, chúng ta có thể khẳng định, công tác xã hội hoá giáo dục nước ta ngày càng được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu tư cho giáo dục được huy động ngày càng nhiều. Sự phân bố các cơ sở giáo dục ĐH đã dần rộng khắp trên phạm vi cả nước. Điều này là hết sức quan trọng trong việc đào tạo NNL tại chỗ có chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của từng địa phương và cả nước.

Về quy mô đào tạo của các trường ĐH, CĐ NCL

Cùng với sự phát triển về quy mô cũng như mạng lưới các trường ĐH và CĐ NCL là số lượng học sinh đăng ký và nhập học vào khối các trường NCL tăng nhanh.

Về giáo dục ĐH, niên khóa 2000 - 2001 khối các trường ĐH NCL có số lượng sinh viên là 89.464 người, đến năm học 2006 - 2007 số lượng học sinh viên trong khối các trường ĐH NCL là 157170 người, năm học 2010 - 2011 là 189531 người và năm học 2011-2012 là 228.667 người (Bảng 3.2). So với các con số tương ứng của khối ĐH công lập, ta thấy, tỷ lệ của khối ĐH NCL chỉ khoảng 12,1% - 15.5% trong khoảng thời gian từ năm 2001-2012. Trong đó, tỷ trọng cao nhất là 15.5% vào năm học 2006-2007 [3].

Về giáo dục CĐ, niên khóa 2000 - 2001 khối các trường NCL có số lượng sinh viên là 14,801 người chỉ bằng 8,6% so với khối công lập, đến năm học 2006 - 2007 số lượng học sinh viên trong khối các trường CĐ NCL là 36,301 người và chỉ bằng 11,0% so với khối công lập, năm học 2010 - 2011 các chỉ số tương ứng là 144,390 người và bằng 24.8% so với khối công lập, năm học 2011-2012 với tổng số là 160, 425 người nhưng chỉ chiếm 24,5% so với khối công lập [3] [4].



Bảng 3.2. Số sinh viên ĐH CĐ qua một số năm

ĐVT: Người; %

Năm học

2000-2001

2006-2007

2007-2008

2008-2009

2009-2010

2010-2011

2011-2012

Tổng số

918.228

1.540.201

1.603.484

1.719.499

1.935.739

2.162.106

2.179.243

Đại học

731.505

1.173.147

1.180.547

1.242.778

1.358.861

1.435.887

1.524.447

Công lập

642.041

1.015.977

1.037.115

1.091.426

1.185.253

1.246.356

1.295.780

NCL

89.464

157.170

143.432

151,.352

173.608

189.531

228.667

Tỷ lệ NCL/CL (%)

13,9

15,5

13,8

13,9

14,6

15,2

15,0

Cao đẳng

186.723

367.054

422.937

476.721

576.878

726.219

654.796

Công lập

171.922

330.753

377.531

409.884

471.113

581.829

494.371

NCL

14.801

36.301

45.406

66.837

105.765

144.390

160.425

Tỷ lệ NCL/CL (%)

8,6

11,0

12,0

16,3

22,5

24,8

24,5

Nguồn: [3]

Như vậy, khác với giáo dục ĐH, tỷ lệ giữa giáo dục CĐ NCL so với khối công lập tăng nhanh hơn rất nhiều. Điều đó chứng tỏ, khối các trường NCL có vai trò rất lớn đối với giáo dục CĐ. Chúng ta cần lưu ý rằng trong giáo dục CĐ bao gồm cả CĐ nghề, một loại hình giáo dục nghề nghiệp rất quan trọng đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây chính là một trong những mục tiêu quan trong đối với việc nâng cao chất lượng NNL của nước ta hiện nay.

Hiện khối trường NCL đang đào tạo 1.143 ngành với 522 ngành đào tạo trình độ CĐ, 582 ngành trình độ ĐH, 36 ngành đào tạo trình độ thạc sỹ và 3 chuyên ngành đào tạo trình độ tiến sỹ.

Cùng với quy mô trường thì số sinh viên của hệ này cũng tăng mạnh. Theo số liệu của Bộ GD&ĐT tại “Hội nghị Tổng kết 20 năm phát triển các trường ĐH, CĐ NCL”, do Bộ GD&ĐT tổ chức ngày 14/3/2014 tại Hà Nội, thì tỷ lệ tăng sinh viên bình quân hàng năm của các trường ĐH, CĐ NCL trong giai đoạn 2000 - 2010 là 12,39%, cao hơn tỷ lệ tương ứng của các trường ĐH công lập (là 9,05%). Hiện số sinh viên ĐH, CĐ chính quy của các trường ĐH, CĐ NCL là trên 314.000 sinh viên, chiếm tỷ lệ 14% số sinh viên của cả nước [4].

Việc gia tăng quy mô đào tạo đã góp phần giảm thiểu sự chênh lệch về tỷ lệ sinh viên trên dân số nước ta so với các nước trên thế giới và khu vực. Năm 2005, tỷ lệ sinh viên vào ĐH ở nước ta là 16%, trong khi con số này ở Trung Quốc là 17%, Indonesia 19%, Thái Lan 43%. Hiện nay, nhờ quy mô đào tạo ĐH, CĐ tăng dần qua các năm, tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân cũng tăng, năm 1997 là 80 sinh viên/1 vạn dân, năm 2006 là 166,5 sinh viên/1 vạn dân, năm 2009 là 195 sinh viên/1 vạn dân, đến năm 2010 có thể đạt 200 sinh viên/1 vạn dân theo đúng định hướng Nghị quyết số 14 của Chính phủ và Quyết định số 121 của Thủ tướng Chính phủ. Nếu so với các nước, thì tỷ lệ sinh viên/1 vạn dân của Việt Nam còn rất thấp: năm 2005 Thái Lan có 374 sinh viên/1vạn dân; Chi Lê có 407 sinh viên/1 vạn dân, Nhật Bản có 316 sinh viên/1 vạn dân, Pháp có 359 sinh viên/1 vạn dân, Anh có 380 sinh viên/1 vạn dân, Úc có 504 sinh viên/1 vạn dân, Mỹ có 576 sinh viên/1 vạn dân và Hàn Quốc có 674 sinh viên/1 vạn dân [3].

Như vậy, việc hình thành và phát triển các trường ĐH, CĐ NCL trong thời gian qua đã góp phần nâng cao năng lực giáo dục ĐH, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội và và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong giáo dục ĐH ở Việt Nam.



Các trường đã tạo công việc cho hàng nghìn cán bộ và giảng viên, huy động được nguồn lực to lớn của xã hội để hiện thực hóa chủ trương xã hội hóa giáo dục của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, s

ự ra đời của các trường ĐH, CĐ NCL cũng đã có tác động mạnh mẽ đến hệ thống các trường công lập trong việc nâng cao chất lượng đào tạo.

3.2. Phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập ở Việt Nam

3.2.1. Về số lượng

ĐNGV đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục, là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục. Cùng với sự phát triển của hệ thống các trường ĐH, CĐ NCL, đội ngũ giảng viên NCL cũng có những bước phát triển cả về mặt số lượng cơ cấu lẫn chất lượng.

Về số lượngsau hơn 20 năm hình thành và phát triển, số lượng ĐNGV ở các trường ĐH, CĐ NCL nước ta đã tăng nhanh. Năm 2001, tổng số giảng viên của khối ĐH, CĐ NCL mới chỉ là 4,5 ngàn người thì đến năm 2006 là 7,7 ngàn người và đến năm 2012 là 18,1 ngàn người tăng gấp 4 lần so với năm 2001. So với khối giảng viên khối công lập, thì tỷ lệ của khối giảng viên NCL không ngừng tăng. Năm 2001, tỷ lệ của giảng viên của các trường ĐH và CĐ NCL chỉ chiếm 14,3%, thì đến năm 2006 tỷ lệ này là 16,8% và đến năm 2012 tỷ lệ này là 26,2% (Bảng 3.3).

Trong giai đoạn từ năm 2001- 2012 tốc độ phát triển bình quân về số lượng giảng viên của bậc giáo dục ĐH và CĐ nước ta là 108%/năm, trong đó tốc độ phát triển số lượng giảng viên của khối công lập là 107%, thấp hơn so với mức bình quân của cả nước, trong khi đó tốc độ phát triển của số lượng giảng viên khối NCL là 113% cao hơn nhiều so với mức bình quân chung của cả nước.



Bảng 3.3. Số lượng giảng viên các trường ĐH và CĐ
giai đoạn 2001-2012


ĐVT: Ngàn người; %

Năm

2001

2002

2004

2006

2008

2009

2010

2011

2012

Tổng số

35,9

38,7

47,6

53,4

60,7

69,6

74,6

84,1

87,2

Phân theo loại hình

Công lập

31,4

33,4

40,0

45,7

54,8

60,3

63,3

70,4

69,1

NCL

4,5

5,3

7,6

7,7

5,9

9,3

11,3

13,7

18,1

Tỷ lệ NCL/CL (%)

14,3

15,9

19,0

16,8

10,8

15,4

17,9

19,5

26,2

Phân theo giới tính

Nam













32,4

36,8

39,2

43,0

44,6

Nữ













28,3

32,8

35,4

41,1

42,6

Tỷ lệ Nữ/nam (%)













87,3

89,1

90,3

95,6

95,5

Nguồn: [3]; [28]

Cũng từ bảng 3.3 ta thấy, nếu phân theo giới tính (nam, nữ), thì tỷ trọng của giảng viên nữ thường thấp hơn so với nam giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng của giảng viên nữ tăng nhanh trong những năm gần đây. Nếu như năm 2008, cả nước chỉ có 28,3 ngàn giảng viên là nữ, thì sau 4 năm con số này là 42,6 ngàn người tức là tăng hơn 1,5 lần, trong khi đó mức tăng của các giảng viên nam là 1,37 lần. Tốc độ phát triển nhanh về số lượng của giảng viên nữ đã làm cho tỷ lệ giảng viên giữa nữ và nam tăng lên trong những năm gần đây. Nếu như năm 2008, tỷ trọng của giảng viên nữ chỉ bằng 87,3% so với nam giới, thì năm 2012 tỷ lệ này đã tăng lên 95,5%, tăng 8,2% so với năm 2008 và gần tương đương với nam giới.

Tuy tốc độ phát triển về số lượng của giảng viên ĐH và CĐ nước ta tăng nhanh, nhưng tốc độ phát triển của số lượng sinh viên nhanh hơn, nên kết quả là chỉ số sinh viên trên giảng viên có xu hướng tăng. Nhìn vào Bảng 3.4, ta thấy năm học 2000- 2001 tổng số sinh viên CĐ và ĐH của cả nước là 918.228 người và tổng số giảng viên là 35.938 người, đạt tỷ lệ SV/GV là 25,6, tỷ lệ này cao hơn so với mức quy định hiện hành; tuy nhiên năm học 2006 - 2007 tỷ lệ này là 28,8 và năm học 2010 -2011 tỷ lệ này là 29,0 cao hơn nhiều so với mức quy định. Tuy nhiên, năm học 2011-2012, tỷ lệ này giảm xuống và đạt mức 24,9 SV/GV.

Đặc biệt có một số trường chỉ số này là rất cao. Chẳng hạn, theo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với giáo dục ĐH” của Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm học 2008 - 2009 cho thấy, trường ĐH DL Ngoại ngữ tin học TP HCM là: 47,3 SV/GV, ĐH Tây Đô: 44,2 SV/GV, ĐH Mở TP HCM: 41,2 SV/GV, ĐH Hồng Bàng: 40,2 SV/GV.

Tỷ lệ sinh viên/ giảng viên có sự khác nhau giữa bậc ĐH và CĐ cũng như giữa khối công lập và NCL.

Đối với bậc ĐH, năm học 2000 -2001, tổng số sinh viên ĐH là 731.505 người và số giảng viên là 25.546 người, đạt tỷ lệ là 33,8 sinh viên/1 giảng viên, có thời điểm tỷ lệ này rất cao, chẳng hạn như năm học 2004 - 2005, tỷ lệ này là 38,3. Tỷ lệ này tuy có giảm vào những năm sau đó, tuy nhiên luôn ở mức trên 33 SV/1GV.

Bảng 3.4. Chỉ số sinh viên/ giảng viên hệ ĐH và CĐ


qua một số năm học


ĐVT: Người; %

Năm học

2000-2001

2002-2003

2004-2005

2006-2007

2007-2008

2008-2009

2009-2010

2010-2011

2011-2012

Tổng số sinh viên

918.228

102.667

1.319.754

1.540.201

1.603.484

1.719.499

1.935.739

2.162.106

2.179.243

Tổng số giảng viên

35.938

38.608

47.646

53.518

56.120

61.190

70.558

84.125

87.160

Tỷ lệ SV/GV (%)

25,6

26,4

27,7

28,8

28,6

28,1

27,4

25,7

25,0


tải về 2.15 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương