Giáo trình Địa lý du lịch


-Tác động thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên tự nhiên



tải về 1.09 Mb.
trang2/17
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích1.09 Mb.
#1820
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

1.1.5-Tác động thuận lợi và khó khăn trong việc khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên tự nhiên

1.1.5.Thuận lợi

Vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ có rất nhiều cảnh đẹp . Cảnh thiên nhiên ở đây không có vẻ đẹp hùng vĩ của cảnh núi rừng như ở thị trấn Sapa ở độ cao 1500m , nhưng cảnh thiên nhiên ở đây rất thơ mộng tĩnh mịch trong các cánh rừng già nguyên sinh như ở vườn Quốc Gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì ở Hà Tây với hệ sinh thái rừng ngập nhiệt đới rất điển hình có thể làm thỏa mãn trí tò mò của các du khách va lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học . Cảnh đẹp của vùng không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp thơ mộng , tĩnh mịch mà vẻ đẹp còn mang nét bí hiểm ,lạ mắt bởi kiểu địa hình Karsto của hang động Hương Sơn ( Hà Tây) được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhất động “, khiến khách du lịch ai mà chả muốn đến dù chỉ là một lần .

Khí hậu của vùng ấm áp trong lành , rất thích hợp với mọi họat động du lịch và có thể khai thác được quanh năm . Mùa hè nóng bức thích hợp cho dòng người đi du lịch nghỉ mát , tắm biển …. Mùa đông hấp dẫn du khách bởi các họat động du lịch dã ngọai , leo núi.

Hơn nữa với hệ thống sông ngòi dày đặc mà vùng có được là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán , trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh trong vùng


Đặc biệt vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ có số lượng dầm hồ lớn nhất cả nước . Đây là một lợi thế của vùng và quan trọng hơn là nhiều hồ trong vùng là những điểm du lịch có ý nghĩa quốc gia.

Hồ Tây là một hồ tự nhiên hình thành từ một khúc uốn của sông Hồng trước đây. Hiện nay hồ Tây như là một lá phổi của thủ đô Hà Nội bởi cảnh quan ở đây rất đẹp : mặt hồ khi thì phẳng lặng như mặt gương , khi tjì phủ kín sương mù , khi thi nổi sóng to . Nhờ có mặt nước rộng , Hồ Tây có tác dụng điều hòa khí hậu : mùa hè bớt nóng nực , mùa đông như ấm áp hơn. Hồ tây là khu vui chơi giải trí rất thuận lợi cho nguời dân thủ đô và khách du lịch.

Hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc ) có phong cảnh thiên nhiên đẹp , khí hậu rất thuận lợi : mùa hè mát mẻ , mùa đông ấm áp , lượng mưa hàng năm thấp , khỏang 1300- 1400 mm , số ngày mưa ít phù hợp với nhiều loại hình du lịch trong suốt cả năm.hơn nữa hồ Đại Lải có vị trí rất thuận lợi cho du khách đi từ Hà Nội và các vùng phụ cận, chỉ cách Hà Nội có 50 km và rât gần sân bay Quốc tế Nội Bài , rát thuận lợi cho phát triển du lịch và thu hút khách du lịch quốc tế.

Hồ suối hai (Ba vì – Hà Tây) cũng là điểm du lịch hết sức lí tưởng đây là hồ nhân tạo,trong lòng hồ có tới 14 đảo lớn nhỏ diện tích khoảng 90 ha.Ở ven hồ có nhiều cây xanh,vườn cây ăn quả.Hồ rộng nước sạch,có nhiều bãi tắm dẹp nên được khách du lịch rất ưa thích.Hệ sinh thái vùng hồ được bổ xung thêm các đàn chim trời như lele,két , vịt trời………… làm cảnh quan thiên nhiên thêm phong phú sinh động và hấp dẫn và thu hút nhiều du khách.Ngoài ra điểm du lịch trung tâm Bắc Bộ còn có hệ thóng nước ngầm rất lớn thuận lợi phát triển Công Nông nghiệp va đô thị.

1.1.5.2-Khó khăn:

Mặc dù tài nguyên tự nhiên của vùng du lịch trung tâm Bắc Bộ rất phong phú và đa dạng để phát triển du lịch song việc khai thác và sử dụng cũng như việc bảo vệ như thế nào của vùng cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Phần lớn địa hình của vùng là đồng bằngvà đồi núi thấp nên ít tạo được lực hấp dẫn đói với du khách vì ngoại hình rất đơn điệu không thích hợp cho việc tổ chức một số loại hình du lịch thám hiểm thể thao……

Tài nguyên tự nhiên trong vùng thì đa dạng , phong phú nhưng con người lại chưa khai thác hết tiềm năng để phục vụ du lịch.Huặc nhiều khi có khai thác nhưng lại khai thác không hợp lý, không vì mục đích du lịch mà vì mục đích riêng tư cá nhân đây là một khó khăn lớn trong việc khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày nay, nạn chặt phá rừng nan săn bắn các loài động thực vật quý hiếm ngày càng nhiều dẫn đến ảnh hưởng tới việc phát triển du lịch sinh thái của rừng.Ý thức của người dân không cao, con người không biết giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên tự nhiên xung quanh mình.Chính các bãi biển Hồ Đầm, các khu rừng nguyên sinh……lẫn yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người, chúng cung cấp nước cho sự sống của con người, hơn nữa chính nơi đây đã làm nên cảnh quan,tạo nên nhưng khu nghỉ mát nghỉ dưỡng cho con người.Vậy mà con người lai “ vô tình”tàn phá,hủy diệt nó khiến cho nạn ô nhiễm du lịch ngày càng tăng cao.ví dụ như bãi tắm bến bị ô nhiễm rác rưởi dòng người thi tới nhiều trong khi đó khả năng phục vụ của nó thì có giới hạn làm cho điểm du lịch bị xuống cấp nhanh chóng.


Một vấn nạn nữa trong thời đại công nghiệp hóa như hiện nay đang có ảnh hưởng rât lớn tới tài nguyên thiên nhiên của vùng đo là các nhà máy xí nghiệp, các nhà cao ốc mọc lên nhiều lấn chiếm nhiều điểm du lịch mà nếu con người biết cách khai thác thì cũng sẽ là những điểm đến lý tưởng cho các du khách,ví dụ như các làng trồng hoa, cây kiểng ở vùng ngoại thành Hà Nội như Nhật Tân ,Nghi Tâm < Ngọc Hà……….phần lớn diên tích ở những nơi đây hiện nay dã bị thay đổi bởi những khách san , tòa nhà lớn……Trồng Hoa như vậy , việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý và bảo vệ các nguồn tài nguuyên thiên nhiên đang là yêu cầu cấp bách đối với con người.

Mỗi người cần phải coi việc bảo vệ môi trường tự nhiên là nhiệm vụ của mình.Có như vậy các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong vùng mới thu hút được các nhà đầu tư để trở thành những điểm du lịch hấp dẫn du khách.



1.2-Tiểu Vùng du lịch duyên hải Đông Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng)

1.2.1-Địa hình vùng:

Vùng duyên hải Đông Bắc không phải là dải đất cuối cùng của miền Đông Bắc nhìn thẳng ra biển khơi. Một vòng cánh cung khác gồm hơn nghìn đảo lớn nhỏ sắp thành 2 hàng nối đuôi nhau chạy từ mũi Ngọc- Bán đảo lớn nhất địa đầu phía bắc của Tổ quốc- đến Hòn Gai ở phía nam

Địa hình của Hải Phòng thay đổi rất đa dạng, phản ánh một quá trình địa chất lâu dài và phức tạp

Phần Bắc Hải Phòng có dáng dấp một vùng trung du với những đồng bằng ven đồi trong khi phần phía Nam thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần tuý nghiêng ra biển.

Đồi núi của Hải Phòng chỉ chiếm 15% diện tích chung của thành phố nhưng lại chiếm hơn ½ phần Bắc thành phố từng dải liên tục theo hướng Tây Bắc- Đông Nam có quá trình phát sinh gắn liền với hệ núi Quảng Ninh thuộc khu đồng bằng Bắc bộ về phía nam. Có 2 dải núi chính: dải đồi núi từ An Lão đến Đồ Sơn nối tiếp không liên tục, kéo dài khoảng 30km có hướng Tây Bắc- Đông Nam; dải Kỳ Sơn-Tràng Kênh và An Sơn- Núi Đèo.

Quảng Ninh là tỉnh miền núi – duyên hải. Hơn 80% đất đai là đồi núi – hơn hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển cũng đều là các quả núi. Có thể thấy các vùng địa hình sau đây:



1.2.1.1-Vùng núi chia làm hai miền:

- Vùng núi miền đông từ Tiên Yên qua Bình Liêu, Quảng Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc – tây nam. Có hai dãy núi chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507m) – Cao Xiêm (1.330m) chiếm phần lớn diện tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Quảng Hà, dãy Ngàn Chi (1.166m) ở phía bắc huyện Tiên Yên.

- Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía bắc thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi này là những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông Triều với đỉnh Yên Tử (1.068m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094m) trên đất Hoành Bồ.

1.2.1.2-Vùng trung du và đồng bằng ven biển:

Gồm những dãy đồi thấp bị phong hóa và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam Tiên Yên, Quảng Hà và một phần Móng Cái. Ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Yên Hưng (đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Quảng Hà, nam Móng Cái, tuy có diện tích hẹp và bị chia cắt nhưng vùng trung du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao thông nên đang là những vùng dân cư trù phú của Quảng Ninh.



1.2.1.3-Vùng biển và hải đảo:

Là một vùng địa hình địa hình độc đáo. Hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/2779). Đảo trải dài theo các đường ven biển hơn 250km chia thành nhiều lớp. Có những đảo rất lớn như đảo Cái Bầu, Bane Sen, lại có đảo chỉ như một hòn non bộ. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn đảo đá vôi nguyên là vùng đại hình Karst bị nước bào mòn, tạo nên muôn nghìn hình dáng bên ngoài và trong lòng là những hang động kỳ thú. Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những bãi bồi phù sa còn có những bãi cát trắng làm nguyên liệu cho công nghệ thủy tinh (Vân Hải), có nơi thành bãi tắm tuyệt vời (như Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vùng…)

Địa hình đáy biển Quảng Ninh không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20m. Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng của các rặng san hô rất đa dạng. Các dòng chảy hiện nay nối với các lạch sâu đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và giao thông đường thủy rất lớn

1.2.2-Khí hậu:

Khí hậu ở vùng duyên hải Đông Bắc cũng lạnh không kém gì vùng Cao- Lạng. Điều kiện khí hậu ở đây không thuận lợi lắm cho một số hoạt đông kinh tế.

Ơ Hải Phòng, do nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa Châu Á, sát biển đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa.

Mùa gió Bấc( mùa đông) lạnh và khô héo kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4.


Mùa gió Nồm( mùa hè) mát mẻ, nhiều mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600-1800mm.
Bão thường xảy ra vào tháng 6 đến tháng 9.
Thời tiết Hải Phòng có 2 mùa rõ rệt, khí hậu tương đối ôn hoà. Do nằm sát biển, về mùa đ6ng, Hải Phòng ấm hơn 10C, về mùa hè mát hơn 10C so với Hà Nội.

Nhiệt độ trung bình hàng tháng: 200C- 230C


Nhiệt độ cao nhất có khi lên tới 400C, nhiệt độ thấp nhất ít khi dưới 50C
Độ ẩm trung bình hàng năm là 80-85%, cao nhất là 100% vào những tháng 7,tháng 8, tháng 9; thấp nhất là tháng 12, tháng1.

Khí hậu Quảng Ninh tiêu biểu cho khí hậu các tỉnh miền Bắc Việt Nam. Một năm có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Đây là vùng nhiệt đới – gió mùa. Mùa hạ nóng, ẩm, mưa nhiều, gió thịnh hành là gió đông nam. Mùa đông lạnh, khô hanh, ít mưa, gió là gió đông bắc.

Nằm trong vùng nhiệt đới, Quảng Ninh có lượng bắc xạ trung bình hàng năm 115,4 Kcal/cm2. Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm trên 21OC. Độ ẩm không khí trung bình hàng năm trên 21OC là 84%. Từ đó lượng mưa hàng năm lên tới 1.700 – 2.400 mm, số ngày mưa hàng năm từ 90 – 170 ngày. Mưa tập trung nhiều vào mùa hạ (hơn 85%) nhất là tháng 7 và 8. Mùa đông chỉ mưa khoảng 150 – 400mm.

So với các tỉnh Bắc Bộ, Quảng Ninh chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc mạnh hơn. Đây là nơi “đầu sóng ngọn gió”. Gió thổi mạnh và so với các nơi cùng vĩ độ thường lạnh hơn từ 1-3OC. Trong những ngày gió mùa đông bắc, ở vùng núi cao Bình Liêu, Quảng Hà, nhiệt độ có khi xuống dưới 0OC. Quảng Ninh cũng chịu ảnh hưởng lớn của bão tố. Bão thường đến sớm (các tháng 6,7,8) và có cường độ khá mạnh, nhất là ở vùng đảo và ven biển.

Tuy nhiên do diện tích lớn lại nhiều vùng địa hình khác nhau. Huyện địa đầu Móng Cái lạnh hơn lại mưa nhiều: nhiệt độ trung bình năm là 22OC, lượng mưa trung bình năm tới 2.751 mm. Huyện Yên Hưng ở tận cùng phía nam, nhiệt độ trung bình năm là 24OC, lượng mưa trung bình năm là 1.700 mm. Vùng núi cao Hoành Bồ, Ba Chẽ khí hậu khá khắc nghiệt, mỗi năm thường có 20 ngày sương muối và lượng mưa hàng năm thấp. Cũng là miền núi nhưng Bình Liêu lại có mưa lớn (2.400 mm) và mùa đông kéo dài tới 6 tháng. Vùng hải đảo lại không phải là nơi mưa nhiều nhất, chỉ từ 1.700 đến 1.800 mm/năm, nhưng lại là nơi rất nhiều sương mù về mùa đông

1.2.3. Thuỷ văn:

Ở vùng này, trong mùa hè có nhiều khi xảy ra mưa đá, còn mùa đông thi rất nhiều khả năng có sương muối.


Ngoài ra các sông ở đây có những đặc điểm rất chú ý. Các sông chảy trong các miền đất bằng giữa núi nhiều khi có thể gọi là lớn, còn các sông chảy ra biển gần như bao giờ cũng vấp phải những ngưỡng đá chắng ngang ở ngay cửa sông .

Hải Phòng có nhiều sông. Từ Hải Phòng đi các tỉnh bạn, hoặc từ nội thành ra ngoại thành, từ huyện này sang huyện khác đều phải qua sông. Bao quanh Hải Phòng là những dòng sông khá lớn như sông Đá Bạc, dông Kinh Thầy ở phía Bắc; sông Luộc, sông Hoá, sông Thái Bình ở phía Tây và phía Nam. Chảy qua địa phận Hải Phòng có các sông Đa độ, Văn Úc, Lạch Tray, Cửa Cấm. Đây là điều kiện thu6ạn lợi để Hảo Phòng phát tiển ngành giao thông đường thuỷ.

Hải Phòng là một trong những đầu mối giao thông đường thuỷ với các nước trên thế giới và với các tỉnh trong cả nước. Điều này rất thuận lợi trong việc giao lưu, phát triển kinh tế- văn hoá- du lịch với hầu khắp các tỉnh thành của Việt Nam và nhiều quốc gia tên thế giới.

Nằm trong ba trung tâm du lịch lớn ở miền Bắc Việt Nam là Hà Nội- Hải Phòng- Hạ Long. Hải phòng có khu nghỉ mát với những bãi biển lượn quanh bán đảo Đồ Sơn, vươn ra biển Đông tới 5km

Quảng Ninh có nhiều sông suối nhưng các sông đều ngắn, nhỏ, độ dốc lớn. Lưu lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa các mùa. Mùa đông, các sông cạn nước, có chỗ trơ ghềnh đá nhưng mùa hạ lại ào ào thác lũ, nước dâng cao rất nhanh. Lưu lượng mùa khô 1,45 m3/s, mùa mưa lên tới 1.500 m3/s chênh nhau 1.000 lần.

Về phía biển Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ, một vịnh lớn nhưng kín lại có nhiều lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển Trung Bộ. Chế độ thủy triều ở đây là nhật triều điển hình, biên độ tới 3-4m. Nét riêng biệt ở đây là hiện tượng sinh “con nước” và thủy triều lên cao nhất vào các buổi chiều tháng mùa hạ, buổi sáng các tháng mùa đông những ngày có con nước cường. Trong vịnh Bắc Bộ có những dòng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo nước lạnh lại có gió mùa đông bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta. Nhiệt độ có khi xuống tới 13OC.



1.2.3.1- Nước và nước khoáng

Quảng Ninh có tài nguyên nước khá phong phú và đặc sắc: Nước mặt chủ yếu là nước sông hồ. Các sông lớn là sông Ka Long (đoạn chủ yếu là đường biên giới quốc gia giáp Trung Quốc), sông Hà Cối, sông Đầm Hà, sông Tiên Yên, sông Phố Cũ, sông Ba Chẽ, sông Diễn Vọng, sông Trới, sông Míp, sông Uông, sông Đạm, sông Cầm và ranh giới phía nam tỉnh là sông Kinh Thầy nối với sông Đá Bạch chảy ra sông Bạch Đằng. Tổng trữ lượng tĩnh các sông ước tính bằng 175 triệu m3 nước.

Trong tổng số 72 hồ đập có 28 hồ lớn với tổng dung tích là 195,53 triệu m3 nước. Lớn nhất là hồ Yên Lập ngăn cửa sông Míp (còn gọi là sông Đồn, sông Yên Lập), dung tích 118 triệu m3. Hồ Khe Chè (Đông Triều) dung tích 6,43 triệu m3. Sau đó là các hồ Khuật Đông, Trúc Bài Sơn, Khe Táu, Đoan Tĩnh, Khe Ươn, Khe Chếnh, Yên Trung, Bến Châu, Trại Lốc, Rộc Cả, An Biên đều có dung tích trên 1 triệu m3. Nước ngầm Quảng Ninh khá phong phú. Ngay trên các đảo lớn đều có nguồn nước ngầm có thể khai thác. Hiện nay chưa thăm dò hết, tại 13 khu vực đô thị và công nghiệp đã khảo sát và ước tính có thể khai thác tại đây 64.388 m3/ngày.

Quảng Ninh có nhiều điểm nước khoáng uống được ở Quang Hanh (Cẩm Phả), Khe Lạc (Tiên Yên), Đồng Long (Bình Liêu). Nước khoáng uống được tập trung ở khu vực km 9 (xã Quang Hanh, Cẩm Phả) hiện nay có 15 lỗ khoan thăm dò và tính sơ bộ trữ lượng là 1.004 m3/ngày, trong đó 4 lỗ khoan đã đưa vào khai thác (đóng chai và nạp thêm khí cacbonic) và đã trở thành hàng nước uống được ưa chuộng. Nước khoáng Quang Hanh trong suốt, không màu, không mùi, có vị hơi mặn, độ khoáng hóa từ 3,5 đến 5,05g/l. Thành phần vi lượng chủ yếu là: Na, Ka, Ca, Mg, Cl, SO4, H2CO3 hàm lượng thay đổi tùy vị trí lỗ khoan. Với các vi lượng này, nước khoáng Quang Hanh rất có lợi cho giải khát và tiêu hóa. Nước khoáng không uống được tập trung ở khu vực km 11 và km 12 Cẩm Phả và ở xã Tam Hợp (cũng thuộc thị xã Cẩm Phả). Loại nước khoáng này có nồng độ khoáng khá cao, nhiệt độ trên 35OC nên có thể tận dụng điều trị một số bệnh.



1.2.4-Tài nguyên động thực vật:

Tài nguyên rừng phong phú, có một số động thực vật quý như khỉ vàng, vec đầu bạc, không còn thấy có trên thế giới. Ven bờ biển, đặc biệt là trên các bãi phù sa biển, sú vẹc mọc thành dải dày đặc, xen lẫn những cây mắm và trang cao 3-4 m không những có tác dụng bảo vệ bờ khỏi sức công phá của sóng mà còn là một vùng cung cấp gỗ quan trọng cho nhân dân địa phương.

Ỏ Hải Phòng tài nguyên rừng phong phú, đa dạng. Từ đất liền hay Đồ Sơn bằng tàu thường hay cao tốc, du khách có thể tới thăm đảo và vườn quốc gia Cát Bà, vịnh Hạ Long hay Bái Tử Long. Quần đảo Cát Bà, nằm kề bên vịnh Hạ Long với hàng trăm núi , đảo lớn nhỏ nổi lên giữa biển cả mênh mông. Đảo lớn Cát Bà có vườn quốc gia Cát Bà rộng 600ha được thành lập từ ngày 23/5/1983, bảo tồn hệ sinh thái rừng nhiệt đới nguyên sinh với hơn 600 loài thực vật với những vạt rừng nguyên sinh nhiệt đới tồn trữ nhiều loại cây rừng như Báng, Gội Nếp, Săng lẻ, Kim Giao cùng nhiều loại động vật rất có giá trị như: khỉ mặt đỏ, khỉ mặt vàng, sơn dương, hoẵng, rái cá, sóc đuôi đỏ, sóc bụng đỏ, mèo rừng, nhím… đặc biệt là khỉ voọc đầu trắng sống từng đàn, là loài thú quý hiếm trên thế giới chỉ mới thấy ở Cát Bà và các loại chim như: hoạ mi, khiếu, vẹt, đa đa, đại bàng, hải âu, én…. Những núi đá vôi ẩn chứa trong lòng nhiều hang động kỳ thú; những bãi tắm thiên tạo, nước biển trong xanh bên những vùng biển tĩnh lặng nằm giữa các đảo đá; những con suối tuôn chảy trên các triền núi rồi cả hồ trên núi, Cát bà là vùng đất trù phú, đã được khai phá từ lâu đời. Ơ đây đã phát hiện được nhiều di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ đồ đá mới. Ngoài khơi xa là đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa vịnh Bắc Bộ. Ngoài ra còn có bãi biển Đồ Sơn ở ngoại thành Hải Phòng. Ưu thế nổi bậc của Đồ Sơn là rất gần thành phố Hải phòng(18km) và cách thủ đô Hà Nội không xa nên bân cạnh loại hình nghỉ mát, tắm biển còn có điều kiện thuận lợi để phát tiển các loại hình nghỉ ngắn ngày, hội nghị, thể thao để có thể tận dụng khả năng khai thác phục vụ du lịch quanh năm.

Quảng Ninh là vùng đất đa dạng về địa hình, khí hậu thổ nhưỡng nên hệ sinh thái cũng phát triển đa dạng và phong phú về chủng loại.

Động vật: trước hết là gia súc có trâu, bò, lợn, dê, gà, chó, mèo, thỏ, ngan, ngỗng, vịt… Chăn nuôi đại gia súc khá phát triển ở miền núi. Đáng chú ý là Quảng Ninh có giống lợn Móng Cái nổi tiếng vì dễ nuôi, chóng lớn, nạc nhiều, sinh sản tốt. Các huyện miền Đông còn nuôi nhiều ngan lai vịt, tiếng địa phương gọi là “cài sáy” thịt ngon, chóng lớn.

Quảng Ninh cũng là nơi nhập nhiều giống ngoại: trâu Mu-ra Ấn Độ, bò Sinnơ Ấn Độ, bò sữa Hà Lan, ngựa, cừu, dê Mông Cổ. Tuy nhiên có một số giống không thích nghi được chỉ phát triển một thời. Nay trong gia súc có thêm hươu sao. Động vật hoang dã xưa có nhiều. Xa xưa có cả voi, tê giác, gần đây có hổ, báo, gấu, chim công, chim yến, bồ nông… Nay đáng chú ý là có khỉ vàng, nai, hoẵng, chim trĩ, đại bàng, lợn rừng, nhiều loại chim di cư (như sâm cầm, chim xanh), và tắc kè, tê tê, rùa gai, rùa vàng… nhưng số lượng giảm nhiều.

Động vật thủy sinh ở Quảng Ninh rất phong phú, ở vùng nước ngọt, ngoài các loài cá, tôm, cua, ốc vùng Đông Triều còn có con rươi, con ruốc nối theo mùa.

Nhưng đáng chú ý nhất ở Quảng Ninh là các loài hải sản. Do địa hình vùng biển và đáy biển đa dạng, chỗ là dòng chảy, chỗ là vùng kín gió lặng sóng, đáy biển chỗ là cồn đá, chỗ là bờ bãi phẳng, chỗ là rạn san hô mênh mông nên Quảng Ninh có hầu hết các chủng loại thủy sản của nước ta. Ở đây có nhiều đàn cá lớn và có nhiều giống cá quý như song, ngừ, chim, thu, nhụ… Trong các loài tôm có các giống tôm he núi Miều đứng hàng đầu về chất lượng tôm Việt Nam. Ngoài biển có nhiều loại đặc sản như trai, ngọc, bào ngư, đồi mồi, tôm hùm, ven bờ có sò huyết, ngao, ngán, hàu, rau câu, sái sùng ven bờ biển và trên vịnh đang phát triển các loại hải đặc sản. Ngư trường rộng và sự đa dạng về chủng loại thủy sản vẫn luôn luôn là nguồn lợi quan trọng, một thế mạnh của kinh tế biển Quảng Ninh.

Thực vật: ở Quảng Ninh có thế mạnh ở rừng và đất rừng. Đất canh tác hẹp và kém phì nhiêu nên sản lượng lúa, ngô, khoai, thấp song bù lại là tiềm năng trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và nhiều loại cây công nghiệp. Hiện nay Quảng Ninh đang mở rộng diện tích cây ăn quả, trong đó có vùng vải thiều Đông Triều 3.000 ha đã cho thu hoạch. Vùng chè Quảng Hà đã cho chè búp chất lượng tốt.

Trước đây Quảng Ninh có nhiều giống gỗ tốt, nhiều nhất là lim, táu, nay diện tích lớn nhất là trồng thông vừa lấy nhựa vừa lấy gỗ. Rừng bạch đàn, keo cũng đang mở rộng để vừa phủ kín đất trồng, vừa lấy gỗ cho công nghiệp mỏ (chống lò). Vùng núi Quảng Ninh đang phục hồi và phát triển những giống cây đặc sản như quế, hồi, trẩu, sở và những cây dược liệu. Trong đó ở Quảng Ninh có cây ba kích nổi tiếng. Với 3/4 diện tích tự nhiên là rừng và ít rừng, nếu được bảo vệ và trồng thêm nhiều, rừng Quảng Ninh sẽ phát huy thế mạnh và là một nguồn lợi lớn của Quảng Ninh.



Nhận xét:

Nhìn chung Quảng Ninh là một tỉnh có điều kiện tự nhiên đa dạng phong phú về nhiều mặt. Đó là những tiềm năng to lớn để Quảng Ninh phát triển một nền kinh tế khá toàn diện từ sản xuất công, nông, ngư nghiệp đến phát triển thương mại, dịch vụ. Đặc biệt là Quảng Ninh có tiềm năng phát triển du lịch rất lớn. Chính vì vậy mà Quảng Ninh đang là một trung tâm, một trọng điểm, một chân kiềng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, trước hết là một tỉnh trong vùng tam giác kinh tế phía bắc: Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.



1.3- Tiểu Vùng du lịch miền núi Đông Bắc (Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn)

1.3.1-Về địa hình:

Hầu hết các tỉnh miền núi Đông Bắc có điạ hình đồi núi cao, phức tạp và hệ thống sông ngòi dày đặt. Địa hình thay đổi từ nơi này đến nơi khác. Nơi cao nhất có hình thái núi trung bình là khu vực vòm sông chảy.

Những nhân tố ảnh hưởng đến địa hình ở đây là các đá kết tinh. Vận động kiến tạo khá mạnh và lượng mưa lớn. Độ cao cùng với lượng mưa lớn dẫn đến xâm thực theo chiều sâu diễn ra dữ dội, đa số thung lũng có dạng hẻm vực, đồng thời sự tỏa mạnh của mạng lưới xâm thực đã chia cắt khoảng rộng đường phân thủy ra thành nhiều mảnh.

Vì vậy hầu hết các tỉnh ở đây có hình thể phức tạp như tỉnh Tuyên Quang có nhiều dãy núi cao, ngăn cách nhau bởi lưu vực của bốn con sông chính chảy qua tỉnh giữa sông Hồng Hà và sông Chảy là dãy núi Côn cao 800m. Kế tiếp là dãy mỏ Rô và Sáu Tàu rồi đến những ngọn núi thấp dần.

Giữa sông Chảy vàsông Lô là núi Khánh. Dãy núi ngăn cách sông Chảy với thung lũng sông Bách . Núi Nùng, núi La cao 1000 – 1100m và núi Bách Kha là những núi cao có rừng rậm bao phủ, có nhiều vách đá ăn thẳng ra bờ sông Lô… Hay địa thế của Lạng Sơn cũng có độ cao thay đổi từ 100 – 1009m. Phía Đông và Bắc thành phố Lạng Sơn là dãy núi Mẫu Sơn cao 1500m chế ngự cả thung lũng sông Kỳ Cùng.

Phía Đông Nam cũng có một dãy núi trung bình cao 700m. Phía Tây- Tây Nam có dãy núi Cao Kinh cao 600m. Phía Đông và phía Bắc là những dãy núi đá bao trùm thung lũng Thất Khê và làm thay đổi hướng sông Kỳ Cùng.

Giáp với tỉnh Lạng Sơn là tỉnh Bắc Cạn thì địa hình cũng chủ yếu là đồi núi, trung du, hệ thống sông ngòi dày đặc. Hà Giang và Cao Bằng là 2 tỉnh đầu của đất nước, địa hình khá phức tạp. Nơi đây có những ngọn núi lưng chừng trời và có rất nhiều sôn suối. Như vậy vùng nuí Đông Bắc rất phát triển địa hình Cacxtơ.

Đây là loại địa hình khá đặc biệt với địa hình này nó cũng mang nhiều ý nghĩa thực tiễn như địa hình này có phong cảnh đẹp. Có nhiều hang động kỳ thú, nhiều điểm du lịch hấp dẫn, Đây còn là vùng có khí hậu ôn đới.



1.3.2-Về khí hậu:

6 tỉnh miền núi Đông Bắc nằm trong vùng núi phía Đông Bắc do nằm ở vị trí tương đối cao nên mang sắc thái ôn đới chia làm 2 mùa: mùa mưa và mùa khô hay mùa nóng và lạnh. Nhiệt độ trung bình năm khoảng từ 240C- 260C. Vào mùa đông nhiệt độ ở đây rất lạnh. Có lúc xuống đến -50C ( Hà Giang). Tuy nhiên do nằm trong nền khí hậu đa dạng của Việt Nam nên khí hậu cũng bị thay đổi theo mùa và theo độ cao. Như khí hậu của tỉnh Tuyên Quang rất ẩm thấp và không trong lành nhất là vào mùa mưa bị ảnh hưởng của rừng rậm, thung lũng sông Đáy có nước độc và sương mù dày đặc. Nhưng ỡ những vùng có độ cao 400-800m thì nhiệt độ lại trong lành hơn. Ơ vị trí cao hơn Cao Bằng có khí hậu mát mẻ quanh năm. Và được chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Phong cảnh thiên nhiên rất hữu tình thích hợp cho việc nghỉ ngơi, du lịch. Mùa mưa được tính từ tháng 11-4 năm sau. Còn mùa khô từ tháng 5 đến tháng 10. Như vậy nhìn chung nhiệt độ vùng núi Đông Bắc tương đối thuận lợi, rất thuận lợi cho việc tổ chức du lịch vào mùa đông.



Каталог: 2011
2011 -> HƯỚng dẫn viết tiểu luậN, kiểm tra tính đIỂm quá trình môn luật môi trưỜNG
2011 -> Dat viet recovery cứu dữ liệu-hdd services-laptop Nơi duy nhất cứu dữ liệu trên các ổ cứng Server tại Việt Nam ĐC: 1a nguyễn Lâm F3, Q. Bình Thạnh, Tphcm
2011 -> Ubnd tỉnh thừa thiên huế SỞ giáo dục và ĐÀo tạO
2011 -> SỞ TƯ pháp số: 2692 /stp-bttp v/v một số nội dung liên quan đến việc chuyển giao CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> QUỐc hội nghị quyết số: 24/2008/QH12 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> NĐ-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2011 -> BỘ NỘi vụ CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2011 -> Nghị quyết số 49-nq/tw ngàY 02 tháng 6 NĂM 2005 CỦa bộ chính trị VỀ chiến lưỢc cải cách tư pháP ĐẾn năM 2020
2011 -> Ủy ban nhân dân tỉnh bà RỊa vũng tàU
2011 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc

tải về 1.09 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương