30
là 75% theo Caumes [73] và là 66% trong một nghiên cứu trên 106 thai phụ bị
VGVR B nặng của Acharya [37]. Hầu hết các tác giả đều nhận thấy:
gan teo
nhỏ, độ hôn mê sâu, phù não, mức tăng bilirubin máu ≥15mg/dl, tỷ lệ
prothrombin hạ là những yếu tố để tiên lượng khẳ năng sống của bệnh nhân
[3], [15], [77]. Tất cả các nghiên cứu về vấn đề chảy máu sau đẻ đều có
chung
một nhận xét: máu chảy không đông, các bệnh nhân này đều được kiểm soát
tử cung và tiêm oxytocin, một số trường hợp vẫn tiếp tục bị chảy máu dù tử
cung co tốt.
Vũ Khánh Lân [21], sau khi nghiên cứu tình hình viêm gan tại Bệnh
Viện C nay là ( Bệnh viện Phụ sản Trung ương) năm 1978, đã kết luận: bệnh
nhân mắc bệnh VGVR B càng gần đến ngày chuyến dạ thì càng nặng và tiến
triển càng nhanh. Nếu bệnh nhân bị viêm gan cấp vào viện, 60% có vàng da,
45% bệnh nhân có tỷ lệ prothrombin giảm dưới 60%. Vũ Khánh Lân cũng
nhận thấy, các bệnh nhân này có đầy đủ các triệu chứng của VGVR kinh điển
song enzyme gan không tăng nhiều, hội chứng tắc mật rõ hơn, thai phát triển
hoàn toàn bình thường với 86 trẻ đẻ ra có cân nặng từ 2000 đến 3500 g, chỉ có
2 trẻ sơ sinh bị tử vong vì non tháng. Tỷ lệ đẻ đường dưới là chủ yếu, tỷ lệ mổ
lấy thai chỉ có 3% trong nghiên cứu của Vũ Khánh Lân, [21] và là 4,2%
trong
nghiên cứu của Medhad [58] và chỉ định mổ lấy thai ở đây không liên quan
đến bệnh lý viêm gan mà hoàn toàn là lý do về sản khoa. Cũng theo kết quả
nghiên cứu của Vũ Khánh Lân, có 5% bệnh nhân phải mổ cắt tử cung không
hoàn toàn do bị chảy máu sau đẻ, 22% bệnh nhân có rối loạn đông máu. Tỷ lệ
viêm gan ác tính rất cao trong nghiên cứu này: 18/54 trường hợp, với biểu
hiện hôn mê, chảy máu dạ dày và tử vong dù đã được truyến máu. Tác giả
nhận thấy, hôn mê và tử vong mẹ thường xảy ra sau khi thai bị chết trong
chuyển dạ.
31
Đối với thai, ngoài những nguy cơ trên, tất cả các tác giả đều nhấn
mạnh đến khẳ năng lây truyền dọc của HBV từ mẹ sang con. Có rất nhiều
nghiên cứu đã đề cập đến sự lây truyền dọc của HBV. Sự lây nhiễm này chủ
yếu xảy ra trực tiếp trong cuộc đẻ do trẻ nuốt máu hoặc dịch âm đạo của mẹ
có chứa HBV hoặc truyền sang cho trẻ qua tổn thương ở da, niêm mạc. Sự lây
truyền cũng có thể xảy ra trong thời kỳ hậu sản thông qua việc trẻ bú mẹ,
HBV cũng có thể vượt qua hang rào rau thai để sang thai nhi từ trong tử cung
nhưng phương thức lây truyền này thấp [61], [65]. Theo Đinh Thị Bình nguy
cơ lây truyền dọc này là 66,7% [4] và là 93,5% theo Vũ Tường Vân [32] nếu
cả HBsAg và HBeAg đều (+) ở mẹ. Hậu quả là, gần 85% số trẻ này trở thành
người mang virus mãn tính và là nguồn lây quan trọng trong cộng đồng, sau
phát. Do vậy, cần phát hiện và diều trị sớm các sản phụ bị viêm gan khi khám
thai 3 tháng cuối, ít nhất là xét nghiệm HBsAg trước tháng thứ 8 của thai kỳ
[79]; nếu thai phụ có HBsAg (-), nên tiêm phòng viêm gan cho họ, nếu
HBsAg (+), cần xét nghiệm các chức năng gan để phát hiện thể viêm gan
không có triệu chứng, mọi trường hợp men gan tăng cao khi có thai đều là bất
thường [77]. Con của các sản phụ có HBsAg (+) phải được tiêm đồng thời 0,5
ml huyết thanh có chứa kháng thể miễn dịch chống viêm gan và vaccine trong
vòng 12 giờ đầu sau đẻ ở 2 vị trí khác nhau, rồi tiêm chủng nhắc lại sau đó1
tháng, 2 tháng và 1 năm[5], [46]. Việc tiêm phòng này cho phép tránh lây
nhiễm HBV cho 80% trẻ sơ sinh.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: