HỘI ĐỒng quý chức quý Chức Họ Đạo Ở Việt Nam Tham Gia Vào Thừa Tác Vụ Của Linh Mục


) Quí chức đầu tiên của họ đạo An Vực và Văn Nô



tải về 1.51 Mb.
trang5/22
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.51 Mb.
#16972
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22

2) Quí chức đầu tiên của họ đạo An Vực và Văn Nô.
Tại làng An Vực, các cha đã rửa tội cho khoảng 200 người, trong số đó có cụ Gioankim là người có học thức và đạo hạnh nhất. Cụ là người đầu tiên trong làng được lãnh nhận phép rửa tội. Sau khi lãnh nhận phép rửa tội, cụ cộng tác đắc lực với các thừa sai trong việc giáo huấn đức tin cho dân làng. Cụ rất sung sướng và hãnh diện về công việc tông đồ của cụ. Bởi vì, như lời cụ nói: «Trước kia tôi giảng dạy điều sai lạc, nhưng nay tôi giảng dạy sự chân thật». Hơn thế, cụ còn dâng hiến ngôi nhà của cụ cho các cha trú ngụ, và thửa đất của cụ để xây cất nhà thờ họ đạo. Đó là ngôi thánh đường đầu tiên tại Bắc Kỳ được các cha dòng Tên làm phép một cách trọng thể.
Ảnh hưởng truyền giáo của cụ Gioankim và những tân giáo hữu làng An-Vực đem đức tin đến cho nhiều người dân làng Văn-Nô lân cận. Trong số những tân giáo hữu của làng này, các cha đã chọn hai người đức hạnh, giàu có và học thức là các ông Giuse, vốn là thầy pháp của làng, và ông Simon là thầy giáo trường làng. Hai ông này đuợc các cha bổ nhiệm làm ông trùm họ đạo Văn-Nô, được lãnh nhận những tập kinh sách để học hỏi và truyền dạy cho người khác, luân phiên nhau điều hành các buổi hội họp ngày chủ nhật của cộng đoàn tín hữu. Hai vị là linh hồn của họ đạo (3).
3) Những quí chức đầu tiên còn vô danh ở Nam Kỳ
Về tình hình công cuộc truyền giáo ở Nam Kỳ trong những năm 1630-1639, cha Nguyễn-Hồng viết: «Trong thời buổi bách hại, các linh mục thừa sai không thể tự do giảng đạo và thăm viếng giáo dân, vì thế các ngài đã bổ nhiệm những quí chức đạo đức cho mỗi cộng đoàn tín hữu. Những người này thay mặt các ngài điều hành xứ đạo, bảo vệ đức tin tín hữu và loan truyền Phúc Âm cho lương dân. Nhờ sự cộng tác của họ, năm 1631 các cha đã rửa tội cho 540 người và vài trăm người khác trong năm 1632» (4)
4) Ông Bà Phanxicô ở một họ đạo tỉnh Quảng-Bình
Theo cha Alexandre de Rhodes, ông Phanxicô là quan võ trong đạo quân triều đình, và vợ ông là một bà phù thủy nổi tiếng. Nhưng sau khi được rửa tội, cả hai vợ chồng trở thành những «cổ động viên nhiệt huyết của Phúc Âm». Hơn nữa, hai vợ chồng rất có lòng sùng kính Đức Mẹ Đồng Trinh. Nhờ những hoạt động tông đồ của ông bà, hàng trăm người đã theo đạo và họp thành một cộng đoàn tín hữu mà ông Phanxicô là ông trùm tận tụy cho đến hơi thở cuối cùng (5).
5) Lòng nhiệt thành và can đảm của những quí chức ở Quảng Nam
Ở Quảng Nam, vào năm 1644, cộng đoàn tín hữu không chút nao núng trước những bách hại ghê sợ của quan triều. Bà trùm Mai đệ Liên cất giấu ở nhà bà một cây thánh giá từng được đặt trong nhà thờ. Quân lính bắt giam bà, đánh đòn tra tấn bà ròng rã ba ngày đêm, nhưng bà nhất quyết không khai, sau cùng bà được thả ra: đức tin đã vinh thắng.
Ông Antôn Tê, vị quí chức giàu có và là người thành lập cộng đoàn tín hữu, nghe tin cuộc bách hại gần kề, ông hội họp giáo dân và khích lệ họ giữ vững niềm tin tôn giáo. Ông xin họ trao lại cho ông cất giữ nơi an toàn tất cả những Cây Thánh Giá, và ông sẵn sàng trả tiền phạt nếu bị quân lính bắt phạt. Ông làm như thế để không một giáo dân nào chối bỏ đức tin vì sợ hãi (6).
6) Những ông trùm các họ đạo tỉnh Quy Nhơn
Ở Quy Nhơn, được biết cuộc bách hại sắp tràn tới, các ông trùm họ đạo chuẩn bị tinh thần cho giáo dân, khích lệ họ giữ vững đức tin, can đảm đối đầu với những trận đàn áp. Ông Ngữ, người đại diện của những quí chức tỉnh Quy Nhơn, vội vã tìm đến thỉnh ý cha Alexandre de Rhodes. Cuối cùng, ông Ngữ và năm người quí chức khác đã được vinh dự tử đạo (7).
Cũng ở Quy Nhơn, quí chức Antoninô đã khéo léo bảo vệ cộng đoàn tín hữu trước cuộc đàn áp, đồng thời còn rửa tội được 140 trẻ em và người lớn, dạy giáo lý cho 20 người khác trong khi chờ chuyến viếng thăm của cha Alexandre de Rhodes (8).
Cha Alexandre de Rhodes còn thuật lại rằng: năm 1644, ngài đã cử hành lễ Giáng Sinh tại nhà ông Nicolas Hảo mặc dù có những biện pháp đàn áp lục soát của quan triều. Ông Hảo là quí chức cộng đoàn tín hữu, được quí trọng không những bởi giáo dân mà còn cả lương dân nữa. Ông là người chính trực, lương thiện và giàu có. Ông chân thành giúp đỡ các vị thừa sai bằng lòng ân cần tiếp rước, bằng tiền bạc dâng cúng và bằng sự phục vụ của ông. Ông phục vụ cộng đoàn tín hữu bằng cách củng cố đức tin cho những người đã được rửa tội, và dẫn dắt những người lương dân vào đạo Công Giáo. Vào lễ Giáng Sinh 1644, ông đã xin cha rửa tội cho 22 người dự tòng (9).
7) Hai quí chức tử vì đạo ở Quảng-Bình
Cuộc bách hại lâu dài bởi quan Thượng gây bao khốn khổ cho giáo dân. Vào năm 1646, hai quí chức cộng đoàn tín hữu ở Quảng Bình bị bắt và điệu ra trước quan triều. Đó là các ông Augustinô và Simon. Cả hai ông bị tố cáo là đã giúp đỡ các vị thừa sai, bảo vệ giáo dân và đưa nhiều lương dân vào đạo Công Giáo. Đó là sự thực, bởi vì hai ông đã dốc toàn sức lực kiến tạo họ đạo và làm sáng danh Thiên Chúa. Cùng với bốn tín hữu, hai ông bị khảo cung và tra tấn tàn bạo nhiều lần, nhưng tất cả đều giữ vững đức tin… Chính vì thế, quan triều tức giận và hạ lệnh chém đầu. Họ đi tới nơi hành quyết một cách can đảm. Ông Simon nhiệt thành khuyên nhủ những tín hữu hiện diện tại pháp trường can đảm giữ vững đức tin, sau đó ông tuyên bố trước lương dân rằng các ông bị tử hình chỉ vì mang tội là người theo đạo Công Giáo. Ông Augustinô bị chặt đầu và ông Simon chết bởi những đòn trượng (10).
8) Hai văn bản lịch sử
Để kết luận, chúng ta đan cử nơi đây một trích thư của cha Deydier viết cho ban giám đốc chủng viện Thừa Sai Hải Ngoại ngày 28.7.1668, và một bản tường trình khác về tình hình truyền giáo năm 1680. Cả hai bản văn xác nhận rõ ràng: hàng ngũ quí chức được tổ chức một cách thực tế từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam.
«Từ khi tôi làm xong công việc sắp đặt mọi sự cho được tốt đẹp nhất, tôi đã có thể thiết dựng 5 ngôi thánh đường trong thành phố vương đô này, và đặt 6 vị (quí chức) nhiệt thành và học thức nhất trong các tín hữu tại mỗi thánh đường, vì tôi muốn đi khắp các làng để rao giảng Tin Mừng…» (11).
«…Trong mỗi thánh đường, từ hàng ngũ giáo dân người ta chọn ra một người có đời sống gương mẫu và không mấy bị câu thúc bởi công kia việc nọ để giúp việc nhà thờ, hội họp giáo dân, xướng kinh hạt những ngày chủ nhật và ngày lễ, đọc sách thiêng liêng, giảng dạy, thông báo lịch hàng tuần những ngày lễ hay chay tịnh, thăm viếng bệnh nhân, sắp xếp cho vị linh mục đến ban bí tích xức dầu nếu là bệnh nặng, thu nhận tiền bạc dâng cúng của tín hữu để mua nhang đèn và những gì cần thiết cho nhà thờ...” (12).

MỤC II
ĐƯỢC THỪA NHẬN HỢP PHÁP BỞI GIÁO QUYỀN

NHƯNG CÒN NON KÉM VỀ TỔ CHỨC

(1670- 1885)
I. BỞI HAI CÔNG NGHỊ MIỀN ĐẦU TIÊN
Chúng ta vừa nói ở trên, vào năm 1659, Tòa Thánh đã thiết lập hai giáo phận (Vicariats apostoliques: đại diện tông tòa, chuẩn giáo phận) đầu tiên tại Việt Nam. Đó là giáo phận Bắc Kỳ (Tonkin) với đức cha Pallu là vị giám mục đầu tiên, và giáo phận Nam Kỳ (Cochinchine) với đức cha Lambert de la Motte. Nhưng vì bận việc Giáo Hội ở Âu Châu, đức cha Pallu đã trao quyền giám quản tông tòa của ngài cho đức cha Lambert de la Motte. Một trong những công trình đáng ghi nhớ mà đức cha Lambert de la Motte đã thực hiện là triệu tập công nghị cho giáo phận Bắc Kỳ vào năm 1670, và cho giáo phận Nam Kỳ vào năm 1672. Mỗi công nghị đều đã đề ra những nghị quyết quan trọng liên quan tới việc tổ chức Hội Đồng Quí Chức của họ đạo.
1) Công nghị Bắc Kỳ vào năm 1670
Công nghị miền đầu tiên đã đề ra những nghị quyết cụ thể về việc tổ chức các Hội Đồng Quí Chức của họ đạo Việt Nam chính là công nghị Bắc Kỳ năm 1670. Công nghị này được triệu tập ngày 14.2 tại tỉnh Nam Định, dưới quyền chủ tọa của đức cha Pierre Lambert de la Motte. Văn bản chính thức của công nghị, được duyệt y bởi đức giáo hoàng Clément X ngày 13.12.1673, gồm có 34 điều trong đó điều 7 và điều 21 nói về các quí chức:
Điều 7: Nơi nào có đông tín hữu, thì mỗi họ đạo sẽ cắt cử những người đức hạnh nhất trong họ đạo để chăm lo việc hội họp kinh nguyện, việc rao lịch, giúp giáo dân giữ cẩn thận các ngày kiêng thịt và quan tâm đến những người khác.
Điều 21: Những linh mục quản nhiệm, các thầy giảng và quí chức phải khích lệ giáo dân sống đức khó khăn, năng nguyện gẫm, ít ra theo lịch các ngày kiêng thịt, đặc biệt trong những ngày đó, suy ngắm về sự thương khó và sự chết của Chúa Giêsu Kitô (13).
2) Công nghị Nam Kỳ vào năm 1672
Hai năm sau công nghị Bắc Kỳ, từ ngày 26-10 đến ngày 18-11-1672, công nghị Nam Kỳ được triệu tập tại thành phố Hội An (Faifo) thuộc tỉnh Quảng Nam khi đó trực thuộc miền truyền giáo Nam Kỳ. Công nghị này cũng do đức cha Lambert de la Motte, vị giám quản đầu tiên của giáo phận Nam Kỳ (1659-1679), chủ tọa. Công nghị đã chú trọng đến đời sống tín hữu, sự tổ chức những giáo sở và những họ đạo. Chính vì thế, bên cạnh những nghị quyết về hôn nhân, ban hành các bí tích, còn có những nghị quyết liên quan đến định chế của quí chức họ đạo, những nghị quyết về những bổn phận của quý chức. Chúng ta có thể lược tóm như sau:
Cần thiết phải chọn lựa những quí chức cho những họ đạo tương đối đông đảo. Quí chức phải là những tín hữu đức hạnh và khôn ngoan.
Nhiệm vụ của quí chức trong những khi vị linh mục và các thầy giảng vắng mặt là chăm lo trước tiên những buổi cầu nguyện, rao lịch những ngày kiêng thịt, dạy giáo lý, thăm viếng bệnh nhân, rửa tội cho trẻ em và người lớn, tuy nhiên chỉ rửa tội cho người lớn sau khi biết rõ tình trạng hôn phối của họ, quản lý sổ hôn phối và sổ tử, giúp đỡ tín hữu sống Phúc Âm.
Như thế, vai trò và nhiệm vụ của quí chức đã được thừa nhận và qui định bởi giáo quyền. Họ không chỉ là những tín hữu đức hạnh, mà còn là những cộng tác viên của linh mục, những ông trùm của họ đạo. Trong thời buổi cấm cách, trong lúc thiếu vắng linh mục, họ là những người thay thế để củng cố và làm vươn tiến sinh hoạt họ đạo về mặt thiêng liêng, luân lý đạo đức cũng như về mặt vật chất (14).
II. NHỮNG HY SINH QUẢNG ĐẠI CỦA QUÍ CHỨC TRONG THỜI CẤM ĐẠO
Lịch sử xác nhận rằng từ năm 1670 đến năm 1884, nghĩa là từ công nghị Bắc Kỳ cho đến cuốn “Chức Sở Mục Lệ” được đức cha Colombert ấn hành, giáo dân trải qua nhiều cuộc bách hại khắc nghiệt. Nhưng chính trong những thời kỳ khó khăn nhất này của lịch sử kitô giáo việt nam, chúng ta nhận ra sự cộng tác quảng đại và can đảm của quí chức vào thừa tác vụ của linh mục, hay đúng hơn, vào công cuộc truyền giáo, vào đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Không thể nêu lên tất cả những trường hợp lịch sử, chúng ta đành chỉ kể đến một vài trường hợp tiêu biểu nhất.
1) Bắt giam toàn bộ quí chức công giáo
Năm 1859: Vào khoảng trung tuần tháng 10.1859, chiếu theo các sắc lệnh của vua, quan triều tiến hành bắt giam những quí chức các họ đạo. Trên toàn quốc, những quí chức trên năm mươi tuổi bị lùng bắt. Nhà tù chẳng mấy chốc trở nên đầy ứ. Những tù nhân bất hạnh này không được vua cho cơm ăn, nên các thừa sai phải chu cấp cho họ.
Những cuộc bắt giam hàng loạt này đã làm sụp đổ cơ cấu tổ chức và gây hoảng loạn trong các họ đạo. Người ta khiếp sợ nghĩ đến những hành quyết sắp ập xuống trên những tù nhân này. Tiếng đồn về một cuộc tàn sát tận tuyệt đã loan truyền khắp các tỉnh thành.
Năm 1861: Tiếp đó, vào năm 1861, quan triều thi hành sắc lệnh phát vãng toàn diện: Những quí chức bị bắt giam cầm từ hai năm nay và tất cả giáo dân trai tráng đều vắng bóng, trong các làng chỉ còn những người già cả, tàn tật,đàn bà, con nít và một vài người bần cùng, vì bị quên sót hay được ân huệ.
Lúc này, quan triều lùng bắt khắp nơi. Rút kinh nghiệm, họ bắt giam cả những tín hữu đã bỏ đạo, bởi vì, theo nhà vua: “Chúng không thành thực bỏ đạo và vẫn mê muội với giáo thuyết sai lạc của chúng”. Vào tháng 5.1860, đức cha Lefebvre viết về tình hình ở Sài Gòn: “Những cuộc bắt bớ tại khắp nơi gia tăng gấp đôi cường độ. Chưa từng bao giờ trong vòng một năm lại có nhiều người tuyên xưng đạo và nhiều người tử vì đạo đến như vậy. Hiện tại, tôi đang có 396 tín hữu bị rên xiết dưới gông cùm và xiềng xích ngục tù! Con số này còn gia tăng trong suốt các năm 1860 và 1861 với sự bắt giam những quí chức của các họ đạo thuộc giáo phận” (15).
Nới rộng nhà tù: Cũng trong thời ấy, 1659-1661, về phía Bắc Sài Gòn, Giáo Hội Chúa Kitô tại một quận của tỉnh Biên Hòa đã khai sanh đông đảo các vị tử đạo. Tại đây, những quí chức của các họ đạo Tân Triêu, Mỹ Hội, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một và vùng phụ cận, bị giam giữ trong một ngục thành mà có ngay con số tín hữu tù nhân đếm được tới 600 người. Rốt cuộc, khi không thể chứa thêm, quan triều có một phương cách khá đơn giản để nới rộng nhà tù, đó là đem đi chặt đầu những người bị bắt giam (16).
Theo cha L. H. Louvet, con số quí chức bị bắt giam trên toàn quốc lúc đó lên tới khoảng mười ngàn người. Hơn một nửa trong số đó đã chết vì đức tin, có những người bị chém đầu theo án xử thường lệ, có những người bị thiêu sống tập thể, bị chôn sống, bị cột đá ném xuống sông hay xuống biển. Một số rất đông, nhất là ở Bắc Kỳ, bị bỏ chết đói. Đàng khác, trên hai ngàn họ đạo bị phá hủy, động sản và bất động sản, ruộng nương, nhà cửa, vườn tược đều bị tịch thu cấp cho lương dân lân cận (17).
2) Một vài dẫn chứng đặc biệt
Vào năm 1647, tại tỉnh Quảng Bình, sáu tín hữu bị bắt giam, hai người trong số đó bị tử hình: Một người là Alexis, quan võ trong đạo quân triều đình. Người kia là ông trùm họ đạo, tên là Augustinô (18).
Ngày 9.1.1665, Chúa Hiền Vương cho quân lùng bắt giáo dân họ đạo Dinh Cát, trong số đó có ông trùm Têphanô và sáu người đàn anh trong họ bị lên án chặt đầu (19).
Ngày 9.12.1888, tu viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Cái Mơn bị một toán quân xâm nhập. Sau khi cướp phá, chúng tra gông cùm các ông trùm trưởng, nữ tu bề trên Matta Lành và nữ tu Elisabeth Ngộ, rồi dẫn điệu họ về Vĩnh Long. Đồng thời, chúng bắt giam 5 người trong số những quí chức của các họ đạo vùng Cái Môn. Một trong những quí chức, ông Gioan Hoan, là trùm của họ đạo và lý trưởng của làng, ông đã tuyên chứng một đức tin bất khuất (20).
Vào năm 1859: Vào đêm mùng 7 rạng ngày mùng 8 tháng 1.1859, họ đạo Dầu Nước, vùng phía Tây miền truyền giáo, bị một toán ít ra là ba trăm quân lính xâm nhập giữa đêm khuya. Họ đạo này bị tố lên quan triều tỉnh Châu Đốc về tội chứa chấp một giáo sĩ thừa sai Âu Châu, một linh mục Việt Nam, có một tu viện và một thánh đường xinh đẹp. Vị thừa sai nói đây không ai khác là cha M. Pernot, trở về làm giám đốc chủng viện ở Paris vào cuối năm 1860. Sự tận tâm của ông trùm Lý Phụng đã đưa cha M. Pernot vượt thoát. Nhưng khi trở về, ông Lý Phụng bị quân hầu bắt trói. Ngày 13.7.1859, ông Lý Phụng và cha Quy bị kết án tử hình. Ngày 13.2.1879, cả hai vị được đức giáo hoàng Léon XIII tuyên phong bậc Đáng Kính, (21) đức giáo hoàng Piô X suy tôn bậc Chân Phước, ngày 02.05.1909 và đức giáo hoàng Gioan Phaolô II tôn phong bậc Hiển Thánh ngày 19.06.1988.

MỤC III
KHÔNG NHỮNG ĐƯỢC TỔ CHỨC

MÀ CÒN ĐƯỢC ĐỊNH CHẾ HÓA

(1884-1934)
I. CHA COLOMBERT ẤN HÀNH CUỐN “CHỨC SỞ MỤC LỆ”
1) Cha Colombert, giám mục Sài-Gòn
Cha Colombert thuộc giáo phận Laval, ngài sinh ngày 20.3.1838, chịu chức linh mục ngày 30.5.1863. Sau khi chịu chức, cha được các bề trên phái đi thừa sai ở Sài Gòn. Trước tiên ngài được gửi đến Mạc Bắc để học tiếng Việt dưới sự hướng dẫn của một linh mục Việt Nam. Sau chín tháng, vào đầu năm 1864, cha được bổ làm phụ trách giáo xứ Cái Nhum, một họ đạo lớn trong tỉnh Vĩnh Long. Năm sau, cha Colombert được đức cha Miche giáo phận Sài Gòn gọi về làm bí thư riêng của ngài và làm quản lý nhà chung. Ngài giữ hai chức vụ này cho tới năm1872, khi được bổ nhiệm làm giám mục. Năm ấy ngài mới 35 tuổi, ngài hăng say phục vụ giáo phận cho đến mãn đời. Đức cha Colombert được nghỉ yên trong Chúa vào năm 1895 (22).
Ba công trình chính mà cha Colombert đã thực hiện cho giáo phận của ngài là: Tái thiết hai chủng viện (23), xây cất nhà thờ chính toà (24), và tiếp tục công trình tổ chức các họ đạo và Hội Đồng Quí Chức (25). Công trình thứ ba này được khởi sự bởi đức cha Lefebvre (1861-1865) và đức cha Michel (1865-1872), và được tiếp tục đẩy mạnh bởi đức cha Colombert. Theo cha L. Louvet, sau thời bách hại dai dẳng và chiến tranh loạn lạc, tình trạng các họ đạo thật bi thảm: chính vì vậy, nói trắng ra là tất cả đều phải làm lại từ đầu. Phải trấn an những người tân tòng, thiết lập lại các họ đạo bị phân tán đến phân nửa hoặc đến ba phần tư, tái lập việc thờ phượng cộng đồng từ ròng rã năm năm bị gián đoạn khắp nơi, xây dựng các nhà thờ tạm thời, các nhà xứ, các tu viện cho hàng trăm nữ tu phải tạm trú ở gia đình họ...
2) Cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ của đức cha Colombert
Sáng kiến đặc biệt nhất của đức cha Colombert trong việc tổ chức lại các họ đạo chính là việc ấn hành vào năm 1884 cuốn “Chức Sở Mục Lệ”. Đứng về phương diện lịch sử và mục vụ, đây là một tài liệu rất quan trọng. Người ta có thể nói rằng bản Qui Luật này rất thực tế, chính xác và đầy đủ ít nhất là đối với thời đó. Bản Qui Luật nói rõ tất cả những gì liên quan đến vai trò và mục đích của Hội Đồng Quí Chức trong họ đạo, cũng như tất cả những gì quí chức phải làm để cộng tác với linh mục trong việc điều hành một họ đạo và việc truyền giáo cho lương dân. Bản Qui Luật thu tập tất cả những ứng dụng truyền thống của việc tổ chức hàng ngũ quí chức trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam và hệ thống hóa thành những điều lệ rõ ràng. Cuốn Chức Sở Mục Lệ của đức cha Colombert còn là một khuôn thước mẫu mực cho mọi sáng kiến tái tổ chức cơ cấu mục vụ của những họ đạo Việt Nam vào sau thời kỳ cấm cách.
Hơn nữa, cho tới năm 1953, đức cha Ngô Đình Thục, giám mục giáo phận Vĩnh Long, trong chương trình tái tổ chức những họ đạo trong giáo phận của ngài, ngài cũng chỉ ứng dụng cho Hội Đồng Quí Chức của mỗi họ đạo chính bản Chức Sở Mục Lệ được biên soạn bởi đức cha Colombert với một vài tu chính nhỏ (26).
Nói tóm lại, với cuốn Chức Sở Mục Lệ do đức cha Colombert sọan, Hội Đồng Quí Chức của họ đạo tại Việt Nam thật sự là một thực thể có tổ chức và có định chế. Trở thành một Hiệp hội trong phong trào Công Giáo Tiến Hành với danh hiệu “Hội Đồng Quí Chức“.
3) Trình bày tổng quát cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’
Ấn bản đầu tiên của cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ không còn tìm thấy. Dù vậy, chúng ta có một bản văn đáng tin là trung thực, được in trong cuốn “Thiên Chúa Thánh Giáo Nhựt Khóa Chúa Nhựt Pháp” từ trang 629 đến trang 660, Sài Gòn 1898 (27). Đây là cuốn sách Kinh Nguyện mà mỗi một quí chức đều phải có. Mỗi quí chức đến nhà thờ luôn luôn có trong tay cuốn sách này, nhất là vào phiên của mình chủ xướng kinh nguyện cộng đoàn. Theo bản văn này, cấu trúc cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’ gồm có ‘TỰA’ tức là phần dẫn nhập và 70 điều nằm trong 5 ĐOẠN. Chúng ta phân tích sơ lược như sau: (28)
CHỨC SỞ MỤC LỆ, TỰA: Trang mở đầu xác nhận, theo truyền thống và một cách thực dụng, việc tổ chức cơ cấu những quí chức đã có ngay từ buổi đầu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam; trình bày những lý do đưa đến sự biên soạn và ấn hành cuốn ‘Chức Sở Mục Lệ’; nói đến bổn phận của các chức sở phải đọc cho kỹ và giữ cho đúng những điều viết trong cuốn Chức Sở Mục Lệ, và đến phần thưởng đời đời dành cho những người tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên.
ĐOẠN THỨ NHỨT:Nói về sự bầu cử chức sở là có ý nào’, nghĩa là ‘nói về ý nghĩa của sự chọn lựa những quí chức của họ đạo’ (Đ.1-4): Khi xưa Chúa Kitô chọn 72 môn đệ, ngày nay theo gương Ngài, các bề trên trong Giáo Hội cũng tuyển chọn các quí chức (Đ.1); trước hết để các linh mục có những cộng tác viên và giáo dân có những gương mẫu (Đ.2). Mặc dù những quí chức không thể chờ đợi gì về những mối lợi lộc vật chất bởi phẩm chức của họ, họ biết rằng sự quan trọng của những gì là siêu nhiên vượt hơn những gì là thế tục, phẩm chức của họ đáng được quí trọng hơn tất cả những phẩm chức thế tục (Đ.3). Vậy thì, những người tham dự vào phẩm chức của họ đạo có thể là những chức sắc của thôn làng hay của những chức vị phần đời khác (Đ.4).
ĐOẠN THỨ HAI : “Nói về sự bầu cử chức sở cùng số chức sở trong mỗi họ là bao nhiêu” (Đ.5-12): Quí chức được phân biệt ra nhiều cấp bậc: trong họ đạo lớn thì có các ông Trùm phủ, Trùm nhất, Trùm nhì; trong họ đạo nhỏ thì có các ông Câu nhứt, Câu nhì; trong mỗi họ đạo lớn hay nhỏ đều có Biện việc, Biện sở và Giáp. Các ông biện phụ tá ông trùm và ông câu; còn ông giáp là người đặc trách một khu hay một xóm (Đ.5). Mỗi chức sở (quí chức) phải được bầu cử bởi giáo dân hay bởi những thành viên của Hội Đồng Quí Chức, sau đó phải được cha xứ tán thành. Quí chức cấp cao còn được đức giám mục cấp bằng (Đ.6). Để là ứng viên, thứ nhứt phải ‘có công làm giáp một ít năm’; thứ hai ‘phải đặng chừng 30 tuổi’; thứ ba, ‘cách ăn nết ở phải hiền từ đức hạnh, danh thơm tiếng tốt’; thứ bốn, phải thông hiểu lẽ đạo cho đặng dạy dỗ người ta những điều cần kíp’; thứ năm, phải ‘giữ đạo cho chín chắn’; thứ sáu, ‘phải biết đọc cùng biết viết chữ quốc ngữ hay là chữ nôm’ (Đ.7). Các chức sở đã được đức giám mục cấp bằng thì chỉ có thể bị truất chức bởi đức giám mục (Đ.8); Người làm giáp thì cha xứ có quyền chọn và cấp bằng, nên ngài cũng có quyền cất chức khi có lý do chính đáng. Người làm giáp ít nhất phải đủ hai mươi lăm tuổi (Đ.9). Sĩ số quí chức tùy thuộc tầm quan trọng của mỗi họ đạo: Họ đạo trên một ngàn giáo dân, có thể đặt hai ông trùm, hai ông câu và mười hai ông biện tùy theo trong họ đạo có nhiều xóm hay ít xóm; còn họ đạo có dưới một ngàn giáo dân và có cha sở, thì chỉ cần đặt một ông trùm, hai ông câu và chín ông biện; còn những họ đạo không có cha sở thì phải có một ông câu và bốn ông biện. Riêng số ông giáp thì tùy cha bổn sở (Đ.10). Họ nào muốn thêm sỉ số các chức sở như đã ấn định thì phải xin phép đức giám mục (Đ.11). Hiện nay họ đạo nào quá sỉ số các chức sở, thì cứ giữ nguyên, nhưng khi một chức sở qua đời thì không được thay thế (Đ.12).
ĐOẠN THỨ BA : “Nói về chức phận mỗi một người trong hàng chức sở” (Đ.13-18):
Chức phận trùm phủ: chức trùm phủ dành cho người có công nghiệp đối với họ đạo hay với nhà chung. Người có chức trùm phủ được đức giám mục đặt cử nên là bậc đàn anh trên hết các chức sở của họ đạo và trong cả giáo phận (Đ.13).
Chức phận ông Trùm họ (trùm nhất): Ông là người đứng đầu cả họ, cả Hội Đồng Qúi Chức trong họ, dưới quyền của cha sở. Ông phải làm gương tốt cho mọi người (Đ.14); Ông chủ sự đọc kinh trong nhà thờ và các buổi hội qúy chức trong họ (Đ.15), lo giữ bầu khí hoà thuận trong họ, phân xử các vụ xích mích, và trình lên cha sở mọi công việc (Đ.16). Nhiệm kỳ của trùm nhất là mãn đời, khi ông đau yếu thì trùm nhì thay thế (Đ.17). Khi ông qua đời, phải đợi đủ ba tháng mới bầu ông trùm thay thế và xin đức giám mục phát bằng bầu cử (Đ.18). Ông trùm nhì được quyền làm các việc như trùm nhất, khi ông này vắng mặt hay đau yếu (Đ.19).
Chức phận câu họ: Trong họ lớn thì câu họ (trùm nhì) có phận vụ như vừa nói trên, còn trong họ nhỏ thì chức vụ câu cũng giống chức trùm nhất (Đ.20). Vừa khi bầu cử xong, cha sở phải xin đức giám mục cấp bằng cho câu họ (Đ.21). Nhiệm vụ đặc biệt của câu họ là lo quán xuyến của cải trong họ, vườn và ruộng nhà chung, nhất là việc thu tiền cho mướn ruộng đất (Đ.22). Ông còn phải quan tâm việc giữ sạch sẽ bên trong bên ngoài nhà thờ và đất thánh (Đ.23). Tóm lại, câu họ (trùm nhì) được đặt lên là để giúp đỡ câu nhứt (trùm nhứt) nên có quyền lợi và phận vụ như trùm nhứt (Đ. 24).
Chức phận Biện việc: Tức ủy viên tài chánh, là người làm việc trực tiếp dưới quyền cha sở hay ông trùm nhất để lo việc xuất phát (chi tiêu) của nhà thờ (Đ.25). Ông được các chức sở trong họ bầu lên với nhiệm kỳ một năm (Đ.26). Ông biện việc phải lo sắm sửa các đồ thờ phượng trong nhà thờ, lo việc chi tiêu và tiền còn lại nộp về cha sở (Đ. 27). Ông phải làm sổ sách nghiêm chỉnh và trình sổ với các chức sở và cha sở vào ngày lễ hai thánh Phêrô và Phaolô mỗi năm (Đ.28). Ông phải làm việc dưới quyền cha sở và mỗi lần nhóm họp, chính ông phải mời các chức sở tới (Đ.29).
Chức phận Biện sở: Mỗi họ đạo chia ra nhiều xóm và mỗi xóm có một biện sở trách nhiệm (Đ.30). Biện sở như ‘con mắt của cha sở’ để lo toan mọi việc trong xóm, phải trình ngài mọi vụ việc, nhất là khi có gương xấu xảy ra (Đ.31). Do đó phải làm gương tốt và giữ đạo sốt sắng (Đ.32). Cụ thể là phải đi dự các giờ phụng tự trong nhà thờ, như nghe giảng, học sách phần, đọc kinh, dâng lễ, siêng năng đọc kinh sáng tối (Đ.33). Khi cha sở muốn gặp ai, biện sở phải tìm người đó đến. Phải luôn nhớ mình là người thay mặt cha sở và bổn đạo trước mặt Chúa (Đ.34).
Biện sở phải học biết cách rửa tội để khi cần kíp thì rửa tội, khi có trẻ em sinh ra đã ba ngày hay người lớn cần rửa tội thì trình cha sở (Đ.35), phải cắt nghĩa cho cha mẹ và người đỡ đầu biết những việc họ phải làm (Đ.36); lại phải giúp đỡ và liên hệ với những ‘mụ bà’ hay ‘phô ông làm thầy thuốc’ thường đi rửa tội cho trẻ em ngoại giáo (Đ.37 và 39-40). Biện sở phải sốt sắng dạy giáo lý cho bổn đạo và truyền giáo cho lương dân; nếu cần phải giúp họ có cơm ăn áo mặc, nhà ở, cả sau khi họ đã chịu phép rửa tội. Do đó cần đi dự các giờ giáo lý cha sở dạy (Đ.38). Biện sở phải làm sổ những người xưng tội rước lễ mùa Phục Sinh, những trẻ em Rước lễ lần đầu, chịu Phép xức trán, những thanh niên chưa rước lễ hay chưa chịu xức trán, những cặp vợ chồng rối, những người mới nhập họ (Đ.41). Biện sở phải quan tâm nhắc nhở những cha mẹ lơ là trong việc giáo dục con cái, bỏ bê việc dạy kinh bổn cho con cái, hay có con đã lớn mà chưa xưng tội hoặc chưa chịu xức trán; cũng phải nhắc nhở cho các vú bõ nhớ phận vụ của họ (Đ.42).
Khi có người đau yếu, biện sở phải năng thăm viếng, rước linh mục về ban phép Xức dầu cho họ (Đ.43). Khi linh mục kiệu Mình Thánh đến, biện sở phải lo bày bàn thờ, cùng đọc kinh với những người thân cận gia đình, giúp bệnh nhân dọn mình… (Đ.44). Khi bệnh nhân qua đời, biện việc lo tránh các tục dị đoan, mà theo sách Tử Hầu giúp gia đình tổ chức lễ an táng đúng theo phép Hội Thánh. Sau đây là những việc không được làm trong việc tống táng: - phải chôn xác nội trong ba ngày, - không được tổ chức ăn uống linh đình, - không đốt pháo, chơi nhạc, - không được cầu hồn chung trong tư gia, mà phải tổ chức ở nhà thờ họ, - phải ăn mặc chỉnh tề, không khóc lóc, không ăn trầu hút thuốc trong khi cử hành lễ an táng, - không om xòm, nhưng thinh lặng, đọc kinh cầu nguyện và tỏ lòng cung kính (Đ.45). Riêng việc cưới hỏi, biện việc phải nhắc người ta giữ đủ ba lễ: lễ bỏ trầu cau, lễ hỏi và lễ cưới, và dĩ nhiên lễ bỏ trầu cau ít trọng hơn lễ hỏi và lễ hỏi ít trọng hơn lễ cưới. Nếu thấy có một bên đòi hỏi quá lẽ công bằng, biện việc phải khuyên răn, bằng không được thì phải trình cha sở. Việc làm dâu sau ngày cưới cũng vậy (Đ.46). Gần ngày cưới, đôi bạn và cha mẹ phải được biện sở dẫn tới cha sở để xin rao ba lần và để dọn mình xưng tội và làm phép cưới chứ không trì hoãn (Đ.47). Ngày lễ cưới, biện sở phải lo chuẩn bị bàn thờ, nhẫn, nến cho đôi bạn. Sau ngày lễ phải lo sổ sách cẩn thận và đem nộp tờ hôn thú cho làng xã (Đ.48). Biện sở phải nhắc cho hai gia đình biết: lễ ở nhà thờ, tại gia đình và việc đưa dâu về nhà chồng phải làm xong trong một ngày, và phải coi bí tích hôn phối trọng hơn việc cưới đời. Trong bữa tiệc cưới, lẽ thường biện việc được mời tới dự, ông phải lo tránh mọi hình thức dị đoan (Đ.49). Bây giờ không còn được cử hành hôn phối trước mặt mấy chức việc làm chứng nữa, trừ khi hoàn cảnh không thể mời được linh mục (Đ.50).
Biện việc lại lo cho trong họ tránh khỏi gương xấu: vì cảnh rối vợ rối chồng, vì người chồng có vợ bé, vì vợ chồng chia rẽ nhau, cảnh cờ bạc, nghiện ngập, cho vay ăn lãi nặng, làm việc xác ngày chúa nhật, vì bỏ bê con cái. Nếu khuyên răn không được, phải trình lên cha sở (Đ.51). Biện sở phải quan tâm giúp đỡ những người già yếu, khó nghèo, những kẻ bị sa cơ, thất thế… Bằng trong họ không ai giúp được thì phải trình cha sở (Đ.52).
Thi hành phận vụ như vậy, biện sở vừa phải nhiệt tâm vừa phải khiêm tốn, không kiêu căng và hằng nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Ai làm lớn phải trở nên bé nhỏ, và phục vụ mọi người” (Mt 10,43-44). Phục vụ như vậy, bây giờ biện sở được vui trong lòng và ngày sau sẽ được thưởng bội hậu (Đ. 53).
Chức phận người làm Giáp: Giáp là phó biện, chuẩn bị để nhập hàng chức sở. Cha sở chọn và cấp bằng cho Giáp (Đ.54). Biện sở có quyền đề nghị thêm ông giáp giúp đỡ mình (Đ.55). Phận vụ của ông giáp là phụ tá biện sở. Vì thế trong các buổi hội chức sở, giáp có thể tham dự mà không có quyền bàn luận (Đ.56).

tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   22




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương