Da mihi animas, cetera tolle” Văn kiện Tổng Tu nghị cg26 – ttn 26 Roma, 23. 02 – 12. 04. 2008 CÔng báo ban tổng cố VẤN



tải về 1.17 Mb.
trang10/14
Chuyển đổi dữ liệu23.04.2018
Kích1.17 Mb.
#37072
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14

PHỤ CHƯƠNG 6

Diễn Từ của Cha Bề Trên Cả

Pascual Chávez Villanueva

Kết thúc Tổng Tu Nghị 26
TỔNG TU NGHỊ 26 :

ĐỀ CƯƠNG CHO HÀNH TRÌNH HƯỚNG TỚI NĂM THÁNH 2015

Dưới ngọn cờ "Da mihi animas, cetera tolle"

Anh em hội viên thân mến,

Hôm nay chúng ta kết thúc Lễ Hiện Xuống của anh em Salêdiêng chúng ta. Quả thực là như thế! Đấy chính là ý nghĩa của Tổng Tu nghị 26: một Lễ Hiện Xuống, một thời điểm rộng mở cho Thần Khí của Đức Chúa. Những lời của Đức Bênêđictô XVI gửi đến chúng ta trong sứ điệp khai mạc Tổng Tu nghị vẫn còn đang vang vọng trong cõi lòng của chúng ta: "Đoàn sủng của Don Bosco là một tặng ân của Thần Khí ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa, nhưng chỉ khi nào ta biết vâng phục lắng nghe và mở lòng cho tác động của Thiên Chúa, ta mới có thể giải thích đoàn sủng này và làm cho đoàn sủng này trở nên có ý nghĩa và hữu hiệu cho thời đại của chúng ta. ... Đổ tràn muôn ân sủng trên các thành viên Tổng Tu Nghị, Thánh Thần sẽ đi vào cõi lòng của các Hội viên. Ngài sẽ làm họ cháy bừng ngọn lửa tình yêu, khơi dậy cho họ lòng khát khao nên thánh, thôi thúc họ mở lòng hoán cải và kiện cường họ trong lòng quả cảm tông đồ."37

1. Biến Cố Tổng Tu Nghị : vắn tắt lịch trình

Quả thực, đó chính là cách thức chúng ta muốn sống biến cố TTN này: dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để chính Ngài giúp chúng ta hiểu rõ hơn, cập nhật và làm cho đoàn sủng của Đấng Sáng Lập và Cha chúng ta được hữu hiệu. Trong những ngày này, chúng ta đã kinh nghiệm tác động của Chúa Thánh Thần. Ngài đã khơi lên ngọn lửa trong lòng chúng ta để chúng ta thành những chứng nhân hùng hồn và can đảm của Đức Chúa Giêsu, mang lại cho người trẻ tin mừng sự phục sinh của Ngài, và đề xuất cho họ kinh nghiệm hoan lạc được gặp gỡ Ngài.



Những ngày sống tại các thánh địa Salêdiêng (Thánh đường thánh Phanxicô Assisi, Valdocco, Colle Don Bosco, Vương Cung Thánh Đường Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, Đền Thờ Consolata) đều được mọi người hết sức quý trọng vì có được cơ hội tiếp xúc trực tiếp với cái nôi -đoàn sủng, thiêng liêng và tông đồ- của Tu Hội chúng ta. Đối với một số người, đây là lần đầu tiên họ có được niềm vui thăm viếng "các thánh địa Salêdiêng", đối với một số khác, đây là lần đầu họ được lắng nghe trình bày về Don Bosco không phải chỉ dựa vào các giai thoại thân quen, cũng như dựa vào những giải thích lịch sử để thoả mãn tính tò mò nhưng đúng hơn, được sống lại một kinh nghiệm thiêng liêng và đoàn sủng. Chắc chắn rằng, đối với mọi người, những ngày ấy là một cách thức thực tiễn-và cha thực sự hy vọng như thế- một bước đầu tiên "khởi phát lại từ Don Bosco".

Các kết quả thật là phong phú: ai nấy đều khao khát đi sâu hơn nữa vào trong gia sản thiêng liêng được truyền lại cho chúng ta, quyết tâm làm cho Don Bosco và lịch sử Salêdiêng chúng ta được biết rõ rệt hơn, mong muốn chuẩn bị nhân sự trong ngành Salêdiêng học, và sau cùng, mong muốn sử dụng tốt hơn nữa những nơi chốn gắn kết với đoàn sủng của chúng ta.

Bài trình bày tình trạng Tu Hội, qua bản tường trình thính thị của các Ban ngành, các Miền nhằm phổ biến điều gì đó hơn là một cuốn sách kèm theo bản tường trình của Bề Trên Cả. Mục đích chính là cung cấp cho các thành viên TTN thông tin chính xác về tình trạng của Tu Hội, cổ võ một cái nhìn toàn diện và một cảm thức đồng trách nhiệm. Tu Hội thuộc về hết mọi người chúng ta và chúng ta đồng trách nhiệm về sự tăng trưởng, nguồn lực và các thách đố của Tu Hội.

Cuộc Tĩnh Tầm được kinh nghiệm như là một cuộc thao dượt trong Thần Khí, vượt thắng cám dỗ coi những bài giảng như là một tập họp các chủ đề học hỏi hay một khoá cập nhật thần học thiêng liên. Những ngày tĩnh tâm này giúp tạo nên được một bầu khí đức tin, là điều tuyệt đối không thể thiếu được để làm cho TTN thành một kinh nghiệm về việc lắng nghe Tiếng Chúa, dễ dậy với Chúa Thán Thần và trung thành với Đức Kitô. Đối với tôi, đây quả là một mẫu mực --cũng vì ít khi ta tìm được bầu khí như thế này trong các cuộc Tĩnh Tâm khác--sự thinh lặng, cầu nguyện cá nhân lâu giờ trước Thánh Thể, lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải. Ta cũng nên ghi nhận rằng các bài giảng Tĩnh tâm cũng cung cấp cho chúng ta những yếu tố quan trọng để có được cách hiểu thần học sâu xa hơn về đoàn sủng, sứ mệnh và linh đạo Salêdiêng.

Được triển khai trong các bài giảng, các đề tài đem lại cho chúng ta chìa khoá quan trọng để giải thích cũng như học biết trở thành người của niềm hy vọng, góp phần vào chương trình kỳ diệu của Thiên Chúa cứu rỗi thế giới với thần nghiệm "Da Mihi Animas", khiến cho tình yêu của Thiên Chúa thành một sức mạnh mãnh liệt, với tu đức "cetera tolle", hướng chúng ta cam kết dấn thân cho đến hơi thở cuối cùng. Một điểm quan trọng của nhãn giới này là làm sáng tỏ được sứ mệnh, không hệ ở chỗ thi hành các các công việc cho bằng trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Chính Tình Yêu đặc biệt này là sức mạnh duy nhất có thể giải phóng những tiềm năng vĩ đại nhất nơi mỗi một người chúng ta. Chúng ta biết rằng chúng ta phải sống tất cả những điểm ấy một cách thật tận tụy và nhưng không. Chỉ có như thế ta mới đạt được đặc ân Chúa ban là "ơn hiệp nhất", nhờ đó, tất cả mọi sự đều là hiến thánh và tất cả mọi sự đều là sứ mệnh. Đối với những ai chúng ta được sai đến, chúng ta đã nghe biết Don Bosco đã cảm nhận mình bị "tác động" thế nào về mặt đoàn sủng trước nguy hiểm làm cho người trẻ có nguy cơ mất hạnh phúc, ở đời này và đời sau ("cứu độ"): họ thấy mình bị Thiên Chúa và đồng loại bỏ rơi, do bởi họ nghèo khó, đôi khi đến độ cùng cực. Chính vì thế mà Don Bosco là cha, là thầy và là mẫu gương cho chúng ta. Tại ngôi trường Mẹ Maria Phù Hộ Vô Nhiễm, ngài đã muốn căn tính tu sĩ của ngài phản ánh sự kiện là ngài đã coi nền tảng đời ngài có Thiên Chúa là ưu tiên tuyệt đối, nỗi khao khát luôn được kết hiệp với Ngài, để đáp trả hoàn toàn ý muốn của Ngài (vâng phục), diễn tả một tình yêu trọn vẹn (thanh khiết), dứt bỏ hẳn mình và bỏ hết những gì ngáng trở việc ngài hoàn toàn tận hiến cho sứ mệnh (nghèo khó).

Giờ đây cha muốn cùng với anh em đi lại chặng đường Ân Sủng Tổng Tu Nghị của chúng ta.



Tuần lễ thứ nhất của Tổng Tu Nghị (3-8 tháng Ba) được dành cho các thủ tục pháp lý thông thường (trình bày và phê chuẩn Điều Lệ TTN 26, tuyển chọn các Chủ Tịch), và đặc biệt là học hỏi Bản Tường Trình của Cha Bề Trên Cả qua các Miền khác nhau. Các Miền đã suy tư trên Bản Tường Trình, xác định những thách đố lớn xuất phát từ tình trạng của Tu Hội, để rồi xác định những đường hướng tương lai cho Bề Trên Cả và Ban Cố Vấn ngài nhằm hoạch định việc sinh động hoá và điều hành trong thời kỳ 2008-2014.

Việc học hỏi Bản Tường Trình là yếu tố căn bản khi khảo sát thêm chủ đề của Tổng Tu Nghị, lưu ý đến sự kiện là hơn bao giờ hết, Tổng Tu Nghị này không nhắm soạn ra một tài liệu cho bằng nhắm đến việc canh tân đời sống của Tu Hội bằng cách khẩn thiết kêu mời "khởi phát lại từ Don Bosco". Biết được đúng vị trí của mình, chúng ta mới có thể khám phá rõ rệt hơn con đường "trở về với Don Bosco", một yếu tố cần phải tái khám phá để có thể khởi phát lại từ ngài một cách mạnh mẽ hơn nữa.



Tuần lễ thứ hai (10-15 tháng Ba) hoàn toàn được dành cho việc học hỏi ba đề tài đầu tiên. Những vấn đề Ủy Ban Pháp Lý xem xét cũng được trình bày, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới Tổ chức ban Tổng Cố Vấn. Tổng Tu Nghị đã phải dùng đến phiếu bầu để đáp lại những yêu cầu này của các tỉnh dòng hay cá nhân hội viên. Về việc học hỏi các đề tài, "Văn Kiện Làm Việc" được đặc biệt trân trọng như là khởi điểm để Tổng Tu nghị suy tư. Một đàng, điều đó nói lên rằng Ủy Ban Tiền Tổng Nghị Nghị đã làm việc rất tốt, và đàng khác, văn kiện cũng ghi nhận giá trị những đóng góp của các Tu Nghị Tỉnh cho TTN 26. Tôi vui mừng về điều này vì như tôi đã viết trong lá thư triệu tập Tổng Tu Nghị, xét như tiến trình suy tư, Tổng Tu Nghị này đã thực sự bắt đầu từ các Tỉnh Dòng, khi các tỉnh dòng học hỏi các đề tài và khởi sự tiến trình canh tân. Như thế, các Ủy Ban đã làm việc trên bản văn Tổng Tu Nghị chứ không còn là bản văn tiền Tổng Tu Nghị nữa, tức là bắt đầu từ văn kiện chính thức này chứ không phải là một văn bản trợ giúp (suy tư) nữa. Các đóng góp từ các Ủy Ban làm cho văn kiện được phong phú và hoàn hảo. Vấn đề là phải chính xác hơn và sửa đổi văn kiện không phải chỉ trên phương diện từ ngữ nhưng đặc biệt là nhằm đáp trả tốt hơn tình trạng theo bối cảnh xã hội, văn hóa chính trị và tôn giáo trong đó Tu Hội đang hoạt động. Đó là công việc của Hội Nghị Khoáng Đại để Hội nghị trở thành chính tác giả của văn kiện Tu Nghị.

Tuần lễ thứ ba (17-20 tháng Ba) trực tiếp tập trung vào công việc trong Hội nghị Khoáng Đại, bàn thảo kết quả của các Ủy Ban. Đó cũng là thời gian dành cơ hội cho cá nhân các thành viên diễn tả những suy nghĩ và ưu tư nhằm soi sáng cho đề tài, diễn tả những cảm thức và những cách nhìn khác nhau để từ những quan điểm khác nhau ấy, đưa tới việc bỏ phiếu cho một văn kiện được hiểu rõ hơn, mang tính cách cá nhân và trách nhiệm hơn. Cần phải đặc biệt ghi nhận rằng nhờ những đóng góp ấy mà các quan tâm chính dần dần được bộc lộ. Chẳng hạn như khi nói về nhu cầu khẩn thiết rao giảng tin mừng, hội nghị đã cho thấy cần phải hiểu và thực hành việc này theo cách thức anh em Salêdiêng chúng ta rao giảng tin mừng; vừa là nhắm tới ĐỐI TƯỢNG (thanh thiếu niên) và vừa nói đến những cách thức khác nhau rao giảng tin mừng. Khi nói về nhu cầu mục vụ ơn gọi, việc này cần phải được thực thi cùng với một lòng xác tín rằng Don Bosco đã giúp người trẻ khám phá ra giấc mơ của Thiên Chúa dành cho cuộc đời của chúng và khuyến khích chúng ít ra hãy cho Thiên Chúa một cơ hội. Như tôi đã nói trong diễn văn khai mạc, ơn gọi không chỉ là một sứ mệnh, nhưng còn là kết quả của sứ mệnh nếu sứ mệnh được thực thi tốt đẹp. Nếu ta phải thêm vào sự kiện là còn có hàng vô vàn người trẻ sống trong những tình trạng cơ cực hiểm nghèo, chỉ cố gắng sao cho tồn tại, hay những người trẻ khác, tuy không vướng phải những vấn đề nghèo khó vật chất, đang sống một cuộc đời vô mục đích, hay còn phung phí ân tặng vô giá qua những lựa chọn cuộc đời không đem lại thoả mãn hay trở thành con đường đưa tới sự tự hủy, chúng ta không thể nào lại không nỗ lực giúp cho ơn gọi đuợc trưởng thành. Khi nói về nghèo khó tin mừng, chúng ta thấy đó là lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta hãy biến tám mối phúc thật làm của mình, sống ly thoát khỏi những bận tâm về của cải trần thế, vượt thắng cám dỗ muốn giầu có, đảm nhận một lối sống mộc mạc, giản dị, lối sống giải phóng lòng trì chúng ta khỏi quá nhiều thứ làm trở ngại cho việc ta hoàn toàn tự hiến cho sứ mệnh và làm cho ta ít được tin tưởng. Của cải là mối nguy cơ thực sự: nó làm cho con người trở nên thiển cận khi tiếp cận những giá trị lâu bền (x. người giầu có ngu dại, Lc 12, 13-21), trở nên cứng lòng trước người nghèo khổ (x. dụ ngôn Lagiarô nghèo khó và người phú hộ giầu có, Lc 16,9-13). Đó là một trong những đề tài hết sức cấp bách, nhưng cũng là một lựa chọn đem lại năng lực giải phóng thật vĩ đại cho chúng ta và tha nhân. Và rồi: khi nói đến những biên cương mới chúng ta cần phải dấn thân, nhưng không phải như những nhà hoạt động vì nhân quyên, như những nhân viên thiện chí của những tổ chức phi chính phủ, nhưng như là những nhà giáo dục thánh hiến, những người đang tìm cách đáp trả nhu cầu của người trẻ, mà không hề có ý đồ gì trong những công việc ta có, và đem lại một sự phục vụ đầy ý nghĩa. Vì thế, ở điểm này, tôi nhắc lại điều tôi đã nói trong phần "Tổng Quan và Cái Nhìn Ngôn Sứ cho tương lai" trong Bản Tường trình Ban đầu của tôi: cần phải làm những việc đáp ứng những nhu cầu của người trẻ qua những hiện diện mới, ở nơi nào chúng cần đến, hay một hình thức hiện diện mới ở nơi nào chúng ta đã hiện diện nhưng cần phải canh tân lại chính mình. 38

Tuần lễ thứ tư (24-29 tháng Ba) được dành để sống bầu khí phân định và bầu cha Bề Trên Cả, Phó Bề Trên Cả và các Cố Vấn. Đây là một trong những mục tiêu chính và cùng lúc đó là một trong những nhiệm vụ tế nhị nhất của Tổng Tu Nghị. Được cha Josê Maria Arnaiz hướng dẫn, các thành viên Tổng Tu Nghị chúng tôi được đưa vào bầu khí thiêng liêng để chúng tôi ý thức, tự do và trách nhiệm diễn tả ý kiến của mình qua từng lá phiếu. Nói chung, mọi cuộc bầu cử được tiến hành một cách thanh thản dẫu rằng trong bản lượng giá cuối cùng, chúng ta nhận thấy cần phải hiểu rõ hơn những kỳ vọng của từng Ban Ngành hay Miền để có thể xác định rõ nét hơn diện mạo của vị Cố Vấn sẽ được bầu với nhiều thông tin hơn về danh tánh các ứng viên. Chắc chắn rằng có nhiều yếu tố tác động trong việc hình thành Ban Tổng Cố Vấn : cảm thức của chính những vị có tên được đề cử, và vì thế có cả cảm nhận về văn hoá trong tiến trình bầu cử, thêm vào đó là niềm mong muốn hợp pháp là cố hình thành một hình thức đại biểu cho toàn thể Tu hội. Tuy nhiên, mức độ đồng thuận rất cao trong việc bầu Bề Trên Cả và các vị Tổng Cố Vấn là dấu chỉ sự hiệp nhất của Tu Hội giữa những khác biệt làm nên Tu Hội.

Sự hợp nhất giữa khác biệt được diễn tả trong buổi tối ngày bầu Bề Trên Cả qua bữa tiệc mừng và buổi văn nghệ. Những lời khen ngợi nồng hậu dành cho các vị Tổng Cố vấn hoàn tất nhiệm kỳ (Cha Antonio Domenech, Cha Gianni Mazzali, Cha Francis Allencherry, Giám Mục Tarcisio Scaramussa, Cha Albert Van Hecke, Cha Filiberto Rodriguez, Cha Joaquim D'Sousa, cũng như các vị Tổng Cố Vấn qua đời trong nhiệm kỳ, Cha Valentin de Pablo va cha Helvecio Baruffi) là dấu chỉ lòng biết ơn về những việc các ngài phục vụ nhân danh Tu Hội, khi sinh động hoá một Ban ngành hay một Miền. Khi nói đến việc bầu cử, ta không thể nào lại không nhấn mạnh một biến cố mới mẻ rất ý nghĩa là việc bầu một Sư Huynh làm thành viên Ban Tổng Cố vấn.



Tuần lễ thứ năm (31 tháng Ba - 5 tháng Tư) bắt đầu bằng việc viếng thăm Vatican và Yết Kiến Đức Thánh Cha. Trong chuyến thăm viếng Đền Thờ Thánh Phêrô, chúng ta được Đức Hồng Y Angelo Camoastri, Trưởng Tế Đền Thờ tiếp đón và chúng ta có được ân huệ lập lại lời tuyên tín trước lăng mộ Thánh Tông Đồ Phêrô và cầu nguyện trước tượng thánh Don Bosco, xin ngài ban cho chúng ta ơn can đảm để có thể kêu cầu cùng với ngài "Xin Chúa cho con các linh hồn, còn mọi sự khác xin cất đi." Và cuộc hội kiến Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là một trong những biến cố tột đỉnh của TTN 26, hoà hợp với khoé nhìn của Don Bosco về Giáo Hội và Tu đức. Những lời của Đức Thánh Cha nói cho các thành viên Tổng Tu Nghị được đón nhận như là những hướng dẫn soi sáng và định hướng chương trình. Những ngày tiếp sau, các Ủy Ban và Hội Nghị Khoáng Đại tiếp tục học hỏi bản văn soạn thảo lần nhất của Ủy Ban Soạn Thảo. Như thế, công việc trong Tuần Thánh trước cuộc bầu cử được tiếp tục, học hỏi năm đề tài trong các Uy Ban và Hội Nghị Khoáng Đại. Nhiều vấn đề Ủy Ban Pháp Lý đệ trình được bỏ phiếu. Tuần lễ này kết thúc với cuộc thăm viếng Hang Toại Đạo thánh Callixtô. Ở đó, chúng ta đã muốn tri ân các vị Bề Trên Cả, cách riêng ba vị sau cùng là Cha Luigi Riccêri, cha Egidio Vigano và cha Juan Edmundo Vecchi. Sau khi cử hành thánh lễ và ăn trưa, chúng ta cầu nguyện nơi các ngài được an táng. Trong lời cầu nguyện của tôi, tôi đã cám ơn Chúa vì đã ban ơn cho Tu Hội qua bản thân của các ngài. Tôi xin các ngài trợ giúp và chuyển cầu, tôi cũng xin cho toàn thể các hội viên ơn được biết đi đến tận nguồn mạch căn tính của chúng ta ("trở về với Don Bosco"), tìm ra được con đường cho tương lai ("khởi phát lại từ Don Bosco"). Con đường trung thành trong tương lai bắt đầu từ việc trung thành với những tiền nhân của chúng ta.

Tôi không muốn dấu anh em là tôi thường tự hỏi: "Liệu đây có phải là kinh nghiệm Thánh Thần Hiện Xuống hay chăng? Liệu có phải là Chúa Thánh Thần thực sự hoạt động qua chúng ta để canh tân Tu Hội, hun nóng tâm hồn anh em hội viên hay chăng?" Tôi tin rằng câu trả lời là "Đúng vậy". Chúa Thánh Thần không thay đổi hoàn cảnh sống bên ngoài nhưng là nội tâm; Ngài có năng lực đổi mới con người và biến cải trái đất. Ngài hoạt động chủ yếu nơi từng người trong chúng ta, quy tụ chúng ta lại, đưa chúng ta vào một kế hoạch chung, làm cho chúng ta chịu trách nhiệm soạn thảo tất cả những gì có thể làm được để canh tân lại chân tính hữu hình và tính khả tín trong đời sống và sứ mệnh của chúng ta.

Còn công việc của Ủy Ban Pháp Lý là xem xét từng đề nghị đến từ các Tu nghị Tỉnh hay từng cá nhân hội viên, từ Ban Tổng Cố vấn hay các thành viên Tu nghị. Tất cả những điều này đều được đệ trình cho Hội Nghị Khoáng Đại để có ý kiến. Đọc lại lịch sử Tu Hội, chúng ta ý thức được tác động của các Tổng Tu Nghị đối với việc hình thành cơ cấu sinh động hoá và điều hành Tu hội tại các cấp khác nhau (địa phương, tỉnh dòng, và thế giới). Chắc chắn rằng để đi đến một số thay đổi trong cơ cấu thì cần phải có nhiều Tổng Tu Nghị; đó không phải là do chậm chạp hay thiếu can đảm trong việc đề ra những thay đổi quan trọng, nhưng đúng hơn là ta không luôn luôn có thể có được một cái nhìn toàn diện về những hệ quả của những quyết định này. Ngay chính Tổng Tu Nghị đây, khi phải suy nghĩ lại một số khía cạnh trong cơ cấu Ban Tổng Cố Vấn, điều đó có nghĩa là cần phải nghiên cứu nghiêm túc các giải pháp khác nhau, để đưa tới một đề xuất thực sự là canh tân và có giá trị thật thấu đáo. Từ đó, Hội nghị Khoáng Đại đã phê chuẩn một đường hướng đầu tiên: trong thời kỳ sáu năm tới phải lượng giá lại Cơ Cấu Điều Hành Trung Ương (cấu trúc và chức năng), để việc phục vụ được hữu hiệu và sâu sát hơn với các hội viên.

2. Một cách đọc 'mang tính ngôn sứ' nhằm “thấu hiểu” những gì đã xẩy ra

Tổng Tu Nghị đã soạn nên một văn kiện, gồm 5 khung đề tài lệ thuộc nhau, dựa trên chủ đề chính được đề ra trong lá thư triệu tập: "trở về với Don Bosco"; "nhu cầu rao giảng tin mừng"; "nhu cầu mục vụ ơn gọi"; "nghèo khó tin mừng" và "những biên cương mới". Các khung đề tài này nhằm cụ thể hoá châm ngôn "Da mihi animas, cetera tolle", áp dụng khung sườn đã dùng trong TTN 25 (Tiếng Chúa Gọi, Thực Trạng, Hướng Hành Động) và được làm phong phú thêm với những tiêu chuẩn lượng giá, giúp ta đạt tới mục tiêu: cần thăng tiến não trạng và cần thay đổi các cơ cấu.

Tôi nghĩ rằng văn kiện chung cuộc thực sự là tốt và mới mẻ, đã lưu ý đến những bối cảnh và hoàn cảnh khác nhau trong đó Tu Hội đang nhập thể đoàn sủng Don Bosco. Giờ đây, từng Miền và Tỉnh Dòng phải đưa những hướng hành động chính này vào trong bối cảnh của mình để chúng đáp trả tốt đẹp hơn hoàn cảnh thực sự và những thách đố cụ thể.

Tôi chắc chắn rằng mọi hội viên sẽ thấy những trang văn kiện này thật là thôi thúc. Chúng sẽ giúp đem lại sức mạnh cho cuộc đời anh em để thực thi thật tốt sứ mệnh Salêdiêng. Có lẽ, nói chung, bản văn có vẻ không đủ quyết liệt; nhưng cha xác tín rằng nếu để tâm vào đó, văn kiện sẽ khơi dậy lòng hứng khởi và trên hết, có thể làm cho mọi người canh tân mình về mặt thiêng liêng và khám phá lại nhiệt tình tông đồ của mình.

Văn kiện giả thiết đã có sự hiểu biết về tình trạng xã hội và Tu Hội, và diễn tả mong muốn tạo được một sự biến cải. Đức Thánh Cha trong diễn từ cho TTN 26 ngày 31 tháng Ba nhắc nhở chúng ta điều này: "Tổng Tu nghị 26 của anh em được cử hành trong thời kỳ đầy những biến động lớn về xã hội, kinh tế và chính trị, đầy những vấn đề luân lý, văn hoá, môi trường và những xung đột không giải quyết nổi giữa các sắc tộc và quốc gia. Hơn nữa, trong thời đại chúng ta, thông tin giữa người với người ngày càng trở nên dầy đặc hơn, ta có thêm những cơ hội mới để hiểu biết, đối thoại và trao đổi thật sinh động các giá trị thiêng liêng đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Cách riêng, những người trẻ kêu nài ta và đặc biệt những vấn nạn của họ về các vấn đề căn bản đều gắn kết với việc họ khao khát vô vàn một đời sống sung mãn, một tình yêu chân chính và một tự do đầy sinh động. Đấy là những tình trạng thử thách Giáo Hội và khả năng Giáo Hội công bố Tin Mừng Chúa Kitô với lời hứa đầy hy vọng cho ngày hôm nay."39

Quả vậy, ta không thể nói về rao giảng tin mừng hay [tìm kiếm] ơn gọi, về cuộc sống giản dị và những biên cương mới nếu như chúng ta không nhận biết tình cảnh ta đang sống và làm việc và những thách đố mà đời sống và sứ mệnh Salêdiêng đang gặp phải.

Chúng ta ý thức đến những khuôn mặt và những đòi hỏi khẩn thiết của những người trẻ vô cùng thiếu thốn, những người mà sứ mệnh chúng ta hướng đến. Chúng ta đã chọn họ là đối tượng "ưu tiên" của chúng ta, chính là vì "ưu tiên chọn người nghèo khổ" đã tiềm ẩn trong đức tin Kitô giáo vào một Thiên Chúa trở nên nghèo khổ vì chúng ta để làm cho chúng ta giầu có bởi sự nghèo khó của ngài".40 Don Bosco đã thực hiện đức tin ấy và truyền lại trong truyền thống Salêdiêng của chúng ta. (x. HL 11).

Vậy, đâu là chìa khoá để giải thích văn kiện này?

- Trước tiên: Hâm nóng cõi lòng hội viên, khởi phát lại từ Chúa Kitô và từ Don Bosco. Đây không phải là việc tạo nên một cảm xúc phiến diện hay một hứng khởi chóng qua. Điều can hệ ở đây chính là việc phải tận tụy và khẩn thiết hoán cải, đi vào trong sa mạc --như dân Israel--để có thể gặp lại mối tình ban đầu, gặp lại đấng đã hấp dẫn ta và làm cuộc đời ta nên sung mãn qua lời hứa và một tương lai (x. Hs 2,16-25). Chúng ta cần phải gặp gỡ Đức Chúa, đấng đến tâm sự với cõi lòng ta, đấng giúp ta tái khám phá ra những năng lực tốt nhất của ta, những năng lực xuất phát từ cõi lòng; đấng một lần nữa đem lại niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời ta và giúp các động cơ của ta nên sâu xa hơn, kiện cường các xác tín của ta, thôi thúc ta đi trên con đường trung thành với giao ước, tổ chức cuộc sống bản thân, cộng thể, và tu hội theo như những giá trị Tin Mừng và theo đoàn sủng của Don Bosco.

Cha nhớ đến một câu chuyện về một vị đan sĩ "tốt lành và chuyên chăm". Thầy đến vị Viện Phụ và xin ngài một lời khuyên để thăng tiến cuộc đời mình. Câu chuyện được các Vị Ẩn Tu Sa mạc thuật lại như sau :



Truyện kể rằng vào một ngày nọ, viện phụ Lot tìm gặp viện phụ Giuse và nói với ngài:

- Thưa viện phụ, bao có thể con đã chu toàn lề luật, con thực hành mọi chay tịnh nhỏ nhặt, con cầu nguyện và suy gẫm đôi chút, con giữ mình thinh lặng, và bao có thể, con giữ lòng mình trong sạch. Vậy con còn phải làm gì nữa?

Vị tu sĩ già đứng lên, giơ hai tay lên trời và các ngón tay của ngài trở thành mười ngọn đuốc rực lửa. Và ngài nói:

- Sao con không biến thành lửa?41

Đây là mục tiêu phải đạt tới trong Tổng Tu nghị này: biến chúng ta thành lửa! Câu chuyện này lập tức đưa chúng ta về với cảnh tượng hùng hồn và đầy ý nghĩa của Lễ Hiện Xuống : "Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần" Cv 2, 3-4a). "Hâm nóng cõi lòng" không có nghĩa gì khác hơn là biến cải chính bản thân mình thành ngọn lửa, hai lá phổi phải tràn đầy Thần Khí.

Tất cả điều này ăn khớp với châm ngôn của Hội Nghị về Đời Sống Thánh Hiến (tháng 11-2004) trong đó, chúng ta muốn giải thích và sống đời sống tu sĩ chúng ta, bắt đầu bằng việc hết lòng đam mê Chúa Kitô và hết lòng đam mê con người.

Trong ánh sáng của hai lòng đam mê này, chúng ta có những ưu tiên như sau:



* Thiêng Liêng: có nghĩa là một cam kết hết sức đặc biệt nhằm để Lời Chúa và Thánh Thể thực sự là trung tâm cuộc đời người thánh hiến và cộng thể họ. Chúng ta xác tín rằng người thánh hiến phải trở nên dấu chỉ và ký ức sống động của chiều kích siêu việt đang hiện diện trong cõi lòng của từng con người.

* Cộng thể: chúng ta biết rằng chứng tá đời hiệp thông, mở lòng cho tất cả những người thiếu thốn, là căn bản trong thế giới của chúng ta và không những trợ lực cho người tu sĩ trung thành nhưng còn là chứng tá cho một hình thức đời sống khác hẳn lối sống hiện hành, là lối sống thường đưa ta tới lối sống cá nhân chủ nghĩa.

* Sứ mệnh: được thực thi và sống trước tiên nơi những biên cương truyền giáo với những người bị khai trừ, nghèo khổ, trần tục hoá, là suy tư, đào luyện và giáo dục trên mọi bình diện.

Dường như đối với ta, có những "nơi chốn" mà người thánh hiến cần phải hiện diện để diễn tả chiều kích truyền giáo của Giáo Hội. Tuy nhiên, sứ mệnh cũng bao gồm "đam mê" --được hiểu như là chịu đau khổ hay bị nằm liệt trên giường--của biết bao tu sĩ còn tiếp tục cầu nguyện cho Giáo Hội và cho những người làm việc trên cánh đồng và "đam mê" đến mức phải chịu tử đạo của nhiều tu sĩ bị cầm tù và bị giết hại vì Nước Trời. Họ là lời diễn tả tốt nhất Tin Mừng.

Nếu chúng ta muốn cảm thấy lòng mình bừng cháy và đốt lên được ngọn lửa đam mê nơi những hội viên, chúng ta cần phải đi theo cùng con đường của các môn đệ thành Emmaus. Trong bài giảng ngày được tái bầu, tôi nói: "không phải là con đường vật lý mà là một tiến trình nhiệm đạo, một hành trình thiêng liêng thực sự. Con đường ấy càng có giá trị hơn nữa cho ngày hôm nay bởi vì nó cho ta thấy tình trạng của chúng ta: những con người nản lòng nản chí, biết Chúa Giêsu nhưng lại không có kinh nghiệm đức tin, biết Kinh thánh nhưng không khám phá ra Lời Chúa. Vì thế, họ đã bỏ lại Giêrusalem và cộng đoàn tông đồ đàng sau và họ trở lại nơi mà họ đã khởi sự. Con đường đi về Emmaus là con đường dẫn từ Kinh thánh tới Lời Chúa, từ Lời Chúa tới con người Đức Kitô trong Thánh Thể, và từ đó trở lại cộng đoàn và lưu lại đấy. Ở đó chúng ta có thể thấy đức tin của chúng ta được củng cố khi chúng ta gặp anh em mình: "Quả thật. Chúa đã phục sinh và xuất hiện cho Simon!"

- Chìa khoá giải thích thứ hai là Tinh thần Truyền giáo hay nhu cầu khẩn thiết rao giảng Tin Mừng, không phải là do mong muốn chiêu mộ tín đồ, nhưng là do lòng đam mê cứu rỗi tha nhân, do niềm vui muốn chia sẻ kinh nghiệm cuộc sống tròn đầy nơi Đức Giêsu.

Trong Tổng Tu Nghị, một trong những đề tài và cùng lúc đó là một chủ đề xuyên suốt chính là đề tài nhu cầu khẩn thiết rao giảng tin mừng. Thánh Tông Đồ Phaolô đã diễn tả bằng một mệnh lệnh mang tính hiện sinh: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!" (1 Cr 9, 16b) Ý thức truyền giáo mạnh mẽ này hội nhập hoàn toàn mệnh lệnh Đức Giêsu truyền cho các môn đệ: "Anh em sẽ là chứng nhân của thầy ... cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Don Bosco đã biến thành của mình mệnh lệnh minh nhiên này của Đức Giêsu và ngay khi Hiến Luật được phê chuẩn (1874), ngài đã lập tức gởi đoàn truyền giáo sang Châu Mỹ Latinh ngày 11 tháng 11 năm 1875.

TTN 26 mời gọi chúng ta hoà mình với cảm hứng của Don Bosco, với chiều kích truyền giáo của cuộc đời ngài nhưng cũng với đoàn sủng của ngài. Tất cả điều này diễn tả điểm căn bản trong chúc thư thiêng liêng ngài để lại cho chúng ta. Tổng Tu nghị vừa kết thúc cống hiến cho chúng ta cơ hội hiểu rõ hơn chúng ta được mời gọi đem lại đáp trả nào cho ngày hôm nay.

Ngày hôm nay, nhu cầu khẩn thiết phải có tinh thần truyền giáo là một vấn đề sinh tử đặc biệt bởi lẽ trước tiên, toàn thế giới này một lần nữa lại đã trở thành "vùng truyền giáo"; thứ đến, bởi lẽ ngày nay, có một cách thức hiểu khác về tinh thần truyền giáo, về việc thể hiện "missio ad gentes" [truyền giáo cho dân ngoại]. Quả thực, vẫn phải truyền giáo trong khi vẫn kính trọng các bối cảnh văn hoá khác nhau, đối thoại với các giáo phái Kitô hữu khác và các tôn giáo khác, dấn thân thăng tiến nhân bản và làm men trong nền văn hoá (x. EN 19).

Nhưng tinh thần truyền giáo của Don Bosco phát xuất từ đâu? Đâu là lý do cho lòng nhiệt thành truyền giáo vĩ đại của ngài?

Theo ý tôi, có ba yếu tố chính phải làm nên điểm quy chiếu cho tất cả chúng ta.

* trước tiên là vâng phục lệnh truyền của Đức Giêsu, khi về trời, trước khi rời bỏ thế gian này để về cùng Cha Ngài, đã nói cho chúng ta: "anh em hãy là chứng nhân của thầy cho đến tận cùng thế giới" (Cv 1,8). Như thế, ngài ban cho chúng ta thế giới này như là cánh đồng để rao giảng tin mừng cho đến ngày tận thế. Đối với chúng ta là Salêdiêng, và đối với mọi Kitô hữu nói chung, lý do thứ nhất để trở thành người rao giảng tin mừng là vâng phục lệnh truyền của Đức Giêsu.

* yếu tố thứ hai trong chiều kích truyền giáo của Don Bosco là xác tín về giá trị là men và khả năng biến cải của Tin Mừng, khả năng làm dậy men mọi nền văn hoá. Trong “Đề cương của Phúc âm hoá”, Tông Dụ Evangelii Nuntiandi năm 1975, Đức Phaolô VI viết rằng Tin Mừng có thể hội nhập vào được mọi nền văn hoá, nghĩa là, nó có thể được diễn tả khác nhau tùy theo các văn hoá, mà không hề bị đồng hoá với bất kỳ nền văn hoá nào. Ngay cả với văn hoá Do thái trong đó Đức Giêsu được sinh ra, theo nghĩa là không có nền văn hoá nào có thể hòa hợp hoàn toàn với tính mới mẻ của Tin Mừng. Vì thế, mọi nền văn hoá được mời gọi hãy để mình được thanh tẩy và nâng cao. Không công cuộc rao giảng tin mừng nào là chân thực nếu như nó không chạm đến hồn của nền văn hoá, tức là tập họp những giá trị làm nền tảng quy chiếu cho những quyết định của con người. Mọi nền văn hoá đều quan trọng, vì nó biểu thị bối cảnh trong đó người ta được sinh ra, lớn lên, học thiết lập những quan hệ, đối diện với cuộc đời, nhưng ta cũng phải nhìn nhận rằng mọi nền văn hoá đều có những giới hạn của mình và cần đến ánh sáng của Tin mừng.Và rồi ngày nay, khi chúng ta nói đến nhu cầu khẩn thiết rao giảng tin mừng, chúng ta không chỉ nghĩ đến Châu Đại Dương, đến Á châu, hay Phi châu, hay Châu Mỹ Latinh, nhưng còn nói tới cả Âu châu, là vùng hơn bao giờ hết cần đến Tin Mừng và đoàn sủng Salêdiêng.

* yếu tố thứ ba, làm nên một phần rất đặc biệt của đoàn sủng Don Bosco, là lòng thương mến đối với người trẻ, biết rằng trong các chính sách của các chính quyền và trong xã hội nói chung, mặc dù có nhiều tuyên bố, người trẻ vẫn không được kể đến và dường như họ bị coi là những con người tiêu thụ các sản phẩm, các kinh nghiệm và dục vọng. Nhưng điều đó không đúng với Tin Mừng, với thực hành và suy nghĩ của Chúa Giêsu, là đấng khi được hỏi: Ai là người quan trọng? Ngài đã trả lời bằng cách gọi một đứa trẻ gần bên đến với ngài, và đặt em vào trong lòng. Đặt người trẻ vào trung tâm tầm nhìn truyền giáo của chúng ta! Đây là một trong những yếu tố chuyên biệt hơn cả trong gia sản thiêng liêng phong phú Don Bosco để lại cho chúng ta. Và nhiệm vụ trao phó cho chúng ta là đem gia sản này đến với mọi nền văn hoá nơi chúng ta đến và làm việc và nơi mà người trẻ thường không được kể đến. Sự vĩ đại của Don Bosco chính là ở điểm này: làm cho người trẻ trở thành tác nhân chủ động, không những là qua việc giáo dục chúng, mà còn trong kinh nghiệm sư phạm và thiêng liêng của ngài. Là một linh mục mở ra những con đường [mục vụ] mới, Don Bosco tin vào người trẻ, và ngài hoàn toàn hiến đời mình với tài năng tông đồ nhằm đảm bảo rằng chúng có được cơ hội phát triển tất cả những khiá cạnh nhân cách và tiềm năng làm điều lành của mình, làm cho quyền lợi của chúng được tôn trọng, làm cho chúng (đặc biệt những em tốt hơn) trở thành người chịu trách nhiệm tiếp tục công cuộc của ngài qua dòng lịch sử.

Trong Tổng Tu nghị, sau khi nhấn mạnh lại nhu cầu khẩn thiết rao giảng tin mừng, chúng ta đã nhắc lại rằng Salêdiêng chúng ta thực thi sứ mệnh này theo như đoàn sủng giáo dục riêng của chúng ta. "Công cuộc mục vụ của Don Bosco không bao giờ có thể giản lược vào việc chỉ dậy giáo lý hay cử hành phụng vụ, nhưng còn bao gồm mọi hình thức sư phạm/văn hoá thực tiễn gắn liền với người trẻ (. . .) Đó là vấn đề đức ái tin mừng mặc lấy hình thức cụ thể khi giải phóng và dưỡng dục người trẻ bị bỏ rơi hay lầm đường lạc lối.

Nếu một nền giáo dục không mở lòng người trẻ ra cho Thiên Chúa và cho vận mệnh vĩnh cửu đời người, thì đó không phải là nền giáo dục Salêdiêng, cũng vậy, rao giảng tin mừng nào không chú tâm đến việc đào tạo con người trưởng thành trong mọi chiều hướng, hoặc không biết cách thích ứng hay tôn trọng hoàn cảnh biến đổi của trẻ em, thiếu niên hay thanh niên, thì không phải là rao giảng tin mừng kiểu Salêdiêng.

Quả đúng là tại một số nơi bị tục hoá, Giáo Hội gặp phải những khó khăn nhất định trong việc rao giảng tin mừng cho các thế hệ mới. Và ngay cả khi các bản điều tra và thống kê rõ ràng không phải là lời phán quyết cuối cùng, ta thấy cần phải xem xét những lối thực hành khác về tôn giáo, có thể bao gồm cả những hình thức linh đạo sâu xa. Ta không thể chối cãi rằng trong các quốc gia, đó là dấu chỉ của tiến trình dần dần phi-Kitô giáo. Có thể thấy được rằng cả thực hành lẫn xác tín tôn giáo ngày càng trở nên yếu ớt nơi những người trẻ. "Vấn đề là cả một tầng lớp dân chúng lại nhậy bén hơn trước những trào lưu văn hoá và chắc chắn đang rằng bị tiến trình trần thế hoá chung quanh tác động nhiều hơn."42 Dường như có sự tách rời giữa các thế hệ trẻ và Giáo Hội. Không hiểu biết đạo giáo và chịu nhiều thành kiến do một số phương tiện truyền thông ngày ngày tung ra thật thiếu nghiêm túc đã làm cho họ coi Giáo Hội như một định chế bảo thủ, chống lại văn hoá hiện đại, cách riêng là trong lãnh vực luân lý tính dục. Vì thế, nhiều người trong họ thường hạ giá hay tương đối hoá mọi lý tưởng tôn giáo đề xuất cho họ.

Một tình trạng thảm thương hết sức nghiêm trọng là sự đỗ vỡ đã xẩy ra trong mối dây tương quan thông truyền đức tin từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những nơi chốn tự nhiên và truyền thống (gia đình, trường học, giáo xứ) không còn hữu hiệu trong việc truyền giáo đức tin. Vì thế, thế hệ trẻ ngày càng ngu dốt về đạo giáo, và như thế, tiến trình người trẻ "thầm lặng rời xa Giáo Hội" tiếp tục diễn ra. "Các niềm tin tôn giáo bị ô nhiễm bởi trào lưu đa nguyên và ngày càng ít tuân theo giáo huấn Hội thánh: vì thế, dần dần có sự sa sút về thực hành tôn giáo: các bí tích và cầu nguyện."43

Thật không dễ để xác định hình ảnh người trẻ có về Thiên Chúa, nhưng chắc chắn rằng Thiên Chúa Kitô giáo đã mất đi vị trí trung tâm so với vị Chúa mà truyền thông xã hội giới thiệu cho người trẻ từ một thế giới thể thao, âm nhạc và phim ảnh được thần thánh hoá . Người trẻ cảm thấy mê say tự do và không bước vào nhà thờ nữa. Có rất nhiều người trẻ nghĩ rằng Giáo Hội là trở ngại cho tự do cá nhân của họ.

Đứng trước tình trạng này chúng ta có thể tự hỏi: Giáo hội và các trường học cung cấp được loại giáo dục nào? Tại sao vấn nạn tôn giáo lại bị khai trừ khỏi thế giới của người trẻ? Các thanh thiếu niên tự bản chất là quảng đại, và nhiệt tình trước những chính nghĩa đang được bận tâm. Tại sao Đức Kitô lại không còn có ý nghĩa đối với họ nữa?

Nếu như muốn trung thành với sứ mệnh của mình như là bí tích cứu độ phổ quát, Giáo Hội cần phải học biết ngôn ngữ con người theo thời đại, theo chủng tộc và địa phương đang sử dụng. Và Salêdiêng chúng ta cách riêng cần phải học biết và sử dụng ngôn ngữ của người trẻ. Hẳn chắc rằng ngày nay, trong Giáo Hội và trong cả các tổ chức của chúng ta, "vấn đề ngôn ngữ quả là nghiêm trọng." Cơ bản đó là vấn đề thông giao, là hội nhập Tin Mừng vào văn hoá trong các hoàn cảnh xã hội; vấn đề giáo dục đức tin cho thế hệ mới. Đây chính là một thách đố và là nhiệm vụ của chúng ta ngày nay: trở thành những nhà giáo dục có khả năng thông giao với người trẻ và truyền giao cho họ kho tàng vĩ đại là đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Khi truyền giao đức tin và các giá trị, khoa giáo dục Salêdiêng luôn luôn khởi sự từ hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân, từ kinh nghiệm nhân bản và đạo giáo của họ, từ những lo toan và ưu sầu của họ, từ niềm vui và hy vọng, đặc biệt lưu tâm tới kinh nghiệm và chứng tá. Khoa giáo dục ấy để ý tới đường lối nhập đạo Kitô giáo, để Đức Kitô được chấp nhận như người bạn cứu độ và biến cải chúng ta thành con cái Thiên Chúa hơn là một vị lập luật, đè nặng chúng ta với những giáo lý, điều răn hay nghi thức. Các khía cạnh tích cực và vui tươi của mọi kinh nghiệm tôn giáo được nhấn mạnh, trung thành với Don Bosco trong giấc mơ chín tuổi của ngài: "Ngay lập tức khởi sự bằng việc dậy cho chúng thấy cái xấu xa của tội lỗi và giá trị của nhân đức."44

"Rao giảng tin mừng qua giáo dục" đối với chúng ta có nghĩa là biết cách trình bày tin mừng tuyệt hảo nhất (Đức Giêsu) bằng cách thích ứng mình và tôn trọng tình trạng biến đổi của thanh thiếu niên. Người trẻ mưu tìm hạnh phúc, niềm vui sống và quảng đại, luôn có khả năng làm những hy sinh để có thể đạt được, nếu như chúng ta thực sự tìm cách chỉ cho họ thấy một con đường đầy thuyết phục và nếu chúng ta chịu đồng hành với họ trên con đường này. Người trẻ đã xác tín rằng Don Bosco muốn điều tốt nhất cho họ/yêu thương họ và muốn họ hạnh phúc ngay cả dưới thế lẫn vĩnh cửu trên thiên quốc. Và như thế, họ đã chấp nhận con được ngài đề ra cho họ: tình bạn với Chúa Giêsu, đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sông.

Don Bosco dạy chúng ta cùng một lúc phải vừa là nhà giáo dục, vừa là người rao giảng tin mừng ("ơn hiệp nhất"). Như là người rao giảng tin mừng, chúng ta nhận biết và tìm đạt tới mục tiêu: đem người trẻ tới Chúa Kitô. Như là nhà giáo dục, chúng ta phải biết cách khởi sự từ tình trạng cụ thể của người trẻ và tìm ra được phương cách thích hợp để đồng hành với họ trong tiến trình đạt tới mức trưởng thành. Nếu như trong tư cách là những mục tử, gạt bỏ qua mục tiêu trên quả là một nỗi bất hạnh, thì trong tư cách là nhà giáo dục, quả là một sự thất bại nếu như chúng ta không tìm ra được cách thức thích hợp để động viên các em đảm nhận hành trình này và đồng hành với các em một cách đầy khả tín.

- Chìa khoá thứ ba để giải thích là chủ đề "Biên Cương Mới", là nơi chốn tự nhiên cho đời sống thánh hiến và là lời mời gọi hiện diện tại những nơi nghèo khổ hơn, thiếu thốn hơn về mặt tôn giáo, văn hoá môi trường và xã hội.

Hiểu rõ sứ mệnh là lẽ sống của Salêdiêng chúng ta và nhu cầu cũng như những mong đợi của người trẻ xác định các công cuộc của chúng ta, trong Tổng Tu nghị, một trong những đề tài đáng được bàn thảo chính là "những biên cương mới", nơi đó thanh thiếu niên đang chờ đợi chúng ta. Đây không phải chỉ là vấn đề biên cương theo nghĩa địa lý nhưng còn theo nghĩa kinh tế, xã hội và đạo giáo. Ở đây, chúng ta phải hành động với tiêu chuẩn đã hướng dẫn các quyết định của Don Bosco, tức là "trao ban nhiều hơn cho những ai thiếu thốn nhất."

Tôi vui sướng vì từ những năm vừa qua, hiện nay trong Tu Hội ngày càng gia tăng nhận thức và lòng quan tâm, suy nghĩ cũng như sự dấn thân cho thế giới của người trẻ đang bị gạt sang bên lề và gặp khó khăn. Hiện tình này không còn là một lãnh vực riêng biệt, thể hiện qua một công cuộc đặc biệt mà một vài hội viên nào đó khởi xướng nữa. Lòng quan tâm đến thành phần thiếu thốn nhất/thành phần tận cùng đáy xã hội, những người cơ cực nhất, những người bất hạnh nhất đã trở thành một cảm nhận thường hằng (mang tính cơ chế) và dần dần được thể hiện qua nhiều công cuộc của tỉnh dòng. Các công cuộc xã hội đã nhân bội, cộng tác làm việc theo mạng lưới đang khởi sự và chúng ta đang cùng hiệp lực với các cơ quan khác hoạt động trong cùng một lãnh vực. Dường như thể chúng ta đang đi ra khỏi "bốn bức tường của mình", đi rảo khắp phố phường và lắng nghe tiếng than khóc kêu nài giúp đỡ của những người trrẻ. Đối với chúng ta, điều này có nghĩa là canh tân lại lòng thương mến quý chuộng người nghèo khổ nhất, những ai đang bị hất hủi nhất và những ai sống trong tình trạng nguy hiểm về luân lý: những người trẻ lạc lỏng, bị đối xử tàn tệ, nạn nhân của bạo lực và lạm dụng. Với cõi lòng của Don Bosco, chúng ta cảm thấy mình cần phải tìm ra những cách thức mới để chống lại sự dữ đang tàn hại biết bao thanh thiếu niên. Chúng ta cảm thấy mình có bổn phận phải đảo ngược trào lưu văn hoá và xã hội đương thời, đặc biệt là qua gia tài quý báu riêng của chúng ta: một hệ thống giáo dục có khả năng hoán cải cõi lòng người trẻ và biến cải xã hội. Chúng ta không ban bố kiểu "làm phúc" những gì mà họ có quyền hưởng theo lẽ "công bằng". Như tôi đã nói trong Hoa Thiêng năm 2008, trong năm nay, năm cử hành kỷ niệm 60 năm Tuyên Ngôn Nhân Quyền, chúng ta cần phải dấn bước và đặt mọi kế hoạch giáo dục trong lãnh vực quyền lợi của trẻ em.

Nhớ tới kinh nghiệm của Don Bosco

Theo như những gì Don Bosco đã viết trong cuốn Hồi Ký Nguyện Xá, kinh nghiệm gây sốc cho ngài và khiến ngài thành một linh mục theo cách thức mới là những cuộc tiếp xúc thanh thiếu niên trong nhà tù Tôrinô. Ngài nói như sau: "Cha thấy vô số các thanh thiếu niên từ 12 đến 18 tuổi; thấy những em khoẻ mạnh, thông minh, nhưng lại rỗi rãi ở trong tù, đầy dẫy bọ chét, thiếu hẳn của ăn phần xác và phần hồn, điều đó khiến cha khiếp hãi."45

Chúng ta cần ghi nhận yếu tố đầu tiên: Don Bosco nhìn, lắng nghe và học biết tình trạng xã hội, giải thích ý nghĩa đó và rút ra được những kết luận cần thiết. Từ kinh nghiệm ấy, Don Bosco khơi dậy lòng thương cảm vô bờ bến những người trẻ này. Tiếp xúc với các em, ngài cảm thấy cần phải cung cấp cho các em một nơi chốn tiếp đón, và một nền giáo dục đáp ứng nhu cầu của các em: "Trong những dịp như thế, cha thấy tại sao nhiều em lại bị đem trở lại nơi tù tội như thế này; chính vì chúng bị bỏ rơi tự lo liệu lấy. Cha tự nhủ, biết đâu, nếu như các em này có được một người bạn ở bên ngoài nhà tù tiếp nhận các em, giúp các em, dậy dỗ các em giáo lý trong những ngày lễ ... Biết đâu nhờ đó chúng có thể lánh xa được kiếp tàn tạ, hay ít ra con số của những em trở lại nhà tù có thể giảm hẳn đi? Cha nói điều này với cha Cafasso. Được ngài khích lệ và soi sáng, cha bắt đầu suy nghĩ làm thế nào thể hiện được ý tưởng này."46

Và rồi chúng ta tìm thấy yếu tố thứ hai cần phải được ghi nhận trong kinh nghiệm của Don Bosco: một trí tưởng tượng mục vụ, khiến ngài quảng đại sáng tạo những đáp trả thích ứng cho các thách đố mới ấy. Tất cả những điều này có nghĩa là chính bản thân ngài mang lấy trọng trách xây dựng những cơ cấu nào có thể tạo nên được một thế giới mới tốt đẹp hơn cho người trẻ.

Như thế, Don Bosco đã nghĩ trước hết tới việc ngăn ngừa những kinh nghiệm xấu, đón tiếp những đứa trẻ đến thành phố Tôrinô tìm việc làm, những em mồ côi, hay những em mà cha mẹ không chăm sóc được, hay không muốn chăm sóc, những em lang thang phố phường, không bè không bạn, không có cơ hội sống một cuộc đời chân chính. Ngài cho các em cơ hội được giáo dục, tập trung vào việc chuẩn bị các em vào đời làm việc, giúp các em tìm lại được sự tự tin và nhận thức giá trị của bản thân mình. Ngài cung cấp cho các em một môi trường lành mạnh đầy niềm vui và tình bạn, trong đó các em theo gương nhau học được các giá trị đạo đức và tôn giáo. Ngài dậy giáo lý cho các em một cách đơn sơ, thích hợp với lứa tuổi của các em và loại dậy giáo lý ấy được nuôi dưỡng bởi một bầu khí lành mạnh đầy niềm vui, hướng tới lý tưởng thánh thiện thật cao cả.

Hiểu rõ tầm quan trọng của việc giáo dục người trẻ và con người để biến cải xã hội, Don Bosco trở thành người cổ xúy cho những kế hoạch xã hội mới nhằm dự phòng và hỗ trợ. Ta có thể nghĩ đến việc ngài hành xử với thế giới lao động, với hợp đồng lao động với chủ thợ, với thời gian rảnh rỗi, cổ võ nền giáo dục và văn hoá bình dân. Ngay cả khi Don Bosco không minh nhiên nói đến quyền trẻ em -- văn hoá thời ngài chưa có nói như thế -ngài tìm cách đem lại phẩm giá cho các em và giúp các em tìm được vị trí của mình trong xã hội để có thể thành đạt trong cuộc sống ("gia tăng năng lực nơi các em").

Sau cùng, yếu tố thứ ba, mà theo ý của tôi là rất quan trọng, làm nên đặc điểm kinh nghiệm của Don Bosco. Đó là ngài nhận ra rằng làm giảm nhẹ nỗi bất hạnh và bị bỏ rơi các em đang phải sống (hành động thuyên chữa) là không đủ. Ngài cảm thấy mình ngày càng hướng vào việc biến cải nền văn hoá (hành động biến cải), qua một nơi chốn và phong cách giáo dục hội tụ rất nhiều người cùng tâm huyết với ngài và sứ mệnh ngài. Điều này không chỉ có nghĩa là Don Bosco đã khởi sự một tổ chức (Nguyện Xá Valdoccô), nhưng còn là phát triển trực giác đặc biệt khiến ngài khơi dậy một lực lượng rộng lớn để cứu độ giới trẻ: Gia Đình Salêdiêng (x. HL 5). Nhu cầu thì quá nhiều. Trước tiên, ngài xin chính mẹ ngài cộng tác, rồi đến các linh mục địa phận. Với những thanh thiếu niên tốt nhất của mình, ngài bắt đầu Tu Hội Thánh Phanxicô Salê, rồi ngài thành lập Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, và khởi sự Hội Cộng Tác Viên. Tâm trí ngài luôn mơ ước "làm lợi cho thanh thiếu niên". Trái tim của ngài là "lời diễn tả liên lỉ tình yêu Thiên Chúa dành cho giới trẻ."

Là Salêdiêng, chúng ta hãy tiếp tục vun trồng nơi cõi lòng chúng ta niềm đam mê người nghèo khổ nhất, người bị bỏ rơi, kẻ tận cùng đáy xã hội. Tôi càng biết thêm về Tu Hội chúng ta đang trải rộng khắp năm châu bốn bể, tôi lại càng hiểu rõ hơn là anh em Salêdiêng chúng ta đã nỗ lực trung thành ra sao với tiêu chuẩn căn bản này là sống gần gũi và liên đới với những người khốn khó nhất, lưu tâm tới những tình cảnh người trẻ mà xã hội không muốn biết tới: trẻ hè phố, trẻ em bị bắt làm lính, trẻ em nô lệ lao động, những trẻ em bị du lịch tình dục khai thác, những người tị nạn chiến tranh, dân nhập cư, nạn nhân rượu chè và hút xách, bệnh nhân HIV và SIDA, những người trẻ không còn cảm thức đạo giáo ... Như tôi đã nói trên, ngày nay chúng ta có thể thấy rằng nhiều anh em chúng ta ngày càng ý thức rõ hơn những điều này và tạ ơn Chúa, nhận thức này ngày càng tăng thêm. Ngày nay, công việc tiên phong của các tiền nhân ấy đã được Tu Hội tiếp tục, và trên hết, chúng ta đã học được lối suy nghĩ cho phép chúng ta sẵn sàng đi đến bất kỳ nơi nào, mang theo lăng kính đọc hoàn cảnh này là ưu tiên chọn lựa làm việc cho những người bị khai trừ và sống bên lề xã hội nhất. Quả là một ân sủng khi nghe biết trong Tu Hội lối suy nghĩ này ngày càng lớn lên thêm: "cống hiến nhiều nhất cho những ai thiếu thốn nhất."

Trong các quốc gia đang phát triển, dung mạo của giới trẻ hằn lên nỗi cùng cực vật chất, còn trong những quốc gia đã phát triển, giới trẻ rõ rệt là mất hướng sống, buông thả theo lối sống hưởng thụ, chiều theo khoái lạc, dửng dưng và nghiện ngập. Các đáp trả nhất thiết phải là khác. Trong ánh sáng những chiều kích chủ yếu có thể và cần phải thay đổi lối sống và hoạt động tông đồ của chúng ta, rõ ràng là chúng ta buộc phải hoán cải để hướng đến điều gì thiết yếu cho một cuộc sống nghèo khó, đạm bạc, giản dị, một lối sống diễn tả được sự ly thoát hoàn toàn của chúng ta khỏi những gì ngăn cản chúng ta dấn thân tới cùng cho những ai Chúa trao phó cho chúng ta.

3. Những chọn lựa được thực hiện và sự khởi đầu nhằm thực hiện những chọn lựa đó : những viễn ảnh của việc sinh động và điều hành

Những chiều kích nói ở trên được diễn tả trước tiên qua các phần khác nhau trong văn kiện. Quả thật, những quyết định chính của TTN 26 đối với việc tái sinh thiêng liêng và lòng nhiệt thành tông đồ đã được trình bày trong những "Hướng hành động" ở mỗi phần. Chúng đề ra cho chúng ta những hướng hành động phải được chuyển dịch từ văn bản sang cuộc sống. Quả thực, chúng không thể nào chỉ là những ý định được tuyên bố, nhưng cần phải trở thành chương trình sống thực sự, để sinh động hoá và điều hành, để hoạt động giáo dục mục vụ.



Về chủ đề "Xuất phát lại từ Don Bosco", chúng ta đã quyết định :

Trở về với Don Bosco

Đường hướng hành động 1

Nỗ lực yêu mến, học hỏi, noi gương, cầu khấn và quảng bá Don Bosco để phát xuất lại từ ngài.
Trở về với thanh thiếu niên

Đường hướng hành động 2

Trở về với thanh thiếu niên, đặc biệt các em nghèo khổ nhất, với cõi lòng của Don Bosco
Chân tính đoàn sủng và đam mê tông đồ

Đường hướng hành động 3

Tái khám phá ý nghĩa của Da mihi animas, cetera tolle là chương trình sống thiêng liêng và mục vụ.
Về chủ đề "Sự khẩn thiết của việc Phúc âm hoá", chúng ta đã quyết định :
Cộng Thể được Phúc âm hóa và Phúc âm hóa

Đường hướng hành động 4

Đặt việc gặp gỡ Đức Kitô trong Lời Chúa và Thánh Thể vào trung tâm của các cộng thể chúng ta, để trở thành môn đệ chân chính và tông đồ khả tín.
Vị trí trung tâm của việc loan báo Chúa Giêsu Kitô

Đường hướng hành động 5

Can đảm và hân hoan đề xuất cho người trẻ sống cuộc đời của họ như Chúa Giêsu Kitô đã sống
Phúc âm hóa và giáo dục

Đường hướng hành động 6

Trong mọi bối cảnh, lưu tâm tới việc hòa nhập thật hữu hiệu việc Phúc âm hóa và giáo dục với nhau, theo những nguyên tắc của Hệ thống Giáo dục Dự phòng
Phúc âm hóa trong những bối cảnh khác nhau

Đường hướng hành động 7

Hội nhập văn hóa tiến trình Phúc âm hóa nhằm đáp lại những thách đố trong các bối cảnh của khu vực.
Về chủ đề "Nhu cầu chiêu mộ", chúng ta đã quyết định :
Chứng tá, lời mời gọi đầu tiên

Đường hướng hành động 8

Can đảm và hân hoan làm chứng cho vẻ đẹp của đời sống thánh hiến hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa trong sứ mệnh giới trẻ.

Ơn gọi dấn thân tông đồ

Đường hướng hành động 9

Khơi dậy nơi người trẻ quyết tâm dấn thân tông đồ vì Nước Thiên Chúa, với lòng đam mê da mihi animas cetera tolle, và cổ võ việc đào luyện của họ.
Đồng hành với các ứng sinh của đời sống thánh hiến Salêdiêng

Đường hướng hành động 10

Minh nhiên đề xuất đời thánh hiến Salêdiêng và cổ võ những hình thức mới của việc đồng hành ơn gọi và đệ tử viện.
Hai hình thức của ơn gọi thánh hiến Salêdiêng

Đường hướng hành động 11

Cổ võ tính bổ sung và chuyên biệt của hai hình thức thuộc cùng một ơn gọi Salêdiêng duy nhất, đảm nhận và canh tân nỗ lực cổ võ ơn gọi Salêdiêng sư huynh.
Về chủ đề “Nghèo khó Phúc âm”, chúng ta đã quyết định :
Chứng tá cá nhân và cộng thể

Đường hướng hành động 12

Cống hiến chứng tá khả tín và can đảm về đức khó nghèo Phúc âm, được cá nhân và cộng thể sống theo tinh thần Da mihi animas cetera tolle.
Liên đới với người nghèo

Đường hướng hành động 13

Phát triển nền văn hóa liên đới với người nghèo trong bối cảnh địa phương.
Quản trị các tài sản với tinh thần trách nhiệm và liên đới

Đường hướng hành động 14

Quản trị các tài sản với tinh thần trách nhiệm, trong sáng, phù hợp với mục tiêu của sứ mệnh, bằng cách thực hiện những hình thức kiểm soát cần thiết trên cấp địa phương, tỉnh dòng và thế giới.
Về chủ đề “Những biên cương mới”, chúng ta đã quyết định :
Ưu tiên chính : thanh thiếu niên nghèo khổ

Đường hướng hành động 15

Thực hiện những lựa chọn can đảm vì lợi ích của thanh thiếu niên nghèo khổ và gặp nguy hiểm.
Những ưu tiên khác : gia đình, truyền thông xã hội, Âu Châu

Đường hướng hành động 16

Trong mục vụ giới trẻ, ưu tiên đảm nhận sự quan tâm đối với gia đình; tăng cường sự hiện diện giáo dục trong thế giới truyền thông; tái phát động đoàn sủng Salêdiêng tại Âu châu.
Các mô hình mới trong việc điều hành các công cuộc

Đường hướng hành động 17

Duyệt lại mô hình điều hành các công cuộc để sự hiện diện giáo dục và Phúc âm hoá hữu hiệu hơn

Nhắc đến hướng hành động của TTN 26 trong bài diễn văn kết thúc này là nhằm nhấn mạnh việc chúng cần phải được đón nhận và "hội nhập" vào văn hoá của Miền và của từng Tỉnh dòng. Chúng sẽ là "những sứ điệp thực tiễn" của TTN 26, cần phải được học hỏi và diễn dịch trên bình diện mục vụ trong những bối cảnh khác nhau, xác định những tiêu chuẩn để lượng định và các yếu tố lượng giá.

Giờ đây, tôi sẽ nói một vài điều về "Kế hoạch Âu châu".

Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta ý thức rằng sự hiện diện của chúng ta tại Âu châu cần phải được suy nghĩ lại. Suy nghĩ này đã được tôi nói đến trong diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha nhân dịp buổi tiếp kiến ngài ban cho các thành viên TTN 26--là "nhằm xác định lại chiều kích sự hiện diện Salêdiêng để có thể tác động hữu hiệu hơn trong đại lục này. Nghĩa là, phải tìm kiếm một hình thức rao giảng tin mừng mới nhằm đáp ứng được nhu cầu thiêng liêng và đạo đức của những người trẻ này, mà đối với chúng ta, họ là những người lang thang không định hướng và không có ai hướng dẫn."

Vì thế đây là vấn đề làm tươi trẻ lại nhân sự Salêdiêng tại những tỉnh dòng cần thiết nhất để làm cho đoàn sủng Salêdiêng được thêm ý nghĩa và hữu hiệu tại Âu Châu ngày nay. Vì thế, tôi muốn nói rõ là :

- Đây là kế hoạch của toàn Tu Hội.

- Kế hoạch này xin mọi Miền và tỉnh dòng gửi nhân sự đến.

- Để củng cố các cộng đoàn, được mời gọi trở thành liên văn hoá và làm cho Don Bosco hiện diện với người trẻ, đặc biệt những em nghèo khổ hơn, những em bị bỏ rơi, gặp nguy hiểm;

- Toàn bộ tiến trình nhằm truyền giáo này được phối hiệp giữa ba Ban ngành.

Kế hoạch này rõ ràng là sẽ đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu trong các cộng thể của Cựu Đại Lục này. "Rượu mới trong bầu da mới."Vì thế, đây không phải là việc đơn thuần duy trì các cơ cấu nhưng là một kế hoạch mới nhằm diễn tả một sự hiện diện mới, gần gũi người trẻ ngày hôm nay. Chúng ta tiến bước với trái tim của Don Bosco, đầy đam mê Thiên Chúa và thanh thiếu niên, để cộng tác vào việc xây dựng một xã hội Châu Âu mới, để nó thực sự có cái "hồn", để nó có thể tìm lại được cội rễ thiêng liêng và văn hoá sâu xa của mình, để trên bình diện xã hội, nó dành chỗ và cung ứng những cơ hội đồng đều cho các đề xuất giáo dục và văn hoá, mà không kỳ thị hay có những quyết định khai trừ ai đó khỏi xã hội.

Trong số các ưu tiên, tôi đề ra những điều quan trọng hơn cả là:

- Hình thành những hiện diện mới nơi người trẻ.

- Khuyến khích những đề xuất đầy sức năng động và mới mẻ.

- Cổ võ ơn kêu gọi.

Tất cả những điều này nên giúp anh em Salêdiêng đang làm việc trong bối cảnh này đạt được một lối suy nghĩ ngày càng mang tính Âu châu hơn, củng cố sự hiệp lực giữa các Tỉnh dòng trong những lảnh vực khác nhau và tại củng cố lại sự cộng tác trên cấp Miền.

4. Hướng tới Đệ Nhị Bách Chu Niên Sinh Nhật Don Bosco :

Tu Hội trở về với Don Bosco để khởi phát lại từ ngài

Don Bosco sẽ làm gì trong ngày hôm nay? Chúng ta không biết! Nhưng chúng ta biết ngài đã làm gì trong quá khứ và vì thế chúng ta có thể biết được phải làm gì để có thể hành động giống như ngài trong ngày hôm nay. Đó là vấn đề hiểu biết và noi gương.

Chúng ta đã nhấn mạnh trong Tổng Tu nghị này là tuyệt đối không thể thiếu được là phải chiêm ngắm Don Bosco, yêu mến ngài, hiểu biết ngài và noi gương ngài, để có thể khám phá những động lực sâu xa thôi thúc ngài, những động lực từ đó ngài rút ra được năng lực để ngài làm việc không mỏi mệt cho giới trẻ; những xác tín cá nhân hết sức vững chắc khiến ngài không hề lùi bước nhưng còn làm cho ngài càng thêm hấp dẫn và đầu thuyết phục: những mục tiêu được xác định hết sức rõ ràng của ngài, làm cho ngài tiến bước, chỉ vì một lẽ sống duy nhất: thấy con cái mình được hạnh phúc bây giờ và mãi mãi.

Don Bosco cảm nhận thảm cảnh của một dân tộc đang rời xa đức tin và trên hết, ngài cảm nhận thảm cảnh của giới trẻ là giới mà Đức Giêsu đã đặc biệt yêu mến; họ đang bị bỏ rơi và các lý tưởng và khát vọng bị phản bội do những chính trị gia, kinh tế gia và ngay cả do Giáo Hội nữa. Tôi tự hỏi liệu tình trạng này có khác mấy hiện trạng chúng ta xác nhận trong Tổng Tu Nghị này hay không.

Vậy khi đối diện với tình trạng như thế, Don Bosco đã đáp lại một cách mãnh liệt, tìm ra những phương cách mới đối lại sự dữ. Chống lại những lực lượng sự xấu trong xã hội, bài bác lối sống hai mặt và nguy hiểm của tình trạng này, và theo cách của ngài, ngài "thách thức" những lực lượng sự xấu trong thời của mình. Đó chính là ý nghĩa của việc có được một tâm trí và cõi lòng mục tử.

Lưu ý đến những nhu cầu này, ngài tìm cách đáp trả với những khả năng ngài có được do hoàn cảnh lịch sử-văn hoá và do tình trạng kinh tế thời của ngài, dầu rằng vẫn có vài người trong giáo quyền, trong chính quyền và giáo dân chống đối. Như thế, ngài đã thành lập các nguyện xá, trường học các loại, xưởng thợ, báo chí và tạp chí, nhà in và nhà xuất bản, các hội đoàn tôn giáo, văn hoá, giải trí và hội họp cho người trẻ; ngài xây nhà thờ, cổ võ việc truyền giáo "nước ngoài", các hoạt động hỗ trợ những di dân; ngài thành lập hai hội dòng tu sĩ, và một hiệp hội giáo dân để tiếp tục công cuộc của ngài.

Ngài thành công nhờ những tài năng xuất chúng của mình như là một nhà truyền thông bẩm sinh, dù có thiếu thốn khả năng tài chánh (luôn luôn thiếu hụt trước những công trình ngài thành lập), dù bối cảnh văn hoá và tri thức khiêm tốn của mình (vào thời điểm đòi có những học vị cao cấp), và dù có thừa hưởng một nền thần học và một quan điểm về xã hội đầy những hạn chế (và vì thế mà không đáp trả được tiến trình trần thế hoá và cuộc cách mạng xã hội đang diễn ra). Luôn luôn được đức tin mạnh mẽ thôi thúc trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, ngài tìm kiếm và nhận được sự trợ giúp từ hết mọi người, Công giáo hay người chống hàng giáo sĩ, người giầu, người nghèo, người quyền thế và giầu có, giới quý tộc, giới trung lưu, và cả hàng giáo sĩ cấp cao hay cấp dưới.

Tuy nhiên, hơn là nơi những "công cuộc" đa dạng và nơi một số yếu tố phương pháp luận tương đối là độc đáo, cần phải tìm thấy ý nghĩa về mặt lịch sử của Don Bosco nơi nhận thức và cảm nhận về vấn đề giới trẻ bị bỏ rơi kéo theo những hệ quả luân lý và xã hội;

* nơi trực giác về cảm thức rất mạnh trong xã hội dân sự và rồi trong thế giới "chính trị", trước tiên là tại Tôrinô, nước Italia, về vấn đề giáo dục giới trẻ, và cách hiểu về vấn đề này nơi một số bộ phận quần chúng;

* nơi quan niệm ngài phổ biến về bổn phận phải can thiệp trên tầm mức rộng lớn trong giới Công giáo và xã hội dân sự, như là lời đáp trả cần phải có cho đời sống của Giáo Hội và việc duy trì trật tự xã hội công cộng;

* và nơi khả năng thông truyền quan niệm này cho vô số cộng sự viên, ân nhân và những người hâm mộ.

Ngài không phải là một chính trị gia, cũng không là một nhà xã hội học, hay một người đấu tranh nghiệp đoàn xuất hiện trước thời đại, ngài đơn thuần chỉ là một linh mục-nhà giáo dục. Don Bosco đã khởi sự từ quan niệm cho rằng giáo dục có thể làm được rất nhiều việc, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nếu như giáo dục được đảm nhận với đầy thiện chí, quyết tâm và khả năng thích ứng. Ngài nhằm thay đổi lương tâm, dậy dỗ lương tâm ấy hướng tới nhân phẩm, trách nhiệm dân sự và chính trị, và từ nhãn giới này, ngài tìm cách "thay đổi" xã hội qua giáo dục.

Ngài biến cải các giá trị vững chắc ngài xác tín--và bảo vệ chống lại mọi vi phạm--thành sự kiện xã hội, thành những hành vi thực tiễn mà không rút lui vào bình diện thiêng liêng hay nhà thờ, đuợc hiểu như là nơi chốn hay kinh nghiệm thoát ly khỏi những vấn đề của thế giới hay của cuộc đời. Đúng hơn, thật vững vàng trong ơn gọi là một linh mục nhà giáo dục, ngài dấn thân hoàn toàn cho hoạt động hàng ngày với những chân trời nhất định là sự nhập thể các giá trị và lý tưởng; đó không phải là một nơi trú ẩn cũng như không phải là việc khước từ đối thoại công khai, nhưng là việc chân thành xem xét một tình trạng rộng lớn vô cùng khác biệt; đó không phải là việc loại trừ mọi căng thẳng, những hy sinh vất vả vì phải liều lĩnh hay phải đấu tranh. Ngài dành cho ngài và anh em Salêdiêng của ngài sự tự do và niềm hãnh diện được tự lập. Ngài không muốn gắn kết số phận công cuộc của ngài vào những biến động của các chế độ chính trị không lường trước được.

Vào thập niên tám mươi thế kỷ vừa qua, nhà thần học nổi tiếng người Pháp, cha Marie-Dominique Chenu, khi trả lời cho một phóng viên hỏi về danh tánh của một vài vị thánh đã để lại một sứ điệp đầy ý nghĩa cho thời đại này, cha đã trả lời không hề do dự: Trước tiên tôi muốn nghĩ đến một nhân vật đi trước Công đồng cả một thế kỷ: đó là Don Bosco. Nói theo kiểu ngôn sứ, ngài là con người thánh thiện mẫu mực vì công cuộc của ngài, tách khỏi lối suy nghĩ và tin tưởng của những người đồng thời với ngài."

Ngài là mẫu mực cho nhiều người; rất nhiều người theo gương ngài và đến lượt mình trở thành "Don Bosco ở Bergamo, ở Bologna, ở Messina, v. v. . ."

Hiển nhiên mỗi người có thể tìm thấy "bí quyết" "thành công" của ngài qua một trong những diện mạo nhân cách của ngài: một nhà quản trị tài năng các công cuộc giáo dục, một nhà tổ chức có tầm nhìn những công trình quốc gia và quốc tế, một nhà giáo dục tài giỏi, một nhà giáo vĩ đại v. v. . . Đây chính là mẫu mực chúng ta có và chúng ta được mời gọi tái hiện lại một cách trung thành bao có thể!



5. Kết luận

Anh em hội viên thân mến, chúng ta đã cử hành TTN 26 trong mùa Chay và Phục Sinh. Như vậy, Chúa mời gọi chúng ta nhìn nhận rằng chúng ta cần đến kinh nghiệm Phục sinh, nếu chúng ta muốn có được sự tái sinh thiêng liêng và canh tân lại lòng nhiệt thành tông đồ chúng ta khao khát. Không cuộc sống nào lại không phải chết đi. Không có thần nghiệm "Da mihi animas" lại không có tu đức "cetera tolle".

Cha muốn kết thúc bằng cách một lần nữa nhắc lại kinh nghiệm riêng của Don Bosco. Vào mùa Hè năm 1846, ngài lâm bệnh và có nguy cơ qua đời. Sau một vài tuần lễ, ngài thoát khỏi cơn bệnh và khi hồi sức, ngài đã có thể chống gậy trở lại Nguyện Xá. Thanh thiếu niên thấy vậy, đặt ngài lên một ghế bành, nâng ngài lên và cung nghinh ngài khắp sân. Trong nhà nguyện, sau khi đọc kinh cám ơn, Don Bosco phát biểu những lời long trọng và quyết liệt nhất trong đời của ngài: "Chúng con thân mến. Cha mắc nợ chúng con cuộc đời của cha. Nhưng chúng con có thể chắn chắn điều này là: từ giờ trở đi, cha sẽ dành hết cuộc đời của cha cho chúng con."47 Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Don Bosco như thể làm một lời khấn mới vậy: khấn sống đức ái tông đồ, trao phó hoàn toàn cuộc đời mình cho thanh thiếu niên, lời khấn mà sau này ngài sẽ tuân giữ trong mọi ngày. Đó chính là ý nghĩa của câu châm ngôn "Da mihi animas, cetera tolle", là chủ đề soi sáng cho Tổng Tu Nghị này. Vậy đây chính là chương trình tương lai chọ sự tái sinh thiêng liêng và cho lòng nhiệt thành tông đồ mà chúng ta muốn đạt tới trong dịp kỷ niệm đệ nhị bách chu niên ngày sinh của ngài.

Tôi hy vọng rằng, chúng ta và tất cả những ai cùng tâm huyết với chúng ta về các giá trị thuộc Linh đạo Salêdiêng và Hệ Thống Giáo Dục Salêdiêng có thể yêu mến thanh thiếu niên và quyết tâm như Don Bosco thực thi sứ mệnh Salêdiêng. Tôi hy vọng rằng thanh thiếu niên có thể bắt gặp được nơi mỗi nguời chúng ta (như các thanh thiếu niên ở Valdocco đã gặp nơi Don Bosco) những con người sẵn sàng đồng hành với họ, cùng với họ xây dựng cho họ một sự hiện hiện giáo dục đầy hấp dẫn và ý nghĩa, những người có thể cung cấp những cửa ngõ và cách thức dấn thân đến độ tạo nên được thay đổi cả nền văn hoá.

Một biểu tượng minh hoạ đầy đủ giai đoạn lịch sử này của Tu Hội là câu truyện Êlia trao lại "áo choàng và thần khí" cho Êlisêu, môn đệ của ngài (2 V 2, 1-15). Êlia nhiều lần tìm cách đưa Elisêu đi khỏi, trước hết là ở Galgal và rồi ở Bethel và ở Giêricô, có lẽ muốn được chết một mình. Nhưng Êlisêu muốn trở thành người thừa kế tinh thần chính của ngài và ở lại với ngài. Thực vậy, tôi muốn hết mọi anh em hội viên, khi nhìn tới Don Bosco, có thể biến thành của mình khát vọng của Êlisêu là tiếp nhận hai phần ba thần khí của Êlia. Sau khi đã trở thành người thừa kế tinh thần Êlia, Êlisêu mặc lấy áo choàng của ngài và mặc lấy thần khí của vị tôn sư của mình. Êlisêu lập lại cùng một cách thức phép lạ cuối cùng của Êlia và khiến các môn đệ của các ngôn sứ đoan chắc rằng thần khí Êlia thực sự đã đến trên Êlisêu.

Về điểm này, tôi nhớ lại những lời của Đức Phaolô VI trong dịp lễ phong chân phước Don Rua. Ngài nói rằng việc phong chân phước cho Don Rua xác nhận phẩm chất Don Rua là người kế vị Don Bosco, trong tư cách là một môn sinh của người, có khả năng tiếp nhận và thông truyền tinh thần của Cha mình. Như Don Rua, rút tỉa từ gia sản của Don Bosco, chúng ta hãy sẵn lòng để Thiên Chúa hoạt động nơi chúng ta như Chúa đã hoạt động nơi ngài.

Anh em hội viên thân mến, giờ đây tôi trao cho anh em kết quả của TTN 26, trong đó anh em đã là những người chủ xướng. Thực vậy, tôi trao cho anh em một văn kiện, như là bản đồ cho hành trình sáu năm 2008-2014, nhưng trên hết, tôi trao cho anh em tinh thần của TTN 26. Tổng Tu Nghị phải là một kinh nghiệm Lễ Hiện Xuống nhằm canh tân sâu xa đời sống và sứ mệnh chúng ta. Vì vậy, đối với mọi anh em Salêdiêng, văn kiện biểu thị bệ phóng của Tu Hội trên con đường mừng Năm Thánh vĩ đại 2015.

Xin Thánh Thần thổi sức mạnh của ngài trên Tu Hội để Tu Hội một lần nữa và mãi mãi can đảm cầu nguyện cùng Don Bosco: "Da mihi anbimas, cetera tolle” (Xin Chúa cho con các linh hồn, còn mọi sự khác, xin cất đi).


Roma 12 tháng Tư năm 2008


tải về 1.17 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   14




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương