Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin



tải về 1.73 Mb.
trang7/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   20

+ Kế thừa những yếu tố hợp lý, đồng thời khắc phục những mặt hạn chế trong các học thuyết về giai cấp. Mác đã trình bày quan điễm của mình về giai cấp trong bức thư gửi cho Iôxíp Vâyđơmayơ ngày 5-3-1853:

1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất.

2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản.

3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới xã hội không có giai cấp.”

Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp trong điều kiện mới, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp:

Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” .

- Theo định nghĩa về giai cấp của Lênin:

+ Giai cấp là những tập đoàn người khác nhau về địa vị trong hệ thống xã hội là do sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

+ Từ chỗ khác nhau về địa vị và sở hữu những tư liệu sản xuất mà dẫn đến sự khác nhau của của họ về vai trò tổ chức, quản lý sản xuất, quản lý xã hội, cũng như sự khác nhau về phương thức, quy mô thu nhập.

Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau về sở hữu tư liệu sản xuất quyết định nhất tập đoàn người nào nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội, tất yếu nắm quyền tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm.

Trong các xã hội có giai cấp, ngoài giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị, còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Bộ phận này không có vị trí cơ bản trong phương thức sản xuất, thường bị phân hóa.

- Khái niệm tầng lớp xã hội

Khái niệm tầng lớp xã hội không đồng nhất với khái niệm giai cấp, mặc dù hai khái niệm này có quan hệ mật thiết với nhau. Khái niệm tầng lớp xã hội cũng nói đến những tập đoàn người có những đặc trưng chung tương đối ổn định nào đó, nhưng những đặc trưng này không đồng nhất với những đặc trưng kinh tế-xã hội có tính lịch sử như trong khái niệm giai cấp, nghĩa là không do một phương thức sản xuất đặc trưng của xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định sản sinh ra.



Ví dụ, tầng lớp trí thức là những người lao động trí óc. Phương thức lao động của họ không lệ thuộc vào một phương thức sản xuất nhất định nào của xã hội. Tầng lớp trí thức tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất. Sự thay đổi phương thức sản xuất xã hội không làm thay đổi phương thức lao động của trí thức.

Như vậy, khái niệm tầng lớp xã hội là một khái niệm rộng, có nhiều cấp độ khác nhau. Có thể tầng lớp xã hội là khái niệm rất rộng, bao quát nhiều giai cấp trong đó. Ví dụ, tầng lớp thanh niên, tầng lớp trung niên v.v.. Có thể tầng lớp xã hội là khái niệm chỉ những người hay những lực lượng xã hội tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất hoặc chưa thuộc một phương thức sản xuất nào như tầng lớp trí thức, tầng lớp tư sản ở nước ta. Có thể tầng lớp xã hội là khái niệm hẹp hơn khái niệm giai cấp, nằm trong khái niệm giai cấp, chỉ là những bộ phận khác nhau của một giai cấp. Ví dụ, giai cấp vô sản bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau căn cứ theo mức sống như: tầng lớp giàu, tầng lớp trung lưu, tầng lớp nghèo, thậm chí như Ph.Ăngghen nói có cả tầng lớp vô sản lưu manh. Giai cấp tư sản cũng bao gồm nhiều tầng lớp tư sản khác nhau như: tầng lớp tư sản nhỏ, tầng lớp tư sản trung bình, tầng lớp tư sản lớn, tầng lớp trùm tài chính( còn gọi là tập đoàn tài phiệt). Hiện nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ, sự phát triển của sản xuất đạt trình độ rất cao, dẫn đến sự phân hóa trong giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ở các nước tư bản phát triển đang diễn ra hết sức phức tạp. Từ đó, người ta có thể phân chia thành nhiều tầng lớp khác nhau theo những tiêu chí mới. Ví du, tầng lớp công nhân cổ cồn, công nhân quý tộc có thu nhập cao do trình độ nghề nghiệp của họ.

Tóm lại, khái niệm giai cấp và khái niệm tầng lớp xã hội có những nội hàm khác nhau, không đồng nhất với nhau, nhưng có quan hệ với nhau. Trong những điều kiện nhất định, tầng lớp có thể chuyển hóa thành giai cấp và ngược lại.

Ví du, tầng lớp tư sản ở nước ta hiện nay là một bộ phận của tầng lớp doanh nhân. Trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế thế giới, nếu không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, không giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa, để nền kinh tế thị trường phát triển một cách tự phát thì rất có thể tầng lớp tư sản sẽ chuyển hóa thành một giai cấp tư sản thực thụ.

b. Nguồn gốc giai cấp

Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất chưa phát triển nên chưa có giai cấp, giai cấp chỉ xuất hiện khi công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời làm cho năng suất lao động tăng lên đáng kể, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong xã hội chiếm đoạt làm của riêng, chế độ tư hữu xuất hiện. Đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.



c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

- Trong xã hội có giai cấp, tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức của vô sản làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ áp bức bóc lột. Đấu tranh giai cấp còn có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hóa sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất :

Biểu hiện của mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất về mặt xã hội là: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tiến bộ, cách mạng, đại diện cho lực lượng sản xuất mới với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.

- Đấu tranh giai cấp, một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp

+ Đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân các giai cấp cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được gắn với đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch phản động.

+ Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về cơ bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội, trước khi giành chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản là đấu tranh về kinh tế, tư tưởng và chính trị. Sau khi giành chính quyền, mục tiêu, hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi.

Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.

Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức, quản lý sản xuất, quản lý xã hội, trên cơ sở đó, thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là mục tiêu, đồng thời là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản.

d. Nhà nước, công cụ chuyên chính giai cấp

Nhà nước ra đời tựa hồ đứng trên xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự. Nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất – giai cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước, giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về chính trị.

Về bản chất, nhà nước chỉ là bộ máy quyền lực và công cụ chuyên chính của một giai cấp đối với toàn bộ xã hội. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, nó không phải là lực lượng điều hòa mâu thuẫn mà làm cho mâu thuẫn ngày càng gay gắt.

Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ thể, Nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó đối với hai giai cấp đối lập. Đó là khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định hoặc nhà nước cũng có thể thực hiện sự thỏa hiệp về quyền lợi tạm thời giữa các giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Sự phát triển của nền kinh tế – xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng, sẽ phá vỡ thế cân bằng, phá vỡ sự thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp thù địch để tập trung quyền lực vào tay một giai cấp nhất định.



2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp

a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó

- Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và cơ bản về chất mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế – xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế – xã hội cao hơn.

+ Vấn đề giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội, bởi vì chỉ khi nào giành được chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập được nền chuyên chính, tiến tới xác lập quyền lực của mình.

+ Tiến hóa cũng là một hình thức phát triển xã hội, nó là quá trình phát triển diễn ra tuần tự làm thay đổi từng mặt của hình thái kinh tế – xã hội. Tiến hóa và cách mạng xã hội thống nhất biện chứng với nhau. Trong đó, tiến hóa chuẩn bị cho cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội mở đường cho tiến hóa như là những quá trình kế tiếp nhau không ngừng trong sự phát triển xã hội.

- Nguyên nhân của cách mạng xã hội



Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là do mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị sử dụng nhà nước để duy trì, bảo vệ quan hệ sản xuất lỗi thời. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, giai cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, giành lấy chính quyền nhà nước.

Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp mà vấn đề giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. (V.I. Lênin).



b. Vai trò của cách mạng xã hội

- Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất lạc hậu bằng quan hệ sản xuất tiến bộ, thay thế hình thái kinh tế – xã hội cũ bằng hình thái kinh tế – xã hội mới.

- Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trong cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng được phát huy một cách cao độ.

- Trong các cuộc cách mạng xã hội thì cách mạng vô sản là cuộc cách mạng triệt để nhất vì nó xóa bỏ tận gốc chế độ áp bức bóc lột.



c. Ý nghĩa phương pháp luận

- Nghiên cứu vai trò của cách mạng xã hội giúp ta nhận thức được cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp, là cột mốc đánh dấu từng chặng đường của tiến bộ xã hội, là sự thay đổi về chất theo xu hướng vận động đi lên của xã hội, của văn minh nhân loại.

- Sự chuyển đổi từ thời đại này sang thời đại khác của lịch sử chỉ có thể thực hiện được bằng cách mạng xã hội. Nếu không có cách mạng xã hội, lịch sử chỉ có thể tiến từng bước chậm dần đều (tiệm tiến) chứ không thể có bước nhảy đột biến làm thay đổi căn bản về chất của các hình thái kinh tế – xã hội.

VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI,

VÀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

1. Con người và bản chất của con người

a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội

- Triết học Mác kế thừa những quan niệm về con người trong lịch sử và khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Con người tự nhiên là con người mang đầy đủ bản tính sinh học. Yếu tố sinh học là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.

Con người là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người.

Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân là tổ chức cơ thể người và quan hệ của nó với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.

Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng cơ bản quy định sự khác biệt con người với thế giới loài vật là mặt xã hội.

- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức bản chất con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề sản xuất ra của cải vật chất. Tính xã hội của con người biểu hiện trong sản xuất vật chất. Thông qua sản xuất vật chất, con người tự thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần, hình thành ngôn ngữ, phát triển các năng lực tư duy, xác lập các quan hệ xã hội.

Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau. Đó là :

+ Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa … chúng quy định bản chất sinh học của con người.

+ Hệ thống quy luật tâm lý, ý thức hình thành và phát triển trên nền tảng sinh học của con người như tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí …

+ Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.

Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần … Quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tự nhiên tất yếu, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với các loài động vật khác.

Thông qua các mối quan hệ xã hội, các nhu cầu sinh học của con người đã mang giá trị văn hóa, văn minh; đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề sinh học. Hai mặt trên thống nhất, hòa quyện vào nhau tạo thành con người tự nhiên – xã hội.



b. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội

Từ những quan niệm trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt trên thế giới loài vật ở cả ba phương diện : quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân.

Cả ba mối quan hệ đó suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm lên tất cả các mối quan hệ khác.

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, trong “Luận cương về Phoi-ơ-bắc”, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng : “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

Luận đề trên khẳng định, không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần để tồn tại, phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ, chỉ trong các mối quan hệ xã hội đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

Điều cần chú ý là, luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa phủ nhận mặt tự nhiên; trái lại điều đó nhấn mạnh sự phân biệt con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội của nó.



c. Con người là chủ thể, là sản phẩm của lịch sử

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.

Song, điều quan trọng hơn cả là con người là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử, xã hội.

Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại vừa là phương tiện để làm biến đổi đời sống xã hội.

Trên cơ sở nắm bắt các quy luật của tự nhiên và xã hội, con người thông qua hoạt động thực tiễn thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đề ra.

Bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử, xã hội luôn vận động, biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.



2. Khái niệm quần chúng nhân dân, vai trò của quần chúng nhân dân

a. Khái niệm quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích cơ bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức, đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.

b.Vai trò của quần chúng nhân dân

Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử; do đó, lịch sử trước hết là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung :

-Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội.

-Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực của mọi cuộc cách mạng xã hội. Trong cuộc cách mạng xã hội chuyển biến từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái xã hội khác, quần chúng nhân dân là lực lượng tham gia đông đảo.

-Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, chính trị, đạo đức … của nhân dân vừa là cội nguồn vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận của mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội.

3. Vai trò của cá nhân trong lịch sử

a. Khái niệm cá nhân

Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt, vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.

Trong quá trình quần chúng nhân dân sáng tạo lịch sử thì mỗi cá nhân tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể mà họ có thể tham gia vào quá trình sáng tạo lịch sử với những mức độ và phạm vi khác nhau. Nhưng để lại những dấu ấn sâu sắc nhất trong tiến trình lịch sử thường là những thủ lĩnh mà đặc biệt là những thủ lĩnh ở tầm vĩ nhân. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật



b. Khái niệm lãnh tụ

Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, được quần chúng tín nhiệm và nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân. Như vậy, lãnh tụ là người có các phẩm chất sau :

- Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế, thời đại.

- Hai là, có năng lực tổ chức, tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân.

- Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế, thời đại.

Bất cứ một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu cầu của lịch sử.

Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế, thời đại. Định hướng chiến lược và chương trình hành động. Tổ chức lực lượng, giáo dục quần chúng, thống nhất ý chí hành động. Từ những nhiệm vụ trên, lãnh tụ có vai trò to lớn đối với quần chúng như : thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến bộ xã hội, sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó.

Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức, điều khiển, và quản lý các tổ chức chính trị xã hội, có vai trò và ảnh hưởng to lớn đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy. Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hòan thành nhiệm vụ của thời đại mình đặt ra. Sau khi hoàn thành vai trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần, sống mãi trong niềm tin của quần chúng.

Như vậy, tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ quên vai trò của cá nhân hoặc tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tụ, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần chúng nhân dân thì đều là không biện chứng trong việc nghiên cứu về lịch sử, do đó không thể lý giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như mỗi cộng đồng xã hội nói riêng.

4. Ý nghĩa phương pháp luận

Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân đã cung cấp một phương pháp luận cho hoạt động nhận thức và thực tiễn:

- Thứ nhất, nó xóa bỏ được sai lầm của chủ nghĩa duy tâm đã từng thống trị lâu dài trong lịch sử nhận thức về động lực và lực lượng sáng tạo ra lịch sử, đồng thời đem lại một phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu lịch sử cũng như việc nghiên cứu và đánh giá vai trò của cá nhân, thủ lĩnh, vĩ nhân, lãnh tụ.

- Thứ hai, nó cung cấp phương pháp luận để các Đảng cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở đó tập hợp mọi lực lượng nhằm tạo ra động lực to lớn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.



tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương