Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin



tải về 1.73 Mb.
trang5/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

3. Ý nghĩa phương pháp luận

- Quá trình phát triển không phải bao giờ cũng đi theo một đường thẳng, mà nó diễn ra quanh co, phức tạp, có nhiều chu kỳ. Chu kỳ sau tiến bộ hơn chu kỳ trước. Do đó, chúng ta phải hiểu nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy nhanh sự phát triển của nó, còn nếu có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó.

- Theo quy luật phủ định của phủ định, cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ. Điều này tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ. Chính vì thế, trong hoạt động chúng ta phải biết phát hiện cái mới và ủng hộ nó, vì cái mới ra đời thường còn non yếu, vì vậy chúng ta phải ra sức bồi dưỡng, tạo điều kiện để cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó. Trong khi đấu tranh chống lại cái cũ chúng ta phải biết chọn lọc, cải tạo cái cũ để nó phù hợp với điều kiện mới, phải biết trân trọng những giá trị của quá khứ. Đồng thời, chúng ta phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái đã già cỗi lỗi thời cản trở sự phát triển của con người và xã hội.

VII. LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1. Một số quan điểm triết học trước Mác về nhận thức

Nhận thức là gì? Con đường nhận thức diễn ra như thế nào. Con người có thể nhận thức được quy luật vận động của nó hay không? Để trả lời cho câu hỏi này, trong lịch sử triết học cũng có nhiều quan điểm trái ngược nhau:

- Thuyết hoài nghi: đại biểu là Hi – um cho rằng con người chỉ nhận thức được hiện tượng bên ngoài của sự vật, chứ không có khả năng biết đích thực được bản chất bên trong của sự vật, hiện tượng.

- Duy tâm khách quan: đại biểu là Hê - ghen thừa nhận khả năng nhận thức của con người, nhưng lại coi nhận thức là một quá trình tự nhận thức của “ý niệm tuyệt đối”. Họ cho rằng thế giới vật chất kể cả con người đều là sản phẩm của “ý niệm tuyệt đối”.

- Duy tâm chủ quan: đại biểu là Béc - cli (George Berkeley 1684-1753) coi nhận thức chỉ là tập hợp những cảm giác. Thí dụ cái bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ là do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc, nhưng chúng không có thật, tồn tại chẳng qua chỉ là cảm giác, chỉ trừ chủ thể đang nhận thức tức con người cảm giác, “cái tôi” mà thôi.

- Chủ nghĩa duy vật trước Mác: đại biểu là Phơ - bách cho rằng con người có khả năng nhận thức và làm biến đổi thế giới vật chất theo mục đích của mình, nhưng lại coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, là bản sao chép nguyên xi trạng thái bất động của sự vật mà không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, không giải thích được quá trình của nhận thức mang tính biện chứng.



2. Quan điểm của triết học Mác về bản chất của nhận thức

Trên cơ sở kế thừa và phát triển có chọn lọc của các khoa học, triết học Mác khẳng định: bản chất của nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan. Qúa trình nhận thức diễn ra theo con đường biện chứng từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tựợng, là sự phản ánh năng động, sáng tạo.

- Nhận thức là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa biết đến biết

- Tính năng động sáng tạo là trên cơ sở những cái đã có, để rồi tưởng tượng, sáng tạo ra những cái không có trong hiện thực nhằm để thoả mãn những nhu cầu của con người.

- Nhận thức được bắt nguồn từ thực tiễn, trước hết là thực tiễn hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động đấu tranh chính trị làm biến đổi xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Chính vì vậy Lênin viết: thực tiễn là mục đích, là cơ sở, là động lực của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lý.

3. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

a. Khái niệm: thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

- Thực tiễn rất đa dạng, nhưng có ba hình thức cơ bản sau đây:

+ Một là, hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.

+ Hai là, hoạt động cải biến chính trị xã hội.

+ Ba là, hoạt động quan sát thực nghiệm khoa học.

- Trong ba lĩnh vực trên thì hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là dạng hoạt động cơ bản nhất đối với nhận thức. Bởi vì trong lao động sản xuất mà không nhận thức được các quy luật vận động của hiện thực khách quan thì không thể sản xuất ra của cải vật chất được con người sẽ chết đói, xã hội cũng không thể tồn tại phát triển được và suy cho cùng thì các dạng hoạt động thực tiễn khác như hoạt động chính trị, hoạt động khoa học nghệ thuật, tôn giáo cũng đều từ lao động sản xuất mà ra và cũng chỉ nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất, do đó các lĩnh vực này đều có mối liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, vì vậy nhận thức bao giờ cũng mang tính lịch sử – xã hội.



b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

- Thực tiễn là mục đích của nhận thức:

Thực tiễn là tất cả những gì xung quanh chúng ta, có liên quan tới cuộc sống của con người, kể cả tự nhiên và xã hội, vì vậy chúng đều là đối tượng nhận thức của con người, nếu con người nhận thức được các quy luật vận động của chúng thì hành động mới thành công, còn nếu nhận thức sai lầm sẽ thất bại.

- Thực tiễn là động lực của nhận thức:



Thực tiễn cuộc sống luôn luôn vận động và đặt ra những vấn đề buộc con người phải tìm cách giải quyết, chẳng hạn như vấn đề lương thực, thực phẩm, năng lượng, dân số, xung đột sắc tộc, khủng bố, chạy đua vũ trang, chiến tranh hủy diệt, xung đột tôn giáo, và những căn bệnh hiểm nghèo của thời đại…Những vấn đề đó đặt ra buộc con người phải suy nghĩ, phải tìm cách nhận thức, nếu không nhận thức được thì con người, xã hội loài người sẽ không phát triển được. Chính vì vậy mà các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên nối tiếp nhau ra đời ngày càng cao hơn, hiện đại hơn… giúp cho con người tiếp tục khám phá những bí ẩn của thế giới thuận lợi hơn.

- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:

Chính vì nhu cầu ăn, ở, mặc mà con người không ngừng phải khám phá, chinh phục và cải tạo thế giới, và thông qua hoạt động ấy mà con người dần dần nhận thức được các đặc tính, các thuộc tính, các quy luật vận động của các sự vật hiện tượng. Vì vậy, con người càng đi sâu khám phá thế giới thì thực tiễn càng cung cấp thêm những kinh nghiệm tạo điều kiện cho nhận thức phát triển. Do đó, không có hoạt động thực tiễn, thì không có nhận thức, không có lí luận, không có khoa học. Đồng thời thông qua lao động mà các giác quan của con người, đặc biệt là bộ óc không ngừng hoàn thiện, tạo điều kiện cho nhận thức chính xác hơn.

- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:

Có thể nói toàn bộ kiến thức của nhân loại đều được tổng kết từ thực tiễn. Những kiến thức đó được phổ biến bằng trực tiếp, hay gián tiếp cho người khác, cho đời sau. Nhưng để biết được nhận thức nào đúng hay sai thì không có con đường nào khác là phải đưa trở về với thực tiễn để kiểm nghiệm, nếu giữa lý luận và thực tiễn phù hợp thì đó là chân lí. Đồng thời cũng qua thực tiễn để tiếp tục bổ sung thêm vào những nhận thức trước đó. Ngoài thực tiễn ra thì không còn đường nào khác để kiểm tra nhận thức và chỉ có thông qua thực tiễn mới kiểm tra được nhận thức có phản ánh đúng hay không. Tuy nhiên cũng có những trường hợp không nhất thiết phải trải qua thực tiễn mới biết được nhận thức đúng hay sai, mà người ta có thể thông qua những tiêu chuẩn của lôgíc, tức là theo những quy tắc lôgíc để chứng minh. Song suy đến cùng những quy tắc ấy cũng đã được chứng minh trong thực tiễn thì mới trở thành tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức của con người. Cho nên xét đến cùng thì thực tiễn vẫn là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức.

4. Hai giai đoạn của quá trình nhận thức

Lênin viết: con đường biện chứng của quá trình nhận thức đúng đắn là phải “Đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng”.



a. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)

- Là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức:

+ Cảm giác: là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật hiện tượng khi chúng đang tác động vào các giác quan của con người.

+ Tri giác: là hình ảnh tương đối trọn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan, nó là sự tổng hợp của nhiều cảm giác.

+ Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai đoạn trực quan, tương đối hoàn chỉnh được lưu lại trong bộ óc về một sự vật nào đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan của con người (p/a gián tiếp)

- Đặc điểm của nhận thức cảm tính. Nó là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, sinh động của hiện thực. Song mới chỉ bề ngoài của sự vật, chưa phân biệt được cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên, chưa đi được vào bản chất, quy luật của sự vật. Vì vậy nhận thức tất yếu phải phát triển lên giai đoạn cao hơn, g.đoạn : tư duy trừu tượng.



b. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)

- Là giai đoạn phản ánh gián tiếp trừu tượng. Nó được thực hiện bằng các hình thức như: Khái niệm - Phán đoán - Suy luận

+ Khái niệm được hình thành là dựa trên cơ sở tài liệu của cảm tính và phải trải qua quá trình so sánh phân tích tổng hợp, trừu tựơng hoá, khái quát hoá để tìm ra các mối liên hệ chung, bản chất của sự vật. Ví dụ: vật chất tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau nhưng chúng đều có thuộc tính chung là tồn tại khách quan và vận động

+ Phán đoán: là sự liên kết của nhiều khái niệm để khẳng định hay phủ định một hay nhiều thuộc tính của sự vật, nếu khái niệm được biểu hiện bằng “từ” thì phán đoán được biểu hiện bằng mệnh đề, theo luật văn bản. Ví dụ: dân tộc ta là một dân tộc cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh. Bản chất của chủ nghĩa đế quốc là hiếu chiến.

+ Suy luận: là dựa vào những phán đoán cũ để đưa ra một phán đoán mới có tính chất kết luận, đưa tới một sự hiểu biết mới. Ví dụ: muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì phải củng cố và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nếu từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì không thể nói đến việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Như vậy suy lý nó cho phép con người có thể đi sâu vào những vấn đề mà con người không thể trực tiếp tiếp xúc được, nó cho chúng ta biết được không những cái đã và đang xảy ra, mà nó còn có thể dự đoán được những cái sẽ xảy ra.

Đặc điểm của nhận thức lý tính là phản ánh gián tiếp, khái quát, trừu tượng; phản ánh được bản chất, quy luật của sự vật, là nhận thức đáng tin cậy, gần với chân lý khách quan. Từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính là sự thay đổi về chất, là bước nhảy vọt của quá trình nhận thức. Muốn nhận thức đúng phải có những tài liệu do nhận thức của cảm tính cung cấp đầy đủ, chính xác và phải gắn với hoạt động thực tiễn, phải dựa vào kết quả của thực tiễn để bổ sung, kiểm tra nhận thức mới.

c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính

- Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về trình độ phản ánh, hình thức phản ánh và phương thức phản ánh hiện thực khách quan, song chúng có mối liên hệ biện chứng mật thiết với nhau.

+ Nhận thức cảm tính là tiền đề, là điều kiện không thể thiếu được của giai đoạn nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng). Nhưng một khi nhận thức lý tính đã được hình thành, nó sẽ tác động trở lại, và hướng dẫn nhận thức cảm tính nhạy bén hơn, hành động chính xác hơn.

Tóm lại: muốn nhận thức đúng đắn về một sự vật nào đó, trước hết phải có những tài liệu ban đầu do nhận thức của cảm tính mang lại. Nhận thức phải bắt nguồn từ thực tiễn, nếu tách rời nhận thức cảm tính với nhận thức lý tính và ngược lại đều là sai lầm sẽ dẫn đến những hậu quả xấu trong nhận thức và hành động. Trong thực tiễn, sai lầm về vấn đề này thường biểu hiện ở hai căn bệnh là chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Người mắc bệnh kinh nghiệm thường ngại học tập lý luận, coi thường lý luận, dốt về lý luận. Còn người mắc bệnh giáo điều thì tách rời lý luận với thực tiễn, không điều tra nghiên cứu, không xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh cụ thể, coi thường kinh nghiệm của quần chúng, chỉ bám lấy trong sách vở, áp dụng máy móc. Trong thực tế, nếu nơi nào, lúc nào để cho chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa giáo điều thâm nhập vào sẽ dễ mắc sai lầm, gây lãng phí sức người sức của .



d. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận

Có hai loại nhận thức kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm được hình thành một cách tự phát, do tiếp xúc hằng ngày với thực tiễn cuộc sống, nhận thức kinh nghiệm thu nhận từ sự khảo sát ở các thí nghiệm. Giữa nhận thức thông thường và nhận thức từ sự khảo sát có quan hệ chặt chẽ với nhau bổ sung cho nhau, tức là từ thực tiễn người ta phải đưa vào phòng thí nghiệm để có được tri thức mới, rồi từ phòng thí nghiệm lại đưa ra áp dụng ở bên ngoài.

Nhận thức lý luận, được hình thành một cách tự giác và gián tiếp, nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật dưới dạng trừu tượng lôgic được thể hiện bằng các khái niệm, quy luật, định luật có tính hệ thống, được sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức lý luận chính xác hơn, có hệ thống hơn, nó có vai trò ngày càng lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học công nghệ hiện đại ngày nay.

5. Vấn đề chân lý và tiêu chuẩn của chân lý

a. Khái niệm chân lý

- Vấn đề chân lý cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau .

+ Thuyết ngụy biện xem chân lý là có lợi cho mình.

+ Chủ nghĩa Phát Xít coi chân lý thuộc về kẻ mạnh.

- Bác bỏ những quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.

b. Các tính chất của chân lý

Chân lý không phải là sản phẩm chủ quan của con người mà nó do thế giới khách quan quy định. Ví dụ: Trái Đất quay quanh mặt trời.

- Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý:

+ Chân lý tuyệt đối là tri thức hoàn toàn đúng và đầy đủ. Ví dụ: nước có hai nguyên tử hydro, một nguyên tử oxy.

+ Chân lý tương đối nói lên nhận thức của con người chưa hoàn toàn đầy đủ, mà cần phải được bổ sung theo sự vận động của thực tiễn, hoặc nó chỉ đúng ở một giai đoạn, hoặc ở một thời điểm nào đó.

- Tính cụ thể của chân lý là nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có nội dung nhất định. Nội dung đó không phải là trừu tượng thuần túy thoát ly hiện thực mà luôn gắn liền với một đối tượng xác định diễn ra trong một không gian, thời gian hay hoàn cảnh nào đó trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy bất cứ chân lý nó cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể thì tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi vào trừu tượng thuần túy.



6. Các phương pháp nhận thức khoa học

a. Phương pháp là gì?

Phương pháp là một hệ thống các nguyên tắc, các phạm trù, các quy luật, các quy tắc, các định nghĩa để hướng dẫn hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người, nhưng bản thân những quy luật, quy tắc, phạm trù chưa phải là phương pháp, mà chỉ khi nào lý luận hướng dẫn cho hành động thì khi đó lý luận mới trở thành phương pháp. Có nhiều phương pháp khác nhau. Có phương pháp riêng cho từng lĩnh vực, từng ngành khoa học chuyên môn, có phương pháp chung được phổ biến và áp dụng cho nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Ví dụ: phương pháp toán học không chỉ sử dụng trong toán học mà còn dùng trong cả vật lý, hóa học, kinh tế học v.v… và có phương pháp chung nhất, được áp dụng cho mọi lĩnh vực khoa học, mọi hoạt động thực tiễn, phương pháp triết học Mác - Lênin.

Quan hệ giữa phương pháp triết học với các phương pháp của khoa học cụ thể tuy khác nhau về nội dung, nhưng là mối liên hệ biện chứng và mỗi phương pháp nó có vị trí nhất định, do đó không thể coi các phương pháp là ngang bằng nhau hoặc thay thế lẫn nhau. Vì vậy mỗi người chúng ta, dù hoạt động bất kỳ trong lĩnh vực chuyên môn nào cũng phải nắm vững không chỉ phương pháp riêng mà cần phải nắm vững phương pháp của triết học Mác - Lênin, là phương pháp luận chung nhất giúp chúng ta định hướng đúng đắn trên con đường đi tới chân lý khách quan và hoạt động thực tiễn có hiệu quả.

Phương pháp biện chứng hoàn toàn đối lập với phương pháp siêu hình trên tất cả mọi vấn đề. Phương pháp siêu hình xem xét sự vật hiện tượng một cách cô lập tách rời, không thấy được mối liên hệ, vận động và phát triển của sự vật. Phương pháp biện chứng duy vật đòi hỏi phải xem xét sự vật một cách toàn diện, phải tính đến mối liên hệ phổ biến và sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự vật và hiện tượng, phải vạch ra toàn bộ những quan hệ năng động, linh hoạt, không cứng nhắc một chiều, có như thế mới phản ánh được đời sống sinh động. Phải chống lại lối suy nghĩ máy móc, phiến diện, có tính chất hình thức chủ nghĩa, chỉ dừng lại ở kết cấu hình thức của tư tưởng mà không đi sâu vào phân tích mâu thuẫn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật.



b. Một số phương pháp nhận thức khoa học

Phương pháp thu nhận tri thức kinh nghiệm:

Tri thức kinh nghiệm được chia làm hai dạng sau đây:



Một là, từ trong lao động sản xuất bằng quan sát mà người ta thu nhận tích luỹ được những kinh nghiệm.

Hai là, tri thức thu nhận được đã có chủ định từ trước từ các cuộc thí nghiệm, phương pháp này có sử dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật trợ giúp để khám phá các thuộc tính của sự vật, mà trong điều kiện bình thường không thể tìm được. Ngày nay thí nghiệm đang được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực khoa học.

Các phương pháp xây dựng và phát triển lý thuyết khoa học:

- Phương pháp phân tích và tổng hợp:

+ Phân tích là phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận nhỏ để đi sâu nhận thức các bộ phận đó.

+ Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích lại nhằm nhận thức cái toàn bộ.

+ Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp nhận thức khác nhau song lại biện chứng với nhau, cho nên không được tách rời phân tích và tổng hợp hoặc cường điệu phương pháp này coi nhẹ phương pháp kia.

- Phương pháp quy nạp và diễn dịch:

+ Phương pháp quy nạp (suy lý, suy luận) là quá trình quan sát một loạt những sự vật riêng lẻ để rút ra được một kết luận chung. Nó có vai trò khám phá ra tính quy luật của các sự vật hiện tượng, nhưng nó có hạn chế là theo lối liệt kê cho nên có một số hiện tượng được rút ra lại không liên quan gì đến bản chất của sự vật hiện tượng cần nghiên cứu, phương pháp quy nạp cũng còn một hạn chế nữa là nó chưa thể xác định được các thuộc tính nào là tất nhiên hay ngẫu nhiên, do đó để khắc phục tính hạn chế của phương pháp này thì cần phải bổ sung phương pháp diễn dịch.

+ Phương pháp diễn dịch là quá trình vận dụng nguyên lý chung để xem xét cái riêng, rút ra kết luận riêng từ nguyên lý chung đã biết. Tuy nhiên muốn rút ra kết luận bằng con đường diễn dịch thì tiền đề phải đúng, phải tuân theo các quy tắc lôgíc và lịch sử.

- Phương pháp lịch sử và lôgíc:

+ Phương pháp lịch sử là nói lên mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình sinh ra, phát triển và diệt vong. Mọi sự vật hiện tượng đều có tính lịch sử. Ý thức, tư tưởng cũng có lịch sử của mình với tính cách là lịch sử của quá trình phản ánh.
+ Phương pháp Lôgíc (suy luận đúng đắn) có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất nó chỉ tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật. Nghĩa thứ hai nó chỉ mối liên hệ giữa sự phản ánh của thế giới khách quan vào bộ óc con người, được tái tạo dưới dạng hình ảnh tinh thần theo một trật tự của các khái niệm, phạm trù, lý thuyết.

Phương pháp lôgíc vạch ra bản chất tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật dưới hình thức lý luận trừu tượng và khái quát. Bắt đầu từ khởi điểm của lịch sử và phải tập trung nghiên cứu sự vật dưới hình thức phát triển hoàn thiện và chín muồi nhất của nó. Nói cách khác “lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy bắt đầu từ đó và sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực cung cấp, hơn nữa mỗi nhân tố đều có thể được xem xét ở cái điểm phát triển đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới hình thức cổ điển của nó”.

So với phương pháp lịch sử thì phương pháp lôgíc có ưu thế ở chỗ nó không những phản ánh bản chất, tính tất nhiên, quy luật của sự vật mà cịn phản ánh được lịch sử phát triển của sự vật (một cách tóm tắt, khái quát trên những giai đoạn chủ yếu). Phương pháp lôgíc có khả năng kết hợp trong mình hai yếu tố của sự nghiên cứu. Nghiên cứu kết cấu của sự vật cùng với hiểu lịch sử của sự vật đó trong sự thống nhất chặt chẽ của chúng phương pháp lôgíc có vai trò to lớn trong các khoa học lý thuyết.

Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là hai phương pháp khác nhau, nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau, gắn bó chi phối nhau. Bởi vì muốn hiểu biết bản chất, quy luật của sự vật thì phải hiểu đươc lịch sử phát sinh, phát triển của nó và có nắm được bản chất quy luật của sự vật thì mới nhận thức được tính lịch sử của sự vật đúng đắn và sâu sắc. Trong thực tế tùy theo đối tượng nghiên cứu và yêu cầu cụ thể mà người ta sử dụng phương pháp lịch sử hay lôgíc và dù trong trường hợp nào cũng phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lôgíc và lịch sử nếu thiếu lôgíc là mù quáng, còn lôgíc thiếu lịch sử thì dễ rơi vào chủ quan.

Từ trừu tượng đến cụ thể: nhận thức là sự thống nhất của hai quá trình từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng trở về cụ thể. Theo quá trình thứ nhất, nhận thức phải xuất phát từ những tài liệu cảm tính, qua phân tích để rút ra những khái niệm, những định nghĩa trừu tượng phản ánh từng mặt, từng thuộc tính của sự vật. Trong quá trình này toàn bộ đối tượng đã được trừu tượng hoá, quá trình thứ hai, nhận thức trừu tượng lại dùng để mô tả lại cái cụ thể bằng con đường tư duy. Mác coi con đường đi từ trừu tượng đến cụ thể là phương pháp nhận thức khoa học. Tuy nhiên không phải cái trừu tượng nào cũng là khâu xuất phát, mà cái trừu tượng xuất phát phải là cái phản ánh những mối quan hệ phổ biến tất yếu, bản chất, những quy luật vận động, phát triển của nó.


Chương III

CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ


  1. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT

1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó

- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.

- Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn tiến hành sản xuất vật chất nhằm tạo ra các tư liệu sinh hoạt, thỏa mãn nhu cầu ngày càng phong phú, đa dạng.

- Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, đồng thời con người cũng sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội, làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội và bản thân. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại, phát triển xã hội, vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội trong nền sản xuất vật chất.

2. Khái niệm phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là cách thức con người sử dụng công cụ lao động để sản xuất ra của của cải vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.

Phương thức sản xuất bao gồm : Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

a. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất ; thể hiện năng lực thực tiễn của con người



- Lực lượng sản xuất bao gồm hai yếu tố :

+ Con người: Người lao động với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động (trước hết là công cụ lao động) tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.

+ Công cụ lao động: Công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người.

b. Quan hệ sản xuất

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt :



  • Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất

  • Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất

  • Quan hệ phân phối sản phẩm

Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm xã hội cũng như các quan hệ khác.

Lịch sử nhân loại đã chứng kiến có hai loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.



+ Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số người, còn đại đa số không có tư liệu sản xuất. Tính chất của quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quy định quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị thống trị.

+ Còn sở hữu xã hội là loại hình sở hữu trong đó, tư liệu sản xuất thuộc về tất cả thành viên của cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất cũng trực tiếp tác động đến sản xuất, nó do quan hệ sở hữu quyết định. Quan hệ phân phối sản phẩm gắn liền với lợi ích của người lao động, nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.




tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương