LỜi nhà xuất bản nghiên cứu về SỰ phát triển con ngưỜI



trang5/72
Chuyển đổi dữ liệu07.01.2018
Kích5 Mb.
#35951
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   72

Thuyết của Piaget

Quan điểm phát triển nhận thức tập trung vào việc trẻ em hình thành kiến thức của mình ra sao và sự hình thành của trẻ thay đổi qua thời gian như thế nào. Jean Piaget (1896 - 1980) (ảnh trang 45), vốn là một nhà Tâm lý học phát triển có nhiều ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20, là người nổi tiếng nhất trong số những người theo thuyết này. Piaget cho rằng trẻ con cố tìm hiểu thế giới của mình một cách tự nhiên. Trong suốt tuổi ẵm ngửa, thời thơ ấu, và tuổi thanh niên, trẻ con muốn tìm hiểu hoạt động của cả thế giới tự nhiên lẫn xã hội. Chẳng hạn, trẻ con tuổi ẵm ngửa muốn biết vấn đề: "Chuyện gì xảy ra khi mình đẩy đồ chơi này rớt khỏi bàn?" Và trẻ con muốn tìm hiểu về con người "Người này có phải là người nuôi dưỡng, chăm sóc cho mình không?"

Piaget lập luận rằng trong nỗ lực tìm hiểu thế giới của mình, trẻ hành động giống như các nhà khoa học trong việc tạo ra lý thuyết về thế giới tự nhiên và xã hội. Trẻ con cố liên kết tất cả những gì mình biết về sự vật và con người thành một lý thuyết hoàn chỉnh. Lý thuyết của trẻ con được kinh nghiệm trắc nghiệm hàng ngày vì lý thuyết của trẻ con khiến trẻ con mong đợi một điều gì đó sẽ xảy ra. Cũng như lý thuyết khoa học thực sự, khi các sự kiện dự đoán thực sự diễn ra, thì niềm tin của trẻ con vào lý thuyết của mình sẽ mạnh hơn. Khi sự kiện dự đoán không xảy ra, trẻ con phải xem lại lý thuyết của mình. Chẳng hạn, lý thuyết sự vật của trẻ con có thể bao gồm quan điểm chiến lược "đồ chơi đẩy khỏi bàn sẽ rơi xuống đất". Nếu trẻ con đẩy một số đồ vật - đĩa hoặc quần áo - thì sẽ nhận thấy chúng cũng rơi xuống sàn và có thể làm cho lý thuyết mang tính chung hơn: "Đồ vật đẩy ra khỏi bàn sẽ rơi xuống sàn".

VẤN ĐỀ CẦN SUY NGHĨCố sử dụng khái niệm cơ bản về biến đổi điều kiện ngoại cảnh thực nghiệm (trang 42-43) để giải thích trẻ hình thành lý thuyết thế giới tự nhiên và xã hội ra sao. Piaget cũng cho rằng vào một vài thời điểm tới hạn trong sự phát triển, trẻ bắt đầu hình thành kiến thức theo cách mới. Khi điều này xảy ra, trẻ con xem lại lý thuyết của mình một cách cơ bản. Những thay đổi này mang tính cơ bản đến mức lý thuyết được xem lại trong nhiều phương diện là một lý thuyết mới về tên gọi. Piaget quả quyết rằng những thay đổi này xảy ra ba lần trong sự phát triển: một lần khi hai tuổi, lần thứ hai khi bảy tuổi, và lần thứ ba ngay trong tuổi thanh niên. Những thay đổi này có nghĩa là trẻ trải qua bốn giai đoạn dễ phân biệt trong phát triển nhận thức. Mỗi giai đoạn tượng trưng cho một thay đổi cơ bản trong cách trẻ tìm hiểu và sắp xếp môi trường của mình, và mỗi giai đoạn mang quan điểm nhiều loại lập luận tinh vi hơn. Chẳng hạn, giai đoạn vận động nhận cảm bắt đầu lúc mới sinh và kéo dài cho đến khoảng hai tuổi. Như được ngụ ý qua tên gọi, suy nghĩ vận động nhận cảm ám chỉ việc hình thành kiến thức của trẻ thông qua kinh nghiệm vận động và nhận cảm. Giai đoạn này và ba giai đoạn sau đó được thể hiện trong bảng trang 46.

BỐN GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA PIAGET
Giai đoạn
Độ tuổi khoảng
Đặc điểm
Vận động nhận cảm

Mới sinh đến 2 tuổi

Hiểu biết thế giới của trẻ dựa trên giác quan và kỹ năng vận động. Cuối giai đoạn, sử dụng miêu tả suy nghĩ.

Suy nghĩ tiền hoạt động

2 đến 6 tuổi

Trẻ học cách sử dụng biểu tượng chẳng hạn từ ngữ và con số để mô tả các khía cạnh thế giới nhưng liên kết với thế giới chỉ bằng quan điểm của mình

Suy nghĩ hoạt động cụ thể

7 tuổi đến đầu tuổi thanh niên

Trẻ hiểu và áp dụng hoạt động logic vào kinh nghiệm miễn là chúng được tập trung ở đây và lúc này.

Suy nghĩ hoạt động hình thức

từ tuổi thanh niên trở lên

Thanh niên hoặc người lớn suy nghĩ trừu tượng giải quyết tình huống giả thuyết, và suy đoán về những gì có thể.

 

Thuyết của Piaget có rất nhiều ảnh hưởng đối với cách suy nghĩ về phát triển nhận thức của các nhà phát triển và trong ngành. Lý thuyết được áp dụng bằng nhiều cách - từ việc hình thành khám phá tìm hiểu đồ chơi ở trẻ con cho đến cách giáo viên soạn bài. Tuy nhiên, lý thuyết của ông thường bị phê phán. Một số người cho rằng Piaget đánh giá thấp khả năng của trẻ con tuổi ẵm ngửa và trẻ con nhỏ. Tính phổ biến về chuỗi giai đoạn của ông không nhận được chứng cứ ủng hộ trong các nền văn hóa khác nhau. Gần đây, thuyết của Piaget được mở rộng bao gồm nhiều thay đổi nhận thức quan trọng ở tuổi trưởng thành. Chúng ta nghiên cứu những vấn đề này chi tiết hơn trong các Chương 4, 6, và 9.



Thuyết của Kohlberg

Vì thuyết của Piaget một mặt cố kết hợp sự trưởng thành và kinh nghiệm và mặt khác là sự phát triển nhận thức và xã hội, đã truyền cảm hứng cho các nhà theo thuyết Phát triển với nhiều loại quan tâm đa dạng. Một trong những người có ảnh hưởng nhất trong số này là Lawrence Kohlberg, người xây dựng thuyết Lập luận đạo đức của mình trên nền tảng thuyết Phát triển nhận thức chung của Piaget.

Chúng ta sẽ hiểu chi tiết trong Chương 9, Kohlberg mô tả một chuỗi các giai đoạn cố định phản ánh nhiều cách suy nghĩ khác của con người về tình huống khó xử đạo đức. Thuyết của Kohlberg là một minh họa tuyệt vời về việc một thuyết phát triển chung, thuyết của Piaget, có thể được tập trung ra sao để giải quyết vấn đề lập luận đạo đức nhiều hạn chế hơn. Các giai đoạn của Kohlberg khá giống với các giai đoạn của Piaget, nhưng chúng bao gồm cấp độ suy nghĩ vượt khỏi giai đoạn sau cùng của Piaget. Trong khía cạnh này, thuyết của Kohlberg là sự mở rộng công trình của Piaget.

Thuyết Xử lý thông tin

Không phải tất cả lý thuyết gia phát triển nhận thức nào cũng xem sự phát triển là một chuỗi các giai đoạn. Chẳng hạn các nhà lý thuyết Xử lý thông tin đều phụ thuộc vào cách hoạt động của máy tính để giải thích tư duy và tư duy phát triển ra sao từ thời thơ ấu cho đến tuổi thanh niên. Cũng như máy tính bao gồm cả phần cứng (ổ đĩa, bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên và thiết bị xử lý trung tâm) lẫn phần mềm (chương trình chúng ta sử dụng), thuyết xử lý thông tin cho rằng nhận thức con người bao gồm phần cứng trí tuệ và phần mềm trí tuệ. Phần cứng trí tuệ ám chỉ cấu trúc nhận thức bao gồm các bộ nhớ khác nhau nơi lưu trữ thông tin. Phần mềm trí tuệ bao gồm các tập hợp quá trình nhận thức giúp trẻ con thực hiện nhiệm vụ cụ thể chẳng hạn những việc như đọc một câu, chơi game hoặc đánh trúng bóng chày. Chẳng hạn, một nhà Tâm lý học xử lý thông tin sẽ cho rằng, đối với cô gái trong ảnh (bên phải) sẽ làm tốt bài thi, cô phải mã hóa thông tin như lúc cô học, lưu trữ thông tin trong bộ nhớ, sau đó truy cập thông tin cần thiết trong khi thi.

Các nhà Tâm lý học xử lý thông tin giải thích thay đổi phát triển trong tư duy ra sao? Để trả lời câu hỏi này, hãy đến với những cải tiến trong máy tính cá nhân. Máy tính cá nhân ngày nay có thể thực hiện nhiều việc hơn máy tính chế tạo cách đây một vài năm. Tại sao? Vì máy tính ngày nay có phần cứng tốt hơn (chẳng hạn nhiều bộ nhớ và thiết bị xử lý trung tâm nhanh hơn) và bởi lẽ chúng có phần mềm tinh vi hơn tận dụng phần cứng tốt hơn. Như máy tính hiện đại, trẻ em và thanh niên đang có phần cứng và phần mềm tốt hơn trẻ nhỏ, giống như model lỗi thời của năm rồi. Chẳng hạn, trẻ lớn tuổi hơn thường giải câu đố chữ tốt hơn trẻ nhỏ vì chúng có dung lượng bộ nhớ nhiều hơn khi lưu trữ sự kiện và vì phương pháp thực hiện các phép tính số học hiệu quả hơn.

Một số nhà nghiên cứu cũng chỉ rõ sự giảm giá trị của phần cứng trí tuệ cùng với sự sút giảm của phần mềm trí tuệ như giải thích lão hóa nhận thức. Chúng ta sẽ thấy trong Chương 13, chẳng hạn lão hóa thông thường mang đến thay đổi đáng kể trong khả năng xử lý thông tin của con người.

Đối với Piaget, Kohlberg, và các lý thuyết gia xử lý thông tin, suy nghĩ của trẻ con tinh vi hơn khi chúng lớn. Piaget và Kohlberg giải thích sự thay đổi này là do kiến thức tinh vi hơn trên hình thành nơi con trẻ sự suy nghĩ phức tạp hơn, các nhà Tâm lý học xử lý thông tin qui nó vào phần cứng trí tuệ và phần mềm trí tuệ tinh vi hơn. Không có lý thuyết gia nào trong số này bảo với Betty về tính tốt của Marcus. Đối với thành công trong học tập của cậu, Piaget và Kohlberg giải thích rằng tất cả trẻ em đều muốn tìm hiểu thế giới của mình một cách tự nhiên, Marcus hoàn toàn không phải là trường hợp đặc biệt trong khía cạnh này. Một nhà Tâm lý học xử lý thông tin sẽ nêu rõ phần cứng và phần mềm vượt trội là điều mấu chốt dẫn đến thành công trong học tập.

TIẾP CẬN SINH THÁI HỌC VÀ CÁC HỆ THỐNG

Hầu hết các nhà phát triển cho rằng môi trường là một tác động quan trọng trong nhiều khía cạnh phát triển. Tuy nhiên, chỉ có các lý thuyết Sinh thái học mới tập trung nghiên cứu tính phức tạp của môi trường và sự liên kết của chúng với phát triển. Trong thuyết Sinh thái học, là một ngành của Sinh học chuyên nghiên cứu mối quan hệ của sinh vật với môi trường của chúng và giữa các sinh vật với nhau, sự phát triển con người không thể tách rời các bối cảnh môi trường mà trong đó con người phát triển. Tiếp cận Sinh thái học rất rộng, cho rằng tất cả khía cạnh phát triển đều kết nối với nhau, giống như sợi tơ trong mạng nhện đan quyện với nhau. Sự kết nối với nhau có nghĩa là không có khía cạnh phát triển nào có thể biệt lập với nhau và được hiểu một cách độc lập. Một lý thuyết gia sinh thái sẽ nhấn mạnh rằng nếu chúng ta muốn tìm hiểu tại sao thanh niên trong ảnh (bên trên) hành xử như thế, chúng ta cần tìm hiểu nhiều hệ thống khác nhau ảnh hưởng đến họ, bao gồm bố mẹ, bạn đồng tuổi, thầy cô, truyền hình, hàng xóm và chính sách xã hội.

Chúng ta xét đến hai ví dụ trong tiếp cận Sinh thái học và hệ thống: thuyết của Bronfenbrenner và khuôn khổ cạnh tranh - áp lực môi trường.

Thuyết của Bronfenbrenner

Người đề xuất tiếp cận Sinh thái học nổi tiếng nhất là Urie Bronfenbrenner (1979, 1989, 1995), cho rằng trẻ con phát triển được gắn kết với một loạt hệ thống phức tạp và tương tác. Bronfenbrenner chia môi trường thành bốn cấp như trong biểu đồ (bên phải): hệ thống vi mô, hệ thống giữa, hệ thống ngoại và hệ thống vĩ mô. Vào một thời điểm bất kỳ trong đời sống, hệ thống vi mô bao gồm con người và vật thể trong môi trường sát cạnh cá nhân. Đây là những người gần gũi với trẻ nhất chẳng hạn như bố mẹ hoặc anh chị em ruột. Một số trẻ có nhiều hệ thống vi mô chẳng hạn trẻ nhỏ có hệ thống vi mô là gia đình và chăm sóc ban ngày. Như bạn có thể hình dung, hệ thống vi mô ảnh hưởng đến sự phát triển rất nhiều.

Bản thân hệ thống vi mô được kết nối để hình thành hệ thống giữa. Hệ thống giữa tạo ra sự kết nối trong khắp hệ thống vi mô vì những gì xảy ra trong một hệ thống vi mô này chắc chắn ảnh hưởng đến hệ thống vi mô khác. Có lẽ bạn nhận thấy rằng nếu mình có một ngày làm việc hoặc học tập căng thẳng thì về nhà rất cáu. Điều này cho thấy hệ thống giữa của bạn đang hoạt động và rất tốt, hệ thống vi mô ở nhà và nơi làm việc được kết nối với nhau về mặt cảm xúc.

Hệ thống ngoại ám chỉ bối cảnh xã hội mà một người không thể trải qua trực tiếp nhưng vẫn còn ảnh hưởng đến sự phát triển. Chẳng hạn một bà mẹ chú ý đến con mình nhiều hơn khi tình hình công việc trôi chảy và ít chú ý hơn khi bị công việc làm cho căng thẳng. Mặc dù ảnh hưởng của hệ thống ngoại ít ra chỉ ở hàng thứ nhưng tác động của nó đối với trẻ đang phát triển rất mạnh.

Bối cảnh môi trường rộng nhất là hệ thống vĩ mô, các nền phụ văn hóa và văn hóa mà trong đó hệ thống vi mô, hệ thống giữa và hệ thống ngoại được gắn vào. Một bà mẹ, nơi làm việc của bà ta, con cái, trường học của con bà ta là một phần trong bối cảnh văn hóa rộng lớn hơn chẳng hạn như người Mỹ gốc Á sống ở Nam California hay người Mỹ gốc Ý sống ở các thành phố lớn trên Bờ biển phía Đông nước Mỹ. Thành viên của những nhóm văn hóa này có cùng chung nhân dạng, chung di sản thừa kế và giá trị. Hệ thống vĩ mô phát triển theo thời gian, điều gì đúng về một nền văn hóa cụ thể ngày nay có thể hoặc không thể đúng trong quá khứ và có thể hoặc không thể đúng trong tương lai. Vì thế, mỗi thế hệ trẻ tiếp nối nhau có thể phát triển trong một hệ thống vĩ mô riêng.

Thuyết cạnh tranh - áp lực môi trường

Một tiếp cận thứ hai, ít phức tạp hơn cũng nhấn mạnh đến sự tương tác của cá nhân với môi trường của mình là thuyết Cạnh tranh - áp lực môi trường của Lawton và Nahemow (1973). Chúng ta sẽ đọc chi tiết hơn trong Chương 14, thuyết này ban đầu được đưa ra để giải thích cách hoạt động chức năng của người cao tuổi trong môi trường của mình, về cơ bản, thuyết này cho rằng con người thích nghi tốt như thế nào tùy vào sự kết hợp giữa sự cạnh tranh hoặc khả năng và áp lực môi trường hoặc môi trường áp đặt yêu cầu đối với họ.

Khái niệm "phù hợp nhất" hoặc "thích hợp nhất" dẫn đến sự thích nghi có thể mở rộng trong suốt cuộc đời. Chẳng hạn, kỹ năng xã hội của trẻ con phù hợp với yêu cầu của nhóm bạn đồng tuổi tốt ra sao có thể giải thích cho việc nhóm bạn đồng tuổi có chấp nhận đứa trẻ ấy hay không. Cũng với thuyết của Bronfenbrenner, thuyết Cạnh tranh - áp lực môi trường nhấn mạnh rằng để tìm hiểu chức năng hoạt động của con người điều cần thiết là phải tìm hiểu hệ thống con người đang sống.

Các lý thuyết gia Sinh thái học nhất trí với các lý thuyết gia tập quen trong việc nói với Betty rằng môi trường là điều mấu chốt trong tố chất tốt bụng của đứa con và thành tích cao trong học tập. Tuy nhiên, lý thuyết gia Sinh thái học nhất mực cho rằng môi trường có nghĩa là sự củng cố, sự trừng phạt và sự quan sát vốn là trọng tâm trong thuyết tập quen. Lý thuyết gia Sinh thái học sẽ nhấn mạnh mức độ khác nhau trong ảnh hưởng của môi trường đối với Marcus. Có lẽ khả năng cân đối công việc và gia đình của Betty khá tốt (có nghĩa là cô luôn ở trong tâm trạng tốt) tích cực góp phần vào sự phát triển của Marcus cũng như tư cách thành viên của Betty trong một nhóm văn hóa đã nhấn mạnh giá trị học tốt trong trường học.



THUYẾT CUỘC ĐỜI VÀ CHU KỲ ĐỜI SỐNG

Hầu hết các thuyết nghiên cứu sự phát triển con người mà chúng ta vừa xem xét đã chú ý không nhiều hoặc không chú ý cụ thể đối với người lớn. Về mặt lịch sử, tuổi trưởng thành ít được xét đến vì cho rằng đây là lúc khả năng đạt đến thời kỳ ít tăng trưởng (chứ không phải tiếp tục phát triển) và tiếp theo sau tuổi trưởng thành là sự sút giảm dần đi cho đến tuổi già là điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, lĩnh vực phát triển người lớn và tuổi già đã phát triển nhiều từ cuối thập niên 1940. Do đó, nhiều quan điểm lý thuyết mới nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc sự phát triển con người như một quá trình suốt đời. Thuyết cuộc đời và chu kỳ đời sống xem sự phát triển theo nghĩa một người đang ở đâu và đang hướng về đâu.



Quan điểm quãng đời

Theo quan điểm quãng đời, sự phát triển con người được quyết định và không thể được hiểu trong phạm vi khuôn khổ duy nhất. Matilda Riley, người chịu trách nhiệm nhiều nhất đối với việc phát triển quan điểm suốt quãng đời nhấn mạnh rằng sự phát triển con người phải được xét đến từ khuôn khổ Tâm sinh học xã hội. Tiền đề cơ bản của quan điểm suốt cuộc đời, trong đó tuổi già được xét đến trong bối cảnh phần còn lại của cuộc đời như sau (Riley, 1979):

- Tuổi già là một tiến trình trưởng thành và già trong suốt đời, bắt đầu với khái niệm đã được định hình và kết thúc bằng cái chết. Không có giai đoạn duy nhất nào trong đời sống một con người (chẳng hạn như thời thơ ấu, tuổi thanh niên hoặc tuổi trung niên) có thể hiểu khi tách biệt nó với nguồn gốc và kết quả của nó. Để tìm hiểu một giai đoạn cụ thể, chúng ta phải biết trước đó điều gì đã đến và sau đó điều gì sẽ đến.

- Đời sống của con người như một màn kịch chịu tác động của thay đổi xã hội, môi trường và lịch sử ra làm sao. Vì thế, kinh nghiệm của thế hệ này không thể giống như kinh nghiệm của thế hệ khác.

- Các mẫu phát triển mới là nguyên nhân làm thay đổi xã hội. Chẳng hạn, việc thực hiện hình phạt thể xác hà khắc trong một vài thập niên trước làm tổn hại sự phát triển tâm lý dẫn đến việc thông qua đạo luật hạn chế quyền sử dụng hình thức hình phạt này của bố mẹ. Vì thế không những thay đổi xã hội đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của con người mà các mẫu phát triển còn ảnh hưởng đến xã hội.

Quan điểm này nhấn mạnh rằng con người tiếp tục phát triển và thay đổi suốt cuộc đời (Brim & Kagan, 1980). Chẳng hạn, người lớn tuổi trong ảnh chụp đang thúc đẩy sự phát triển của mình bằng cách trở lại trường học. Từ quan điểm này, sự phát triển bao gồm các quá trình cần thiết để phát huy tiềm năng cá nhân trong bất kỳ lĩnh vực nào chẳng hạn như thể hình khỏe mạnh, khả năng trí tuệ và kỹ năng xã hội.

Quan điểm cuộc đời rất quan trọng vì nó chọn quan điểm phát triển theo Chính thể luận bằng cách kết hợp khuôn khổ Tâm sinh học xã hội. Trong quan điểm Chính thể luận này, hành vi nổi bật - nghĩa là chúng không thể hiểu hoặc dự đoán bằng cách chỉ xét đến các bộ phận cấu thành. Người ta không thể dự đoán một người 67 tuổi sẽ ra sao một khi chỉ biết được trước đây người ấy như thế hoặc phân nhỏ hành vi của người ấy thành nhiều đơn vị nhỏ hơn chẳng hạn như thành phần nhận thức hoặc nhân cách. Đúng ra một số khía cạnh hành vi sẽ không đổi, trong khi các khía cạnh khác sẽ là mới, phản ánh sự gián đoạn trong phát triển. Quan điểm cuộc đời xem tự nhiên và nuôi dưỡng tương tác với nhau. Các khác biệt cá nhân trong sự phát triển là qui luật, vì thế sự phát triển là cụ thể cho từng bối cảnh.

Thuyết chu kỳ đời sống gia đình

Điểm chính trong quan điểm quãng đời là biết khi nào một số sự kiện diễn ra trong đời. Khía cạnh này nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của tác động chu kỳ đời sống trong khuôn khổ Tâm sinh học xã hội. Tiêu điểm này khiến một số nhà nghiên cứu phát triển thuyết Phát triển chu kỳ đời sống. Một ví dụ của những thuyết này, mà chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn trong chương 10, là thuyết chu kỳ đời sống gia đình của Duvall (1977). Thuyết này cho rằng gia đình trải qua một loạt thay đổi chung liên quan đến độ tuổi của trẻ chứ không phải độ tuổi của bố mẹ. Mặc dù mỗi giai đoạn đều có đặc điểm của riêng mình, biểu thị sự phát triển gián đoạn, gia đình cũng thể hiện một số sự nhất quán trong tất cả giai đoạn dưới dạng cách giải quyết tình huống. Thuyết này cho rằng sự phát triển gia đình được quyết định gấp bội và đó là các khả năng di truyền tương tác với kinh nghiệm để định hình hành vi.

Nói chung, thuyết quãng đời và chu kỳ đời sống thúc đẩy một tập hợp lý thuyết phát triển tổng hợp bằng cách hướng sự chú ý vào vai trò tuổi già trong bối cảnh rộng hơn trong sự phát triển con người. Những thuyết này đóng một vai trò quan trọng trong việc khái niệm hóa tuổi trưởng thành và tạo ảnh hưởng rất nhiều đến nghiên cứu mà chúng ta sẽ xét đến trong chương 9 - 14. Và các lý thuyết gia cuộc đời và chu kỳ đời sống bảo với Betty rằng Marcus sẽ tiếp tục phát triển trong suốt những năm trưởng thành, và cuộc hành trình phát triển này sẽ chịu tác động Tâm sinh học xã hội, trong đó có gia đình của chính cậu ta.

BỨC TRANH TOÀN CẢNH

Mỗi thuyết đưa ra cách giải thích các tác động Sinh học, Tâm lý học, văn hóa xã hội và chu kỳ đời sống tạo ra sự phát triển con người ra sao. Nhưng vì không có thuyết nào đưa ra được lời giải thích hoàn chỉnh tất cả khía cạnh phát triển nên chúng ta phải dựa vào khuôn khổ Tâm sinh học xã hội để có được lời giải thích dựa trên nhiều thuyết khác nhau. Trong suốt phần còn lại của sách này, bạn sẽ tìm thấy nhiều thuyết khác nhau về tiêu điểm và phạm vi. Để giúp bạn hiểu chúng tốt hơn, mỗi thuyết sẽ được giới thiệu trong bối cảnh vấn đề mà thuyết ấy nhắm vào.

Vì một trong tiêu chuẩn đánh giá một lý thuyết là thuyết ấy có thể kiểm chứng, nên các nhà theo thuyết Phát triển chấp nhận một số phương pháp để thực hiện điều này. Phần kế tiếp cung cấp một cái nhìn khái quát các phương pháp được các nhà theo thuyết Phát triển sử dụng khi tiến hành nghiên cứu và kiểm tra lý thuyết của mình.

TỰ KIỂM TRA

1. ….. sắp xếp kiến thức để cung cấp giải thích có thể kiểm tra về hành vi con người và cách thay đổi của hành vi qua thời gian.

2. Quan điểm… cho rằng con người do động cơ tiềm thức chi phối.

3. Theo thuyết Nhận thức xã hội, con người tập quen từng củng cố, hình phạt và …..

4. Thuyết của Piaget, thuyết của Kohlberg, và thuyết… là những minh họa của quan điểm phát triển nhận thức.

5. Theo Bronfenbrenner, sự phát triển diễn ra trong bối cảnh… hệ thống giữa, hệ thống ngoại và hệ thống vĩ mô.

6. Suy nghĩ cho rằng tìm hiểu một thời điểm qui định bất kỳ trong sự phát triển đòi hỏi phải biết một người đã ở đâu và sẽ đi đâu vốn là điều cơ bản trong quan điểm ….…

7. Quan điểm tâm lý động học và thuyết của Piaget giống nhau ra sao? Chúng khác nhau ra sao?

Trả lời: (1) thuyết, (2) tâm lý động học, (3) quan sát người khác, (4) xử lý thông tin, (5) hệ thống vi mô, (6) Quãng đời và chu kỳ đời sống.


IV. TIẾN HÀNH NGHIÊN CÚU PHÁT TRIỂN NGHIÊN CỨU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI à Phần mở đầu. à Chương 1. NGHIÊN CỨU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
Mục tiêu nghiên cứu

- Các nhà khoa học đánh giá chủ đề quan tâm nghiên cứu sự phát triển ở trẻ ra sao?

- Thiết kế nghiên cứu chung được sử dụng trong nghiên cứu sự phát triển con người là gì? Thiết kế nào độc đáo trong nghiên cứu sự phát triển con người?

- Các nhà nghiên cứu phải tuân thủ quá trình đạo đức nào?

Tiến hành nghiên cứu phát triển

- Đánh giá nghiên cứu sự phát triển con người

- Các thiết kế chung cho nghiên cứu

- Các thiết kế cho nghiên cứu sự phát triển

- Hướng dẫn nghiên cứu hợp đạo đức

- Thông báo các kết quả nghiên cứu

LEAH và JOAN là hai bà mẹ đều có con trai 10 tuổi. Con của họ có nhiều bạn nhưng các bà mẹ vẫn chưa rõ cơ sở tình bạn của chúng. Leah nghĩ đó là "hấp dẫn người đối diện" - trẻ con hình thành tình bạn với bạn đồng tuổi có những mối quan tâm và những khả năng bổ sung cho nhau. Joan hoài nghi điều này, con trai của cô dường như tìm kiếm các bé trai khác gần như có những mối quan tâm và những khả năng với chính mình.

Giả sử Leah và Joan biết rằng bạn đang theo học ngành nghiên cứu sự phát triển con người thì họ sẽ yêu cầu bạn giải quyết tranh luận của họ. Leah nghĩ rằng trẻ em bổ sung là bạn bè trong khi Joan cho rằng trẻ tương tự mới là bạn. Bạn biết rằng nghiên cứu có thể chứng minh những ý tưởng của một người được giả định trong những hoàn cảnh nào đó. Thật ra, các nhà nghiên cứu sự phát triển con người phải đưa ra một số quyết định quan trọng khi họ chuẩn bị nghiên cứu một chủ đề. Họ cần quyết định mức độ chủ đề mà mình quan tâm tới đâu, họ phải thiết kế nghiên cứu của mình, họ phải chọn phương pháp phát triển nghiên cứu, và họ phải quyết định liệu kế hoạch của mình có tôn trọng quyền của các cá nhân tham gia nghiên cứu hay không.

Các nhà nghiên cứu phát triển con người không phải lúc nào cũng bám chặt vào chuỗi các bước này. Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu thường xét đến các quyền của những người tham gia nghiên cứu khi họ ra những quyết định khác, có lẽ loại bỏ một quá trình đánh giá vì nó vi phạm quyền của những người tham gia. Tuy nhiên, vì tính đơn giản, chúng tôi sử dụng chuỗi này khi mô tả từng bước tiến hành nghiên cứu phát triển.

ĐÁNH GIÁ NGHIÊN CỨU SỰ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Nghiên cứu thường bắt đầu bằng việc quyết định đánh giá chủ đề hoặc hành vi quan tâm như thế nào. Chẳng hạn, bước đầu tiên hướng đến việc trả lời câu hỏi của Leah và Joan về tình bạn sẽ là việc quyết định nên đánh giá tình bạn như thế nào.

Các nhà nghiên cứu sự phát triển con người thường sử dụng một trong ba tiếp cận: quan sát có hệ thống, sử dụng nhiệm vụ để lấy mẫu hành vi và yêu cầu người khác tự báo cáo.

Quan sát có hệ thống

Theo như tên gọi, quan sát có hệ thống bao gồm quan sát người khác và cẩn thận ghi lại họ đang làm gì hay nói gì. Hai hình thức quan sát có hệ thống thường gặp là quan sát tự nhiên và quan sát theo cấu trúc. Trong quan sát tự nhiên, người được quan sát khi họ có hành vi tự phát trong một số tình huống đời thường. Dĩ nhiên, các nhà nghiên cứu không thể theo dõi mọi thứ người ta đang làm, vì thế họ phải quyết định nên ghi biến số nào. Chẳng hạn, các nhà nghiên cứu nghiên cứu tình bạn có thể quyết định quan sát trẻ vào đầu năm thứ nhất trong trường trung học (được chọn vì nhiều trẻ quen bạn mới vào lúc này). Họ có thể quyết định ghi lại nơi trẻ ngồi trong phòng ăn và ghi lại trẻ nói chuyện với ai.

Quan sát theo cấu trúc khác với quan sát tự nhiên ở chỗ nhà nghiên cứu tạo ra một bối cảnh đặc biệt có khả năng suy luận hành vi mà mình quan tâm. Quan sát theo cấu trúc đặc biệt hữu ích trong nghiên cứu hành vi vốn rất khó cho việc quan sát một cách tự nhiên. Một số hiện tượng hiếm khi xảy ra chẳng hạn trong một tình huống khẩn cấp. Một nhà điều tra dựa vào quan sát tự nhiên để nghiên cứu phản ứng của con người trong tình huống khẩn cấp sẽ không gặt hái nhiều tiến bộ như trong quan sát tự nhiên vì theo định nghĩa tình huống khẩn cấp không xảy ra ở thời điểm và địa điểm được xác định trước. Tuy nhiên, sử dụng quan sát theo cấu trúc, một nhà điều tra có thể phân tình huống khẩn cấp thành từng giai đoạn - có lẽ bằng cách đóng vai một tai nạn với sự hợp tác của giới chức chính quyền - để quan sát phản ứng của người khác.

Các hành vi khác rất khó quan sát đối với nhà nghiên cứu vì chúng diễn ra trong bối cảnh riêng tư chứ không phải diễn ra nơi công cộng. Chẳng hạn, phần lớn sự tương tác giữa bạn bè diễn ra ở nhà, nơi đối với nhà điều tra rất khó quan sát kín đáo. Tuy nhiên, có thể yêu cầu bạn bè đến phòng thí nghiệm của nhà nghiên cứu, nơi đây trang trí giống như căn phòng trong gia đình trong một căn nhà thông thường. Sau đó yêu cầu bạn bè thực hiện một số hoạt động thường gặp ở bạn bè, chẳng hạn thảo luận một vấn đề hoặc quyết định nên xem phim gì. Sau đó các nhà nghiên cứu ở phòng khác quan sát hoạt động của họ bằng chiếc gương một chiều hoặc bằng cách quay phim.

Quan sát theo cấu trúc rất đáng giá trong việc giúp các nhà nghiên cứu quan sát hành vi vốn khó nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhà điều tra sử dụng tiếp cận này phải cẩn thận sao cho bối cảnh họ tạo ra không làm xáo trộn hành vi đáng được quan tâm. Chẳng hạn, quan sát nhóm bạn khi họ thảo luận vấn đề trong một căn phòng gia đình giả có nhiều khía cạnh giả tạo trong đó: nhóm bạn không phải ở trong nhà mình, nói chung họ làm theo yêu cầu, và họ biết có người quan sát mình. Bất kỳ hoặc tất cả những yếu tố này làm cho nhóm bạn có hành vi khác hẳn ngoài đời thực, vấn đề này liên quan đến tính giá trị của nghiên cứu. Chẳng hạn, quan sát nhóm bạn trong một căn phòng gia đình giả cho chúng ta biết sự tương tác của nhóm bạn khi chúng diễn ra tự nhiên? Nếu thế, chúng là sự đánh giá hành vi con người có giá trị. Các nhà điều tra phải thật chú ý trong việc dẫn chứng tính giá trị của cách đánh giá của mình bằng tư liệu.


Каталог: sachviet -> Y-Hoc-Tong-Hop


Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   72




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương