Giáo trình Địa lý du lịch


LĂNG KHẢI ĐỊNH ( ƯNG LĂNG)



tải về 1.09 Mb.
trang12/17
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích1.09 Mb.
#1820
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

LĂNG KHẢI ĐỊNH ( ƯNG LĂNG)

Vua Khải Định lên ngôi năm 1916, là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là người cuối cùng xây dựng lăng tẩm cho mình. Sau khi dập tắt cuộc khởi nghĩa Thái Phiên – Trần Cao Vân 1916, chính phủ bảo hộ Pháp bắt vua Duy Tân đày sang đảo Réunion ở Phi Châu, rồi đưa Nguyễn Phúc Bửu Đảo – con trai duy nhất của vua Đồng Khánh lên ngai vàng. Bửu Đảo đặt niên hiệu là Khải Định, trị vì được 9 năm, thọ 40 tuổi. Khải Định chọn miền núi Châu Chữ – còn gọi là Châu Ê – cách Huế 10km để xây dựng lăng. Lăng lấy một quả đồi nhỏ phía trước làm tiền án, hai ngọn núi phía trước (Chóp Vung và Kim Sơn) làm Long chầu Hổ phục. Hướng lăng phía Tây, có khe Châu Ê chảy từ tả sang hữu làm thủy tạ, gọi là Minh Đường. Nhà vua đổi tên núi Châu Chữ vừa làm hậu chẩm vừa làm nơi xây dựng lăng thành Ưng Sơn nên lăng còn được gọi là Ứng Lăng.

Diện tích khu vực khoảng 1 ha. Lăng được khởi công xây dựng ngày 4/9/1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn tất. Người ta triệu tập nhiều nghệ nhân nổi tiếng khắp nước như Phan Văn Tánh, Nguyễn Văn Khả … Để có kinh phí xây dựng lăng, vua cho tăng thuế điền lên 30% trong cả nước. Lăng hoàn thành năm 1931. có nghĩa là trong khi chưa hoàn tất việc xây dựng lăng thì nhà vua đã băng hà năm 1925.

Khải Định sai người sang Pháp mua sắt thép, xi măng, ngói … cho thuyền sang Trung Quốc, Nhật Bản mua đồ sứ thủy tinh màu để kiến thiết công trình. So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng vua Khải Định có một diện tích khá khiêm tốn, nhưng lăng lại có một kiến trúc khá đặc biệt. Đó là sự hội nhập kiến trúc Á – Âu – Kiến trúc Việt Nam cổ điển và hiện đại. Tổng thể lăng là một khối nổi chữ nhật vươn lên cao tới 127 bậc cấp. Thoạt nhìn lăng giống một tòa lâu đài ở châu Âu vì được xây dựng bằng bê tông trên một sườn núi. Lăng có sự du nhập của nhiều trường phái kiến trúc Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman Gothique … đã để lại những dấu ấn cụ thể. Những trụ cổng hình tháp – ảnh hưởng của kiến trúc Ấn Độ, trụ biểu dạng Stupa của nhà Phật, hàng rào như những cây thánh giá, nhà bia với những hàng cột bát giác và vòm cửa theo lối Romance biến thể … Đó là kết quả của sự giao thoa văn hóa Đông – Tây.

Công trình gồm 5 phần liền nhau. Hai bên là tả hữu trực phòng giành cho lính hộ lăng. Phía trước là điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung vua Khải Định, chính giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua và mộ phần. Trong cùng là khám thờ có bài vị vua. Trong lăng có hai pho tượng đồng tạc hình vua : một pho tượng ngồi trên ngai vàng và một pho tượng đứng. Sự có mặt của vua trong lăng là một điều đặc biệt so với những lăng khác.

Giá trị nghệ thuật cao nhất của lăng là phần trang trí nội thất cung Thiên Định (ý nói việc làm vua cũng như việc xây dựng tẩm là do trời định). Toàn bộ nội thất của ba gian giữa trong cung Thiên Định đều được trang trí bằng những phù điêu ghép bằng sành sứ và thủy tinh. Đó là những bộ tranh tứ quý bát bửu ngũ phúc bộ khay trà, vương miện … kể cả những vật dụng hiện đại như đồng hồ báo thức, vợt tennis, đèn dầu hỏa … do các nghệ nhân đầu thế kỷ XX thực hiện. Đó là những tác phẩm nghệ thuật mềm mại, sống thực và vô cùng rực rỡ. Trên trần 3 gian giữa của cung Thiên Định được trang trí 3 bức họa cửa long ẩn vân lớn vào bậc nhất nước ta do nghệ nhân Phan Văn Tánh sáng tác. Ngày nay các họa sĩ Việt Nam hiện đại công nhận đó là những bức hoành tráng có giá trị mỹ thuật cao nhất của nền hội họa nước ta. Trên bàn thờ gian trước có ảnh của vua Khải Định và người xem đi về hướng nào cũng có cảm giác như vua cũng nhìn theo hướng đó.

Đặc biệt chiếc bửu tán bên trên pho tượng đồng trong chính tẩm với những đường lượn mềm mại, thanh thoát khiến người xem có cảm giác nó được làm bằng nhung lụa mà không ngờ rằng nó là một khối bê tông nặng 1 tấn. Dưới bửu tán là pho tượng nhà vua. Thi hài nhà vua được đưa vào dưới pho tượng bằng một đường địa đạo dài 50m ngay phía sau nhà bia, trong khi các lăng khác người ta không thể xác định thi hài vua ở đâu. Sau lưng ngai vàng vua Khải Định ngồi có hình mặt trời đang lặn. Mặt trời lặn ý chỉ nhà vua băng hà. Ngoài ra trong lăng còn có hàng trăm chữ “Thọ” theo nhiều kiến trúc khác nhau, ý nói nhà vua sống mãi với muôn dân.

LĂNG MINH MẠNG ( HIẾU LĂNG)

Vào tháng 2 năm 1820 vua Gia Long băng hà, Hoàng tử Nguyễn Phúc Đởm, con trai thứ tư của vua và là con của bà vợ thứ hai lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Theo lẽ Hoàng tử Cảnh lên ngôi nhưng vì Cảnh chết nên Hòang tử Đởm lên thay. Vua Minh Mạng là một vị vua có cá tính mạnh mẽ, ông còn tập trung quyền hành nhiều hơn dưới thời vua Gia Long. Ông là người thiết lập nền quân chủ chuyên chế tập trung nhất từ trước đến nay. Ông là người có công mở mang bờ cõi nước ta. Ông cũng là người tôn sùng nho học nên ông cho thiết lập lại các khoa thi để chọn nhân tài.

Lên ngôi được 7 năm, Minh Mạng sai người đi tìm đất xây lăng cho mình. Quan địa lý Lê Văn Đức đã tìm ra một vị trí tốt ở địa phận núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lăng, nơi họp lưu hai nguồn tả hữu Trạch tạo ra sông Hương. Nhưng mãi sau 14 năm cân nhắc vua mới quyết định chọn nơi này. Tháng 4 năm 1840, vua xem lại chỗ đất và đổi tên vùng núi Cẩm Khê thành Hiếu Sơn. Triều đình huy động 3.000 lính và thợ tiến hành việc xây dựng lăng. Khu đất này rộng 14 ha, dài 700m. tất cả công trình đăng đối theo trục dọc thể hiện sự bền vững. Sau 8 tháng thi công công trình, ngày 20/1/1841, nhà vua băng hà giữa lúc 50 tuổi. Một tháng sau (20/2/1841), vua Thiệu Trị cho tiếp tục việc xây lăng. Triều đình điều gần 1 vạn lính và thợ ở bộ Binh và bộ Công lên làm việc. Trong không khí oai bức của mùa hè năm ấy (1841), tại công trường có đến 3.000 người bị bệnh kiết lị cùng một lúc. Nhà vua bắt Thái Y Viện phải đem tất cả y sinh và thuốc men lên chữa bệnh cho bằng được. Ngay sau đó bệnh dịch bị dập tắt. Việc xây dựng lại tiếp tục. Quan tài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành bằng đường toại đạo ngày 20/8/1841 và tấm bia “Thánh đức thần công” mới hoàn tất theo đồ án của vua Minh Mạng để lại.

Lăng Minh Mạng là một quần thể kiến trúc quy mô lớn bao gồm 40 công trình lớn nhỏ, nằm trên một khu đồi núi sông hồ thoáng mát. Bên trong La Thành, các công trình kiến trúc được bố trí đối xứng nhau từng cặp qua trục chính xuyên tâm lăng. Tất cả được xếp đặt theo một trật tự chặt chẽ có hệ thống, giống như tình trạng xã hội đương thời. Bố trục kiến trúc ấy cũng nói lên cá tính và phong cách của chính vua Minh Mạng. Bửu Thành xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt trời, là đấng chí tôn có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ ấy. Kiến trúc lăng nói lên tham vọng ôm cả vũ trụ của vua Minh Mạng. Lăng có 5 vòng tròn : Mộ vua hình tròn ở giữa- tượng trưng cho mặt trời; vòng thứ hai là hồ bán nguyệt – hồ Tân Nguyệt; vòng thứ ba là La Thành; vòng thứ tư là sông Hương; vòng thứ năm là đường chân trời.

Nếu từ trên không nhìn xuống, ta thấy quần thể kiến trúc này bao gồm hai chữ “Minh” và “Mạng”. Nhưng nếu quan sát từ mặt đất thì thấy được chữ “Minh” gồm hai chữ “Nhật” và “Nguyệt” cộng lại. Từ ngoài vào trong có 5 tầng sân tượng trưng cho ngũ hành. Ởphần trước lăng mật độ kiến trúc thưa thoáng. Càng vào sâu, mật độ kiến trúc càng dày. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đưa ba khu kiến trúc ở Gia Long nằm theo chiều ngang nhập làm một, cho nằm theo chiều dọc trong một trụa duy nhất ở lăng Minh Mạng. Họ cũng đã khôn khéo lợi dụng thế đất và các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc lên, đồng thời những chiếc đồng hồ đã được bàn tay con người tạo ra như những nốt nhạc trầm để toàn bộ kiến trúc và thiên nhiên trong lăng trở thành một khúc nhạc rất phong phú về âm điệu và tiết tấu. Những cánh cửa gỗ ở Hiển Đức Môn, Hoàng Trạch Môn và ở Minh Lâu khi mở tạo ra những bất ngờ thích thú cho người đến chiêm ngưỡng. Kiến trúc, phong cảnh và độ cao thấp của đường thần đạo cứ thay đổi mãi theo bước chân đi.

Các kiến trúc sư bậc thầy ngày nay cũng phải khâm phục trước nghệ thuật tạo hình tuyệt diệu của lăng này. Lăng Minh Mạng được nhiều du khách thích nhất vì nó thể hiện ý chí về thế giới vũ trụ một cách độc đáo của người Việt Nam, đó là nét đẹp về giá trị tư tưởng.



Lăng Dục Đức (1883) (An Lăng):

Là khu mộ chung của 3 thế hệ vua triều Nguyễn: Dục Đức(Cha), Thành Thái( con) và Duy Tân (cháu). Tại đây cũng có 2 khu điện Long Ân và khu Lăng Mộ. Lăng có hình chữ nhật, có diện tích 3445m2.



Lăng Đồng Khánh (1886-1888) (Tư Lăng):

Nằm ở phía Tây núi Khiêm Sơn thuộc địa phận làng Thượng Hai, xã Thủy Xuân, thành Phố Huế. Lăng Đồng Khánh có dấu hiệu mở đầu của thời kỳ kiến trúc pha tạp Âu –Á, tân-cổ



Lăng Thiệu Trị(1841-1847) (Xương Lăng):

Nằm ở sườn núi Thuận Đạo địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách thành phố Huế chừng 8km



Hổ Quyền:

Đây là trường đấu giữa voi và hổ. Một kiến trúc độc đáo cách Huế 4km, nằm trên bờ nam sông Hương. Hổ Quyền được xây dựng năm 1830 dưới thời vua Minh Mạng gồm hai vòng tường thành hình tròn đồng tâm xây bằng gạch vồ, ngoài trát vôi vữa. Đường kính vòng ngoài 25m, cao 4,5m, dường kính vòng trong 35m, cao 6m. Nơi đây thường tổ chức các vòng đấu giữa voi và hổ để giải trí cho vua.



Đàn Nam Giao

Trong lịch sử các triều đại Việt Nam, kể từ nhà Lý (1010 – 1225), Đàn Nam Giao đã được thiết lập tại kinh đô Thăng Long để tế trời. Riêng ở Huế xưa nay có 4 vị trí Đàn Nam Giao khác nhau để các vua chúa lên tế trời hàng năm họăc 3 năm 1 lần.

Đến thời các vua nhà Nguyễn, ngay sau khi lên ngôi (1802) Gia Long cho đắp đàn ở làng An Ninh vào năm 1803 để tế trời. Nhưng sau đó 3 năm, triều đình nhà Nguyễn lại bỏ vị trí ấy để xây đàn tế khác ở làng Xuân Dương như chúng ta thấy hiện nay.

Đàn tế trời lộ thiên này được khởi công xây dựng từ ngày 25/3/1806, do Tổng Chế Phạm Văn Nhân đứng ra điều khiển, năm 1807. Triều đình Gia Long đã tiến hành lễ tế giao lần đầu tiên tại đây.

Khuôn viên đắp Đàn Nam Giao hình chữ nhật, dài 390m, rộng 265m, giới hạn bởi vòng tường thành xây bằng đá bọc xung quanh. Khi mới xây đàn xong, người ta trồng một cụm thông đứng biệt lập ở phía Nam đàn tế để tượng trưng cho vua Gia Long.

Tại khuôn viên này các hoàng thân và các quan lớn trong triền đình mỗi người phải trồng một cây. Các quan có nhiệm vụ chăm sóc cây thông của mình, nếu thông chết phải trồng lại. Năm 1834, trong một dịp lễ tế giao, chính vua Minh Mạng cũng đã tự tay trồng 10 cây thông ở Trai Cung. Đàn Nam Giao được xây dựng thành 3 tầng, dưới lớn trên nhỏ chồng lên nhau, tượng trưng cho thuyết tam tài: thiên địa nhân. Mỗi tầng mang một hình và màu sắc riêng như trời tròn đất vuông, thiên thanh địa hoàng. Ba tầng cộng lại cao 4,65m. Đàn Nam Giao quay mặt về hướng Nam. Vòng tường bằng đá, chung quanh khuôn viên của đàn này có trổ 4 cửa trông rất rộng nhắm theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc. Trước mỗi cửa đều xây một tấm bình phong rất lớn bằng gạch cao 3,2m, rộng 12,5m, dài 0,8m. đến mỗi dịp lễ, trước mỗi cửa cắm 2 lá cờ đại với màu sắc khác nhau: cửa Bắc màu đen, cửa Nam màu đỏ, cửa Đông màu xanh, cửa Tây màu trắng.

Như vậy, hình thức, phương hướng và màu sắc của kiến trúc Đàn Nam Giao đều áp dụng qui tắc âm dương ngũ hành của dịch học. Theo thuyết thiên mệnh của đạo nho xưa, vua là thiên tử, nhận lệnh của trời xuống trần gian cai trị thêin hạ. Vua có thần quyền, cho nên chỉ có vua mới có quyền cúng tế trời ở Đàn Nam Giao.

THÁNH ĐỊA MỸ SƠN

Cách kinh đô Trà Kiệu 30 km về phía Tây, cách Đà Nẵng 69 km về phía Tây- Tây Nam. Quần thể kiến trúc nằm gọn trong thung lũng hẹp, có núi bao bọc bốn bề, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên. Mỹ Sơn là đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa với quá trình phát triển liên tục gần 9 thế kỷ. Dù bị thiên nhiên và chiến tranh tàn phá, Mỹ Sơn vẫn còn dấu vết nền móng của 70 tòa thánh lâu đài và đền tháp.Trong đó còn khoảng 20 đền tháp còn nhận ra phần nào hình dạng, kiến trúc của nó. Tháng 12/1999 tại Marốc Thánh Địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới

Ngày xưa, lãnh thổ Vương quốc Chămpa tải dài từ Đèo Ngang- Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay. Chămpa có 2 bộ lạc: bộ lạc Dừa ở phía Bắc, từ Thừa Thiên đến đèo Cù Mông.Còn bộ lạc Cau từ Cù Mông vào đến Bình Thuận.Từ Hai bộ lạc này đã hình thành đã hình thành những tiểu quốc đầu tiên rồi sau đó vương quốc Chămpa ra đời. Về kinh tế, người Chăm sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Họ còn biết cách khai thác hương liệu, trầm huơng, hồ tiêu, quế để xuất khẩu ra nuớc ngoài. Qua biết bao thăng trầm của lịch sự, vào thế kỷ thứ IV, dưới triều vua Bhahadravarman,đã cho xây dựng kinh đô ở Trà Kiệu, cách đây khoảng 28 km về phía Đông. Sau khi kinh đô đã được xây dựng xong, ông nghĩ ngay đến việc thành lập trung tâm tôn giáo phục vụ cho kinh đô đó. Mỹ Sơn từng chứng kiến những thời kỳ hung thịnh, rực rỡ cũng như những biến động của vương quốc Chămpa cổ đại. Mỹ Sơn không phải là kinh đô mà là thánh địa của Chămpa , thờ đấng linh thiêng tối cao. Theo quan niệm Ấn Độ giáo, nơi thờ cúng phải là nơi thâm nghiêm. Vì lẽ đó mà thánh địa Mỹ Sơn đã được xây dựng giữa một thung lũng đuợc bao bọc bởi núi non hiểm trở. Amaravati, tên gọi xưa của vùng Quảng Nam- Đà Nẵng được văn bia nhắc đến như trái tim của vương quốc Chămpa trong nhiều thế kỷ. Mỹ Sơn là một thung lũng rất thâm nghiêm, núi non bao bọc, người Chăm cho đây là mảnh đất thiêng, ngọn núi Đại Sơn (Mahabavata) cũng là một ngọn núi thiêng. Con suối Mỹ Sơn cũng được xem là con suối thiêng mà dòng suối này là nhánh đổ ra sông Thu Bồn.

Kinh đô Trà Kiệu thất thủ khi người Chăm sử dụng nơi đây làm nơi trấn trấn ngự. Từ những yếu tố này người Chăm cho xây dựng đền thờ đầu tiên vào cuối thế kỷ thứ IV bằng gỗ ở Mỹ Sơn để thờ thần Sisana Bhahadravana. Tên thần là sự sự kết hợp của tên các vị vua lúc bấy giờ là Bhahadravaman va thần Siva. Sau vị vua này các vị vua vua khác lên ngôi và tiếp tục cho xây dựng đền tháp. Trước hết là thờ cúng thần linh, thứ hai là muốn to uy quyền của mình. Dần dần từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII Mỹ Sơn trở thành một quần thể gồm khoảng 70 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Sau này các nhà nghiên cứu đã phân thành 12 nhóm. Cuối thế kỷ thứ XIII , do 2 bộ lạc Cau và Dừa không thống nhất với nhau về quyền lợi cũng như phong tục tập quán. Trong nước đã xảy ra nội chiến. Cũng thời điểm này, các nước láng giềng như Trung Hoa, Việt Nam, Khmer đã tiến hành các cuộc chiến tranh với Chămpa. Chính vì những lý do đó người Chăm đã dời kinh đô xuống phía Nam ở vùng Bình Thuận ngày nay. Sau thế kỉ thứ XIII, mỹ sơn hầu như bị bỏ hoang, không ai xây dựng đền đài cũng như tiếp tục thờ cúng ở Mỹ Sơn.

Mãi đến sau 1898, người pháp đã phát hiện ra Mỹ Sơn. sau này nhiều hoc giả như Henry Parmentier, Luois Dinor và nhiều nhà nghiên cứu khác đã đến và trực tiếp nghiên cứu ở Mỹ Sơn. Lúc bấy giờ vào khoảng 50 công trình kiến trúc, nhưng trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Mỹ Sơn lại nằm trong địa bàn ném bom, cho nên bom đã phá huỷ phần lớn các kiến trúc. Hiện còn khoảng 20 di tích trong tình trang không còn nguyên vein. Vào năm 1980-1981, Việt Nam đã hợp tác với Ba Lan trong việc trùng tu Mỹ Sơn. Qua những công trình nghiên cứu của Pháp, Ba Lan và Việt Nam cho rằng: thánh địa Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa vì ngày xưa của người Chăm đã có quan hệ buôn bán với các nước như:Ả Rập, Malaysia, Indonesia và đặc biệt là Ấn Độ. Chúng ta đang đứng tại khu Chămpa, kế bên là khu B, bố cục các tháp như sau:

Một tháp chính, một tháp cổng và một nhà đón khách hang hương gọi là nhà tịnh tâm. Tháp chính luôn ở vị trí trung tâm (C1), bởi nó là biểu tượng của trung tâm vũ trụ- nơi hội tụ thần linh. Những tháp phụ biểu tượng cho các lục địa, những châu lục. Ở Ấn Độ, người ta đào chung quanh những công trình này những rãnh sâu biểu tượng cho đại dương. Ở đây chúng ta không thấy chi tiết đó. Ảnh hưởng thứ hai là các tháp xây 3 tầng, biểu hiện cho 3 thế giới: dưới là thế giới trần tục, tầng giữa là thế giới tâm linh, tầng trên cùng là thế giới thần linh. Hướng các tháp mang các ý nghĩa như sau: phần lớn các tháp có cửa quay về hướng Đông, người Chăm quan niệm hướng Đông là hướng tốt nhất hướng của thần linh. Nhưng cũng có nhiều tháp quay về hướng Tây như khu A, E, F là để thờ ông bà tổ tiên. Hướng Bắc đem đến của cải vật chất cho vương quốc Chămpa. Tháp hướng Bắc để thờ thần tài lộc. Riêng hướng Nam các nhà nghiên cứu chưa tìm được ý nghĩa của nó.

Việc xây dựng tháp Chàm bằng những viên gạch đỏ chồng khít lên nhau không thấy mạch hồ khiến hình thành nên những huyền thoại cho rằng:

Người Chăm xây tháp bằng gạch mộc, dẻo gọt nó lên, rồi nung một khối tháp trong ngọn lửa khổng lồ.


v Các chuyên gia Ba Lan khẳng định rằng người Chăm đã dùng gạch nung sẵn gắn với nhau bằng vữa đất sét và sau đó toàn bộ tháp được nung lại.

v Một số nhà nghiên cứu cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật (nhựa xương rồng và mật mía hoăc nhựa cây dầu rái) để dán những viên gạch với nhau.

v Những nghiên cứu gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hộp một số biện pháp kĩ thuật khác nhau để xây tháp: dùng các viên gạch có độ lõm ở mặt tiếp xúc, khi xây lên không thấy vữa ở giữa các viên gạch còn ở giữa có lớp vữa dày; mài các viên gạch trong nước cho thật khít nhau rồi xếp lại cho cho bột gạch tự kết dính nhau trong sức nặng của trọng lực của phần trên tháp; dùng các viên gạch có mặt lõm mặt lồi theo kiểu âm dương, khi xếp lên tự thân nó liên kết với nhau. Sự tinh tế của tháp Chàm còn thể hiện ở vô số hình chạm khắc tỉ mĩ, trau chuốt do nghệ nhân đục đẽo trên tường tháp. Việc đục đẽo phái thực hiện chính xác tuyệt đối, tường gạch đã xây sẵn không thể vì một lỗi nhỏ mà phải phá đi xây lại. Hoàn toàn chính xác khi H.Parmetier nhận xét rằng người Chăm chạm gạch như chạm gỗ, đẽo đá như đẽo gỗ.

Nhóm tháp B:

Tháp B1 :biểu tượng của núi Mêru, là trung tâm vũ trụ, nơi tập trung các vị thần. Tháp có thờ thần Siva. Có một cửa ra vào, các ô quanh tường là nơi thắp đèn cầy.
Tháp B3: thờ thần Skanda-thần chiến tranh.
Tháp B4: thờ thần Ganesa- con thần siva, có đầu voi mình người. Đây là thần may mắn và hạnh phúc.
Tháp B5: quay về hướng Bắc, thờ thần Kover, thần tài lộc. Tháp cũng là nơi giữ đồ hành lễ.
Tháp B6: bên trong có một hồ nước thánh dùng trong các nghi lễ.
Tháp B2: là tháp cổng đối diện với tháp chính.
Kế nữa là nhà tĩnh tâm, nơi các người đi hành lễ tĩnh tâm, chuẩn bị cho nghi lễ.
Xung quanh B1 có nhiều miếu phụ. Mỗi miếu phụ thờ một vị thần : thần mặt trời, Kubera…mỗi vị thần giữ một hướng bảo vệ tháp chính. Những tháp đó ngày nay không còn, chỉ còn lại B7.

Cuộc hành hương của người chăm:

Ngày xưa người ta xây dựng đền thờ Chăm không phải phục vụ cho mọi đối tượng mà chủ yếu là phục vụ cho tầng lớp vương quyền, quý tộc Chăm lớp tu sĩ Bàlamôn. Những người này đi từ kinh đô trà Kiệu đến đây trong những nhà tịnh tâm , chuẩn bị cho nghi lễ. Để chính thức vào buổi lễ, họ phải đi ngang qua tháp cổng. Tháp có chức năng như biên giới giữa cuộc đời và thế giới ảo, giữa tâm linh và trần tục. Sau khi qua tháp cổng, đoàn hành hương ghé vào tháp B6 để lấy nước thánh rồi đến tháp B1. đi một vaòng từ trái sang phải cầu cho quốc thái dân an và tưới một ít nước thánh lên Linga, nước sẽ cho khe rãnh của Yoni chảy xuống đất. Người Chăm cho rằng nước này xuống đất sẽ làm cho đất đai phì nhiêu thêm. Văn bia được người Chăm viết bằng chữ Sankrit. Đây là những tài liệu vô cùng quý giá cho các nhà nghiên cứu văn hoá Chămpa. Ngày nay người Chăm cũng có chữ viết nhưng đã hoàn toàn khác xưa và những người có thể đọc văn bia này không còn ai nữa
Cách nhận biết Siva: vai đeo rắn, ngồi trên Yoni hay cưỡi thần bò Nandin.
Góc tháp có những con sư tử bảo vệ tháp.

Nhóm tháp A:

Tháp A1: Đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa vào thế kỉ thứ , sau thế kỉ thứ X thì nghệ thuật Chămpa càng bị mai một. Tháp A1 cao 24m, cao nhất ở Mỹ Sơn đá xây tháp được lấy cách đó khoảng 15km. Người ta cho rằng người Chăm đã dùng sức vật để kéo đá dọc theo bờ suối. Tháp A1 có hai cửa Đông và cửa Tây. Ở trung tâm tháp có Linga lớn nhất Mỹ Sơn, không biết lí do gì mà Linga bị khiêng ra ngoài.
Linga có ba phần: phần trụ ở trên cùng tương ứng với thần Siva- huỷ diệt chưa hoàn thiện để sáng tạo cái mới. Phần bát giác ở giữa tượng trưng cho thần Vishnus- thần bảo tồn. Phần hình vuông ở dưới tượng trưng cho Brahma- thần sáng tạo. Linga nay tượng trưng cho tam vị nhất thể. Trong các văn bia người ta thấy nhắc đến Siva nhiều hơn cả.

Nhóm tháp G:


Nhóm G này được xây dựng vào thế kỉ thứ XIII. Ở nhóm tháp này người Chămpa đã dùng chất liệu mới để xây tháp là đá ong. Xung quanh tháp có trang trí những mặt nạ thần Kala- thần thời gian. Bốn góc tháp có hình bốn con sư tử bảo vệ cho tháp.

Nhóm tháp E và F:

Là nhóm tháp muộn nhất. Hiện không còn gì nhiều, có hai pho tượng; giữ thần cửa – hộ pháp Dravabala, thần bò Nandin. Nhóm tháp này hiện nay chỉ còn hai tháp và một cái Mukha Linga.

__________________



PHỐ CỔ HỘI AN

Cách Đà Nẵng 30 km về phía Đông Nam.Thị xã Hội An nằm bên tả ngạn sông Thu Bồn, đến nay đã được 400 tuổi. Hội An hầu như vẫn còn nguyên vẹn trên diện tích 2 km2, gồm các phố cổ Nhật Bản, phố Khách, phố Minh Hương xen lẫn với các nhà cửa phố xá của người Việt. Hội An có khoảng 50 ngôi chùa, miếu, hội quán còn lại đến bây giờ như chùa Triều Châu, Phúc Kiến, Dương Thương Hội Quán…có lối kiến trúc rất độc đáo, điêu khắc sinh động, màu sắc lộng lẫy thể hiện khả năng khéo kéo một cách tuyệt vời của các nghệ nhân. Miếu thờ Quan Công dựng từ thế kỷ XVII , ngoài những nét chạm khắc, màu sắc Trung Quốc, trên các hoành phi, câu đối là khẩu khí của các danh sĩ người Việt. Nổi lên trong kiến trúc Nhật Bản là chùa Cầu. Chùa dài 28m, rộng 3m. Giữa lòng cầu về phía Bắc có miếu thờ Bắc Đế cưỡi Cẩu Long, hai bên đầu cầu có đôi tượng khỉ và chó. Chúa Nguyễn Phúc Chu 1719 đã đặt tên cho chùa là Lai Viễn Kiều, ngày nay còn ghi rõ trong bức hoành phi treo trên chùa Cầu. Ngoài ra còn có chùa Bà Mụ – dấu vết xưa của Chămpa.

Hội An là một đô thị cổ cách thành phố Đà Nẵng 32 km về phía Đông Nam, đường xe đi lại thuận tiện. Hội An tọa lạc bên dòng sông Thu Bồn từ lâu đã là địa danh nổi tiếng trong lịch sử nước ta và được nhiều tài liệu nước ngoài nhắc đến như một đô thị, một thương cảng cổ xưa. Hội An trước mắt du khách với những đường phố nhỏ hẹp đan xen kiểu bàn cờ, nhà cửa cao một hoặc hai tầng san sát bên lối đi. Những mái ngói rêu phong cổ kính và cuộc sống lúc nào cũng bình lặng, thanh thản trôi qua. Lạ thay, đất nước trải qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt nhưng Hội An như vẫn nguyên vẹn những gì của một thời cổ kính xa xưa từ đường phố, mái nhà đến nếp sống…

Thời xa xưa Hội An có những tên gọi khác nhau như Hải Phố, Hoài Phố, Hai Phố….Trên bản đồ các thương nhân nước ngoài gọi là Haipho hay Faifo. Đã có nhiều tác giả, nhiều nhà nghiên cứu cố gắng giải thích nguyên nghĩa của các địa danh trên.

Trước thế kỷ XV, Hội An vốn là một hải cảng quan trọng của Chămpa. Sau đó từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII các chúa Nguyễn Đàng trong đã mở nhiều hải cảng thu hút các thương thuyền ngoại quốc giao lưu buôn bán. Vị trí địa lý của Hội An ngày ấy có nhiều thuận lợi tạo thành một thị trường, một cảng khẩu giao lưu buôn bán, so với Đông Kinh(Kẻ Chơ) , Thăng Long(Hà Nội), Phố Hiến (Hưng Yên) và ngay cả Phú Xuân (Huế) … Hội An có nét đặc biệt là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thời bấy giờ.

Cửa biển Đại Chiêm cách Hội An 5km, sông Thu Bồn sông rộng chảy phía nam Hội An, đã hình thành một đô thị- thương cảng trên bến dưới thuyềnbuôn bán sầm uất. Nơi đây thuyền buôn nhiều nước châu Á, châu Au đến buôn bán, sinh cơ lập nghiệp, xây dựng phố phường , mở thương điếm. Các thương thuyền từ Nhật Bản, Ba Tư, Trung Quốc, Ả Rập, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh Quốc thường xuyên cập bến để trao đổi hàng hóa, mua các sản vật như trầm hương, quế, ngọc trai, đồi mồi, xà cừ, tơ lụa, vải vóc…Dân cư Hội An ngày một đông đúc, phố xá mở mang rộng đến 2km2 .Đến thế kỷ XIX, điều kiện tự nhiên biến động nhiều, các con sông đổi dòng chảy, cửa Đại Chiêm bị phù sa bồi đắp và cạn dần, thuyền bè ra vào khó khăn, cảng mới hình thành ở Đà Nẵng, Hội An không còn là nơi buôn bán phồn vinh. Nhịp đập như dừng lại trong dĩ vãng. Nhờ thế mà cho đến nay Hội An được bảo tồn khá nguyên vẹn với tổng thể kiến trúc khá đa dạng gồm bến cảng, nhà dân, d9ình chùa, hội quán, lăng mộ.

Khu di tích đô thị cổ nằm phía Nam thị xã Hội An phố Lê Lợi hiện nay (tên cũ là Rue Hội An) được xây đầu tiên. Sau người Nhật mới đến xây dựng tiếp dãy phố Trần Phú (tên cũ là Rue des Cantanais) tức phố Nguyễn Thái Học hiện nay. Tiếp đến al2 dãy phố Nam Chu Trinh (tên cũ là Rue Minh Hương ), Trần Quý Cáp (tức phố chợ cũ – Place du Marchè), Nguyễn Thị Minh Khai (Rue Khải Định ) và một vài phố khác ven sông Hội An. Những phố trên đây với sông rạch cầu đường, đình, hội quán, nhà thờ tộc, đền miếu, nhà ở…tạo thành một tổng thể không gian đô thị cổ xưa gần như nguyên vẹn.

Về mặt kiến trúc của Hội An, nhà cửa mang đậm nét dáng vẻ truyền thống ở các đô thị cổ nước ta, đó là kiểu nhà gỗ hình ống dài 40 – 60m thông suốt hai mặt phố, nội dung và hình thức rất đặc sắc đã tồn tại trên 200 năm. Phần lớn nhà ở mặt tiền tiếp giáp với đường phố dùng để buôn bán, mặt Nam hướng về bến sông có cầu cảng riêng. Vẻ đẹp không kém phần hấp dẫn, dành làm nơi chứa hàng hoá và các công trình phụ. Khu ở, sinh hoạt và thờ gia tiên đặt ở giữa kế sân trời (thiên tĩnh), sáng sủa và thông thoáng. Cảnh sân nhà có cầu nối các gian nhà với nhau để đi lại không bị mưa nắng . trong khu ở thường chú ý trang trí làm đẹp không gian. Trên các cấu kiện kiến trúc thường được chạm khắc rất tinh xảo về các đề tài hoa lá, cá, chim muông.

Hội An có nhiều chùa to, đẹp thờ Phật, Thánh. Chùa thờ cũng là hội quán, nơi tụ họp đồng hương, đồng nghiệp. Đáng chú ý là các chùa Phúc Kiến – Mân Thương hội quán khởi dựng 1687; chùa Ngũ Bang – Đương Thượng hội quán có từ trước 1740; chùa Quảng Triệu – Quảng Đông hội quán xây dựng 1885; chùa Hải Nam – Quỳnh Phủ hội quán xây dựng 1881; Triều Châu hội quán xây dựng trong suốt 40 năm từ 1845 – 1885.

Đặc sắc của Hội An là ngôi chùa Cầu ở cuối phố Trần Phú (xây dựng cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII), còn gọi là cầu Nhật Bản, tên chữ là “Lai Viễn Kiều” do chúa Nguyễn ban tạ (Lai = đến, Viễn = xa, Kiều = cầu – cầu do những người phương xa đến xây dựng). Mặt cầu cong vòng lên ở giữa, mái cũng uốn cong mềm mại, được lợp ngói âm dương che kín cây cầu 12m. chùa và cầu đều bằng gỗ sơn son, chạm trổ rất công phu, mặt chùa quay về hướng bờ sông. Hai đầu có tượng thú đứng chầu, một đầu là tượng chó, một đều là tượng khỉ. Tương truyền là những con vật mà người Nhật sùng bái, thờ tự cổ xưa. Phần gian chính giữa gọi là chùa thờ một tượng gỗ Bắc Đế Trấn Võ (thần trấn giữ phương Bắc), mặt hình vuông. Không gian kiến trúc nhẹ nhàng, không những đi lại lễ bái thuận tiện mà có chỗ tựa lan can ngắm cảnh, chỗ ngồi bán hương hoa.

Đến thăm Hội An, du khách có thể xuống thuyền dọc sông ngắm xóm làng xanh biếc vườn cây trái. Tới vùng cửa Đại Chiêm và cù lao Chàm để thăm 6 hòn lớn nhỏ có diện tích 6000 ha với khu rừng cấm với nhiều thú quý như: trâu rừng, khỉ và 7 hang Yến. Ở đây biển lặng, không khí trong lành, cửa Đại Chiêm là nơi tắm biển, nghỉ mát lý tưởng.

Đến Hội An vào dịp từ mồng 2 – 7 tháng giêng hàng năm, du khách sẽ được chiêm ngưỡng cảnh du thuyền ở Đại Chiêm và tham gia các lễ hội dân gian do các ngư dân tổ chức.

__________________


Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 1.09 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương