26
đỡ, điều trị triệu chứng, ngăn ngừa và xử lý sớm các biến chứng. Phần lớn các
tác giả cho rằng bệnh nhân không nên gắng sức trong thời kỳ cấp tính và nên
nằm nghỉ tại giường trong giai đoạn cấp [26], [28], [75]. Về chế độ dinh
dưỡng, các tác giả đều khuyến cáo phải ăn nhiều đường và đạm [5], [26],
[28]. Cần hạn chế tối đa các thuốc không cần thiết, nhất là những thuốc
chuyển hoá tại gan như thuốc an thần, estrogen, mặt khác, có thể dùng thuốc
nhuận tràng lợi mật (Magie-sunphat, Artichaud, Nhân trần, Chophytol),
vitamin (3B, B12, C), vitamin K nếu tỷ lệ prothrombin giảm [28]. Nên theo
dõi đường huyết hàng ngày và cần cung cấp cho bệnh nhân tối thiểu 4g
glucose/kg/24h bằng việc truyền dung dịch ngọt kết hợp uống để hạn chế tối
đa sự phân giải protein của cơ thể [37]. Về liệu pháp
corticoid, có nhiều ý
kiến khác nhau: theo Trepo [74] và Jean [20], cần chống chỉ định dùng
corticoid vì sẽ làm bệnh kéo dài hơn và tiên lượng bệnh nặng lên. Ở Việt
Nam, Vũ Bằng Đình [9] cho rằng, Corticoid có tác dụng: phong bế kìm hãm
men AND polymerase của virus, chống viêm không đặc hiệu, hạn chế quá
trình đáp ứng miễn dịch tổ chức.
- Đối với viêm gan virus thể ác tính có suy tế bào gan nặng hoặc hôn
mê gan: Việc điều trị nhằm 2 mục đích:
thứ nhất là hồi sức nội khoa để chống
phù não, suy hô hấp, suy tuần hoàn, suy thận và chảy máu, thứ hai là tìm
cách loại chất độc làm ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Hai mục đích điều trị này
đều nhằm kéo dài thời gian sống để gan của bệnh nhân tự phục hồi [26].
Nusinovici [84] khuyến cáo nên cho bệnh nhân dùng kháng sinh diệt vi khuẩn
đường ruột như Neomycin, Metronidazol vì có nhiều bệnh nhân trong số này
bị biến chứng nhiễm trùng vi khuẩn gram âm với các nội độc tố gây rối loạn
chức năng vi mạch, giảm lượng oxy vào tổ chức làm suy nhược toàn thân.
Các kháng sinh đường ruột này cũng có vai trò ức chế vi khuẩn đường ruột
sinhh NH3. Với những bệnh nhân có chảy máu tiêu hoá, một số tác giả
27
khuyên thụt tháo hoặc rửa ruột cho bệnh nhân, hoặc dùng thuốc nhuận tràng
với mục đích loại bỏ sự tích luỹ men ở ruột, loại bỏ nguồn sinh NH3. Cần
cung cấp cho bệnh nhân những acid amin như acid
glutamic, morrihepamin
để chuyển hoá và tăng đào thải NH3 qua thận. Bên cạnh đó, việc theo dõi tỷ
lệ prothrombin, hàm lượng fibrinogen là không thể thiếu được để kịp điều
chỉnh rối loạn đông máu nếu có, đặc biệt là chảy máu sau đẻ bằng truyền máu
tươi, tiêm vitamin K. Một số tác giả khác đã dùng corticoid liều rất cao truyền
tĩnh mạch đối với viêm gan nặng [22], [26]. Ngoài ra, Santiago cũng cho
rằng: cần theo dõi điều chỉnh cân bằng thể dịch, thăng bằng kiềm toan, nước –
điện giải, truyền Mantiol nếu có suy thận. Trên thế giới, ở các nước có nền y
học hiện đại, người ta đã áp dụng các phương pháp điều trị mà Việt Nam chưa
thể áp dụng được như: ghép gan cấp cứu cho những bệnh nhân bị suy gan cấp,
loại bỏ các chất chuyển hóa do hoại tử tế bào gan sinh ra làm ảnh hưởng tới
chức phận của não bằng cách thay máu, thay huyết tương có nhiều
anti-HBs,
truyền máu người bệnh qua gan lợn, thẩm phân máu [20], [60].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: