Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin


Ý thức, nguồn gốc, Kết cấu của ý thức



tải về 1.73 Mb.
trang2/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

2. Ý thức, nguồn gốc, Kết cấu của ý thức

a. Nguồn gốc của ý thức 

Ý thức là gì, do đâu mà có, để trả lời cho câu hỏi này mà trong lịch sử triết học đã có nhiều quan điểm khác nhau:

- Triết học duy tâm quan niệm, ý thức là một thực thể độc lập không phụ thuộc vào thế giới vật chất, có trước thế giới vật chất, sáng tạo ra thế giới vật chất và chi phối thế giới vật chất được Pla - tôn gọi là “ ý niệm ”, H - ghen gọi là “ ý niệm tuyệt đối

- Chủ nghĩa duy vật trước Mác không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên này của ý thức, nhưng lại cho rằng tư tưởng được tiết ra từ óc cũng như gan tiết ra mật.

- Trên cơ sở tổng kết thành tựu của nhiều khoa học, đặc biệt là khoa học sinh lý hệ thần kinh. Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác bác bỏ những quan niệm sai lầm trên và đưa ra nhận định mới về nguồn gốc của ý thức: ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người có chức năng phản ánh, nhưng không phải là phản ánh giản đơn, mà là phản ánh năng động sáng tạo.

- Trước hết chúng ta đều biết: phản ánh là thuộc tính vốn có của mọi đối tượng vật chất. Ví dụ:

+ Phản ánh của giới vô cơ như mặt nước, mặt gương phản chiếu ánh sáng. Sự phản ánh này mang tính đơn giản, không phân biệt, không lựa chọn.

+ Phản ánh của thực vật như hoa hướng dương biết hướng về phía mặt trời để hấp thụ được nhiều năng lượng, rễ cây phát triển mạnh về hướng có nhiều phân. Sự phản ánh này đã có sự lựa chọn.

+ Phản ánh của động vật lại phát triển cao hơn một bậc dưới dạng cảm giác, tri giác và biểu tượng là nhờ có hệ thống thần kinh và bộ óc .

Nếu vậy, các loài động vật chúng có ý thức không? Trả lời rằng không, chỉ con người mới có ý thức. Phản ánh dưới dạng cảm giác, tri giác và biểu tượng đó mới chỉ là hiện tượng sinh lý và tâm lý chung của động vật, chứ chưa phải là ý thức. Ý thức chỉ được hình thành gắn liền với lao động và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới có thể xuất hiện. Như vậy, sự ra đời của ý thức có hai nguồn gốc:



- Nguồn gốc tự nhiên là bộ óc người, có chức năng phản ảnh:

Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, nó cũng có một quá trình tiến hóa lâu dài hàng tỷ năm cùng với sự hình thành của trái đất, từ mầm sống đầu tiên và phát triển đến đỉnh cao nhất của sự tiến hoá là xuất hiện loài người. Bộ óc người (nặng trung bình 1,7 kg có khoảng15 tỉ tế bo), có chức năng thu nhận và điều khiển cơ thể với thế giới bên ngoài, nhờ đó mà chúng ta mới biết được mùi vị, âm thanh, màu sắc, nóng lạnh. Được Páp - lốp nhà sinh vật học người Nga gọi là phản xạ có điều kiện và không có điều kiện. Do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì phản xạ sẽ khơng chính xác nữa. Nếu vậy thì con vật có ý thức không? Trả lời rằng không, chỉ có con người mới có ý thức. Như vậy, rõ ràng là ở con người có một cái gì đó đặc biệt. Cái đặc biệt chính là thông qua lao động, vượn biến thành người và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới xuất hiện.



b. Nguồn gốc xã hội:

Để cho ý thức ra đời, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể thiếu được, nhưng chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là lao động .

- Lao động là điều kiện chủ yếu để con người tồn tại, phát triển. Đó là sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật. Nếu như ở động vật kinh nghiệm sống được truyền qua bản năng di truyền, như đ được cài đặt sẵn trong bộ gien, chúng chỉ biết sử dụng các sản phẩm có sẵn trong tự nhiên, nhưng những thứ đó không còn nữa thì con vật sẽ bị chết đói, nhưng con người thì hoàn toàn khác, con người không những biết sử dụng các thứ có sẵn trong tự nhiên mà còn tìm tòi, khám phá, chinh phục, cải tạo tự nhiên theo ý đồ của mình, nhờ đó mà con người dần dần nhận biết được những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của tự nhiên, của xã hội dưới dạng những kinh nghiệm, những tri thức, nhờ vậy mà kho tàng tri thức của loài người ngày càng được bổ sung thêm phong phú. Vì vậy, ý thức không thể là từ bên ngoài đưa vào trong bộ óc, mà nó được hình thành từ khám phá và cải tạo thế giới khách quan, từ lao động sản xuất gắn liền với sự ra đời của ngôn ngữ.

- Lao động không phải là một hoạt động đơn lẻ, mà ngay từ buổi đầu sơ khai con người đã biết quy tụ lại với nhau mang tính tập thể, tính xã hội. Vì vậy, trong quá trình lao động tập thể đã nảy sinh nhu cầu cần phải trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động tập thể mà từ đó cái cuống họng của loài vượn biến đổi dần dần thích ứng với một lối phát âm ngày càng phát triển. Nhờ có lao động mà ngôn ngữ mới được hình thành. Nó đã trở thành hệ thống tín hiệu mang nội dung của ý thức. Nếu không có hệ thống tín hiệu này thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ là phương tiện, là công cụ để khái quát hoá, trừu tượng hóa, ngôn ngữ dùng để giao tiếp, truyền kinh nghiệm từ người này sang người khác, thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy, ý thức không phải là hiện tượng thuần túy cá nhân mà là một hiện tượng mang tính lịch sử, tính xã hội. Nếu không có ngôn ngữ thì xã hội không thể phát triển. Vì những lẽ trên, Ăng - ghen viết: “ Trước hết là lao động, sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ óc đó dần biến chuyển thành bộ óc con người ”.



c. Bản chất của ý thức 

Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người nhưng không phải là sự phản ánh giản đơn, mà phản ánh một cách năng động và sáng tạo. ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

- Để hiểu rõ hơn bản chất của ý thức, chúng ta phải biết rằng: cả vật chất và ý thức đều tồn tại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Vật chất là cái được phản ánh tồn tại khách quan, nhưng khi nó đã được chuyển vào trong đầu óc người ta thì nó lại trở thành hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần của sự vật khách quan, (tức ý thức). Vì vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được phản ánh (vật chất) với cái phản ánh (ý thức).

- Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng nó không phải như là hình ảnh vật lý hay hình ảnh tâm lý động vật về sự vật, mà là sự phản ánh năng động sáng tạo. Do đó chỉ con người mới có ý thức, ý thức được ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, chính vì vậy C.Mc viết: ý thức “ chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó ”.

Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện thống nhất của ba mặt sau:

- Một là, nhận thức của con người bao giờ cũng xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống đặt ra, do đó những ý tưởng, tức sự suy tính phải có trước khi hành động, đó là quá trình chọn lọc các thông tin, lựa chọn phương thức hành động, chứ không thụ động như ở động vật.

- Hai là, những thông tin được sao, chép lại, dưới dạng hình ảnh tinh thần được lưu giữ lại trong óc. Thực chất, đây là quá trình bắt đầu sáng tạo, có nghĩa là đối tượng vật chất đã trở thành ý tưởng phi vật chất để rồi suy diễn, tưởng tượng theo ý tưởng của mình.

- Ba là, chuyển sự tưởng tượng từ trong óc ra bên ngoài, và bằng lao động con người đã biến những ý tưởng thành hiện thực, giai đoạn này con người phải lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tiến hành lao động nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Do đó chúng ta phải thấy được ý thức bao giờ cũng gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ bởi các quy luật sinh học mà chủ yếu là các quy luật xã hội, các quy ước được hình thành trong quan hệ sản xuất, do đó ý thức mang bản chất xã hội và lịch sử.



d. Kết cấu ý thức :

- Cấu trúc theo chiều ngang: gồm có tri thức và tình cảm.

+ Tri thức là kết quả nhận thức của con người về thế giới, được diễn đạt dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu. Được tách ra làm hai loại tri thức. Tri thức thông thường, là những nhận thức thu nhận được từ hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc chưa được hệ thống hoá. Tri thức khoa học là những nhận thức đã được đúc kết từ thực tiễn thành lý luận, kinh nghiệm. Ngày nay, tri thức đang là yếu tố giữ vai trị quyết định đối với sự phát triển kinh tế, vì vậy, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn bền vững.

+ Tình cảm là sự rung động của con người với xung quanh gây cho con người có cảm giác vui buồn, yêu thương, căm giận… Vì vậy, một khi tri thức được gắn với tình cảm thì hoạt động của con người sẽ được tăng thêm gấp bội lần.

-. Cấu trúc theo chiều dọc:

+ Tự ý thức, ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới.

+ Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đó gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sau của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.

+ Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người xảy ra mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí được biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau và chỉ là mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.



3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vai trò tác dụng của ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận

Dựa trên cơ sở lý luận phản ánh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: vật chất là cái có trước ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, vì vậy con người phải tôn trọng thực tiễn khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.



a. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được thể hiện :

+ Vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức, là cái có trước, cái được phản ánh. Ý thức là cái có sau, là cái phản ánh

+ Vật chất là cái được phản ánh, nhưng khi những hình ảnh của vật chất, tức thế giới khách quan đã được chuyển vào trong óc người ta ( sao chép, chép lại, chụp lại) thì nó lại trở thành hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần của thế giới khách quan (tức ý thức). Chính vì vậy, Mác viết “ Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó “.

+ Ý thức là cái phản ánh: Trước hết xét về nguồn gốc, ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người.

+ Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, có chức năng phản ánh, nhưng không phải là sự phản ánh giản đơn, mà phản ánh mang tính năng động sáng tạo trên cơ sở gắn liền với lao động và sau lao động là ngôn ngữ thì ý thức mới có thể xuất hiện, như vậy ý thức phụ thuộc vo hoạt động của bộ óc người. Do đó, khi bộ óc bị tổn thương thì nhận thức sẽ không chính xác nữa. Vì vậy, khi chưa có bộ óc người thì không thể có ý thức.

b. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:

Ý thức là sự phản ảnh thế giới khách quan hiện thực vào bộ óc con người, song ý thức lại có khả năng cải tạo, làm thay đổi hiện thực khách quan, nhưng bản thân của ý thức không thể tự nó làm thay đổi được hiện thực khách quan. Ý thức chỉ mới là khu nhận thức, còn việc cải tạo hiện thực khách quan lại cần phải có sự nổ lực hành động của con người thì lúc đó những ý tưởng, những sáng tạo mới có thể trở thành hiện thực được, do đó nhận thức đúng được quy luật vận động của thế giới khách quan thì đó mới là cơ sở để hoạt động của con người đạt được mục tiêu, và phương hướng đã đề ra. Ngược lại, ý thức của con người phản ánh sai thế giới khách quan thì kết quả sẽ không thể đạt được như mong muốn.



c. Vai trò của ý thức: nhờ có ý thức mà trong quá trình thực tiễn con người có thể lựa chọn phương án, phương thức nào có hiệu quả nhất để hoạt động và biết phân biệt được cái nào đúng, cái nào sai, lợi hại, cái gì nên làm, cái gì nên tránh.

d. Ý nghĩa và phương pháp luận:

Để phát huy được tính năng động chủ quan của con người thì trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải tôn trọng tính khách quan, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình chứ không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chương trình hành động, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Trên cơ sở đó Đảng ta đã rút ra bài học “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, phải tôn trọng quy luật khách quan”. Để phát huy được nhân tố chủ quan, vai trò tích cực sáng tạo của ý thức nhằm đáp ứng được yêu cầu xây dựng lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà nhiệm vụ trung tâm là phải công nghiệp hóa và hiện đại hoá, phải “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, muốn vậy “phải khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu”.



Chương II

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng

- Khi niệm biện chứng: Biện chứng có nghĩa là, trong quá trình tồn tại các sự vật, hiện tượng đều có liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau trong trạng thái vận động biến đổi theo khuynh hướng phát triển đi lên. Nguồn gốc của mọi sự vận động thay đổi ấy đều có nguyên nhân là do đấu tranh của các mặt đối lập nằm ngay bên trong của sự vật.

- Có hai loại biện chứng: biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan, (còn được gọi là biện chứng siêu hình), quan niệm của biện chứng siêu hình cho rằng, các sự vật hiện tượng trong quá trình tồn tại chúng không phụ thuộc vào nhau và không coi việc đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc là động lực của sự phát triển, vì vậy, thuật ngữ siêu hình cũng được dùng để chỉ những người có tư tưởng và hành động khi xem xét giải quyết sự việc không đặt chúng trong mối liên hệ giữa sự vật này với sự vật khác, mà coi chúng tồn tại độc lập, tách rời không có liên hệ với nhau, mọi sự vật đều tồn tại ở trạng thái tĩnh tại, không biến đổi.

b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

- Phép biện chứng thời cổ đại: các nhà triết học phương Đông và phương Tây thời kỳ cổ đại đều cho rằng các sự vật, hiện tượng của thế giới luôn ở trạng thái sinh thành, biến hóa trong mối liên hệ chằng chịt. Những quan niệm này mới chỉ là dựa trên cơ sở quan sát trực quan, chưa có điều kiện để kiểm chứng bằng khoa học, mang tính ngây thơ chất phác nhưng về cơ bản là đúng

- Phép biện chứng duy tâm: khởi đầu là triết học của Can - tơ, sau đó đã được Hê - ghen trình bày thành một hệ thống. Song biện chứng của H - ghen là biện chứng duy tâm, quan niệm thế giới tinh thần sản sinh ra thế giới vật chất, và cuối cùng thế giới vật chất lại trở về với thế giới tinh thần.

- Phép biện chứng duy vật: trên cơ sở khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học thời đó, kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của nhân loại, Mác và Ăng - ghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng, sau đó đã được Lênin tiếp tục phát triển hoàn thiện thành một hệ thống hoàn chỉnh. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên lý về sự phát triển. Từ đó rút ra ba quan điểm: toàn diện, phát triển, lịch sử cụ thể.



2. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật

- Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.

- Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự thống nhất giữa thế giới và phương pháp luận, do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.



II. HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

- Những nhà triết học siêu hình cho rằng giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới chúng không có liên hệ với nhau, tách rời nhau, cái nào riêng cái ấy, cái này bên cạnh cái kia, nếu chúng có liên hệ với nhau thì cũng chỉ là mối liên hệ bên ngoài.



- Xuất phát từ quan điểm, thế giới thống nhất ở tính vật chất, có chung một nguồn gốc. Triết học duy vật biện chứng khẳng định: các sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại chúng đều có liên hệ với nhau. Mối liên hệ được biểu hiện dưới các dạng: không thể thiếu nhau, không tách rời nhau, ràng buộc lẫn nhau, tác động qua lại lẫn nhau, chuyển hoá lẫn nhau, sự vật này tồn tại được là nhờ dựa vào sự vật hiện tượng khác, nếu sự vật này thay đổi thì sự vật hiện tượng khác sớm muộn cũng sẽ thay đổi theo. Những mối liên hệ ấy không những chỉ xảy ra giữa sự vật này với sự vật khác mà ngay trong bản thân một sự vật, hiện tượng cũng có mối liên hệ. Ví dụ, trong nguyên tử có những êlectrôn mang điện âm, xoay xung quanh hạt nhân mang điện dương, đối lập với nhau, nhưng chúng lại có liên hệ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, không thể thiếu nhau bằng lực hút và lực đẩy. Nếu vỏ nguyên tử mất đi một hoặc nhiều êlectrôn thì sẽ làm cho nguyên tử đó không còn cân bằng về điện, sẽ trở thành Ion dương, và ngược lại .

Hoặc trong một tế bào ta cũng thấy (tế bào động vật) gồm có:

1/ Màng tế bào: bảo vệ các bào quan bên trong tế bào.

2/ Tế bào chất:

- Mạng lưới nội chất:

+ Có hạt: tổng hợp protein cho tế bo.

+ Không hạt: tổng hợp lipit, gluxit cho tế bo.

- Ribosome: tham gia quá trình sinh tổng hợp protein.

- Ty thể: tổng hợp năng lượng cho tế bào hoạt động.

- Lyzosome: thực hiện chức năng tiêu hoá cho tế bào.



- Bộ Golgi: tham gia quá trình bài tiết cho tế bào (thải các chất cặn bã).

- Trung thể: trung tâm điều khiển và tham gia vào quá trình phân chia tế bo.

3/ Nhân:

- Màng nhân: bảo vệ nhân bên trong.

- Hạt nhân: tổng hợp và hình thành ribosome.

- Chất nhiễm sắc: là cơ sở chủ yếu của sự di truyền.

- Chức năng của nhn:

+ Lưu trữ và truyền đạt thông tin di truyền.

+ Duy trì sự sống cho tế bo.

Chúng ta thấy mỗi bộ phận của tế bào đảm nhận những chức năng riêng biệt, nhưng chúng đều có mối liên hệ với nhau không thể tách rời nhau để tạo thành một chỉnh thể. Do đó, nếu có một chức năng nào đó của tế bào hư hỏng thì các bộ phận khác của tế bo cũng sẽ không hoạt động bình thường được nữa.



  • Hoặc giữa trái đất của chúng ta với các hành tinh trong hệ mặt trời cũng có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau bằng lực hút và lực đẩy, nếu có một hành tinh nào đó bị huỷ diệt thì nó sẽ ko theo cả hệ mặt trời thay đổi. Còn trong xã hội thì những mối liên hệ lại càng phức tạp hơn, Ví dụ: Người nông dân muốn cày ruộng phải có cái cày, cái bừa, nhưng những thứ đó lại do người công nhân sản xuất. Để sản xuất cày, bừa phải có nguyên liệu như sắt, thép, v.v… sắt thép lại phụ thuộc vào người khai thác quặng, nghĩa là con người không thể sản xuất đơn độc được mà phải dựa vào nhau, phụ thuộc vào nhau trong quá trình sản xuất, trao đổi.

Tóm lại, liên hệ là một khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng. Liên hệ là khách quan, phổ biến, đa dạng vốn có của các sự vật hiện tượng cả ở trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

- Thế nào là mối liên hệ phổ biến: tính phổ biến được biểu hiện nó xảy ra ở cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

- Thế nào là tính khách quan của mối liên hệ: tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

- Thế nào là mối liên hệ đa dạng, phong phú: tính đa dạng, phong phú được biểu hiện liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài, liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ yếu, liên hệ bản chất, liên hệ không bản chất, liên hệ tất nhiên, liên hệ ngẫu nhiên…

+ Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trị quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật.

+ Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Mối liên hệ này nhìn chung không giữ vai trị quyết định đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật, và nếu có nó cũng phải thông qua mối liên hệ bên trong mới thực hiện được.

Ví dụ, sự lĩnh hội tri thức của người học được quyết định bởi chính người đó, còn sự tác động bên ngoài dù có tốt mấy đi chăng nữa mà người học không chịu học thì không có cách nào đưa tri thức vào anh ta được, hoặc thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức nó vừa tạo nên thời cơ, vừa là thách thức đối với các nước chậm và kém phát triển như nước ta. Đất nước ta có tranh thủ thời cơ, vượt qua được thử thách để trở thành con rồng, con hổ của Châu Á hay không, trước hết phải phụ thuộc vào trình độ của nhân dân ta, và nếu chúng ta không vượt qua được thử thách này thì cũng sẽ không xây dựng được một nước mạnh, dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2. Nguyên lý về sự phát triển 

Để trả lời cho câu hỏi, các sự vật và hiện tượng trong thế giới trong quá trình vận động diễn ra như thế nào mà từ đó trong lịch sử triết học đã có những quan điểm khác nhau:

a. Quan điểm siêu hình:

Những nhà triết học duy vật trước Mác xem sự vận động phát triển của thế giới chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về lượng mà không có sự thay đổi về chất, tức là sự vật ra đời như thế nào thì trong quá trình vận động, chất của nó vẫn được giữ nguyên, nếu có thay đổi thì cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới, chất mới. Sự phát triển là một qua trình tiến lên liên tục.



b. Quan điểm biện chứng (nội dung của nguyên lý):

Đối lập với phương pháp siêu hình, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều vận động biến đổi, chuyển hoá từ trạng thái này sang trạng thái khác. Sự vận động biến đổi ấy là vô cùng tận không có kết thúc, có nhiều tính chất, khuynh hướng khác nhau, có sự vận động biến đổi từ thấp tới cao, trái lại có sự vận động biến đổi dẫn đến tan rã, đi xuống thụt lùi. Do đó, khái niệm vận động nói chung và khái niệm phát triển không đồng nghĩa với nhau. Vì vậy, chúng ta phải xác định: phát triển là nói về sự vận động theo một xu hướng đi lên, có đặc điểm tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, cái mới thay thế cho cái cũ đã lỗi thời, nhưng không loại bỏ hoàn toàn cái cũ mà kế thừa, chọn lọc cái cũ.

+ Phát triển không phải diễn ra theo một con đường thẳng tắp mà quanh co, phức tạp theo đường vòng xoáy trôn ốc giống như lặp lại cái cũ nhưng cao hơn.

+ Phát triển là quá trình tích luỹ về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.

+ Nguồn gốc của sự phát triển là do mâu thuẫn nằm ngay bên trong của sự vật đấu tranh với nhau, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí của con người.

+ Phát triển là khách quan phổ biến, vì nó diễn ra ở mọi lĩnh vực từ tự nhiên cho đến xã hội và cả trong tư duy.

Chứng minh và phân tích nguyên lý phát triển:

+ Phát triển là một quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Ví dụ: Trái Đất của chúng ta đã trải qua hàng tỷ năm biến đổi phức tạp, đến một mức phát triển nào đó, trên mặt đất xuất hiện sự sống, từ đơn bào đến đa bào và đỉnh cao nhất của sự tiến hoá là con người, trong xã hội loài người, sự biến đổi và phát triển lại càng diễn ra nhanh chóng bằng nhiều phương thức sản xuất kế tiếp trong lịch sử. So với thời thượng cổ, thời đại ngày nay đã đạt đến trình độ phát triển với tốc độ phi thường, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Do đó phép biện chứng yêu cầu chúng ta phải hướng tới cái mới, phát hiện ra nó, nhìn về phía trước, bồi dưỡng cho cái mới mau lớn mạnh, hoạt động theo hướng tiến lên.

+ Phát triển là một quá trình tích luỹ dần dần về lượng, dẫn đến sự thay đổi về chất, nhưng do điều kiện mà có thể có những khuynh hướng vận động dẫn đến sự thay đổi về chất. Ví dụ: trong giới sinh vật, do điều kiện hoàn cảnh mà có sự đột biến về gien thì những đặc trưng trước đây của sự vật cũ không còn nữa chúng dần dần ổn định và thích ứng với môi trường làm xuất hiện một giống loài mới, chẳng hạn như vi rút cúm gà chúng chỉ có thể lây qua gia cầm lông vũ, nhưng do điều kiện nó đã biến thể thành vi rút H5N1 nó đã thích ứng với môi trường và trở thành một dòng vi rút mới lây lan qua người.

+ Phát triển không phải diễn ra theo một con đường thẳng tắp, mà quanh co theo đường vòng xoáy trôn ốc giống như lặp lại ban đầu nhưng cao hơn.

Tóm lại: phát triển là một khái niệm dùng để chỉ sự biến đổi theo chiều hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.



tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương