Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin


III. HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA



tải về 1.73 Mb.
trang14/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20

III. HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA

1. Xu thế tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa

Trình độ phát

Triển

Kinh tế


Xã hội

- Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã phát hiện ra quy luật khách quan của quá trình chuyển biến cách mạng căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội phát triển từ thấp đến cao diễn ra như “một quá trình lịch sử tự nhiên”.

- Sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất đặc biệt là nền công nghiệp hiện đại, dựa trên các thành tựu khoa học – công nghệ đã phát triển ngày càng cao thì trình độ xã hội hóa cũng càng cao. Điều đó đã tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Đây là mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hòa.

Giai cấp tư sản đã dùng rất nhiều biện pháp như tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, thành lập các tập đoàn tư bản… với mong muốn làm giảm những mâu thuẫn giữa tư sản và công nhân. Song sở hữu nhà nước trong chủ nghĩa tư bản thực chất chỉ là giai cấp tư sản lợi dụng nhà nước, nhân danh nhà nước để nắm tư liệu sản xuất. Do vậy, mâu thuẫn đối kháng trong kinh tế và trong xã hội không hề suy giảm. đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa đến sự ra đời hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.



2. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa

a. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

- Khái niệm:

+ Bước quá độ là bước chuyển tiếp từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

+ Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển tiếp từ xã hội tư bản và tiền tư bản lên xã hội xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền nhà nước cho đến khi Chủ nghĩa xã hội đã tạo ra được những cơ sở của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Tính tất yếu:

+ Theo C.Mác: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị…”

+ Theo V.I.Lênin:

Cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vì cải tổ sản xuất là việc khó khăn, vì cần phải có thời gian mới thực hiện được những thay đổi căn bản trong mọi lĩnh vực trong cuộc sống và phải trải qua một cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài mới có thể thắng được sức mạnh to lớn của thói quen quản lý theo kiểu tiểu tư sản và tư sản…”).

Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

- Một là, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn đối kháng giai cấp, không còn tình trạng áp bức bóc lột. Muốn có xã hội như vậy cần phải có một thời gian cải biến cách mạng khá lâu dài.

- Hai là, chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất- kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội, nhưng phải có thời gian tổ chức, sắp xếp lại.

- Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng xã hội tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do vậy cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.

- Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với những công việc đó.

- Hai loại hình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội:

+ Quá độ trực tiếp từ những nước Tư bản chủ nghĩa phát triển lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn vì những nước này đã có đại công nghiệp và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.

+ Quá độ gián tiếp từ những nước tư bản chủ nghĩa trung bình và những nước chưa qua tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.

Theo V.I.Lênin, đó là kiểu quá độ đặc biệt hoặc ” đặc biệt của đặc biệt” phải trải qua rất nhiều khó khăn, phức tạp, lâu dài, chủ yếu vì các nước này chưa qua “ trường học dân chủ tư sản” và chưa có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại.



- Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:

Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là những nhân tố của xã hội mới và những tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn nhau, đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, tập quán…

+ Nội dung kinh tế: là nền kinh tế nhiều thành phần

Theo V.I.Lênin: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có…” V.I.Lênin nêu ra 5 thành phần kinh tế gồm:

+ Kinh tế nhà nước.

+ Kinh tế tập thể.

+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.

+ Kinh tế tư bản tư nhân.

+ Kinh tế tư bản nhà nước.

Trong đó kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính, tín dụng.

+ Nội dung chính tr: Nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố, ngày càng hoàn thiện. Do kết cấu kinh tế đa dạng, phức tạp nên kết cấu giai cấp xã hội cũng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ này bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản. Các giai tầng này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Trong một giai cấp, tầng lớp cũng có nhiều bộ phận có trình độ, ý thức khác nhau. Thu nhập, ý thức chính trị của các bộ phận khác nhau có sự khác nhau.

+ Nội dung văn hóa – tư tưởng: Chủ nghĩa Mác-Lênin, thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân từng bước giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Bên cạnh đó, còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông v. v… V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là” kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại văn hóa cũ, văn hóa mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.

-Thực chất của thời kỳ quá độ… là thời kỳ diển ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chưa bị xóa bỏ hoàn toàn với giai cấp công nhân và quần chúng lao động đã giành được chính quyền đang ra sức đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.

b. Chủ nghĩa xã hội (hay xã hội xã hội chủ nghĩa)

- Khái niệm Chủ nghĩa xã hội: Chủ nghĩa xã hội là “giai đoạn thấp của xã hội cộng sản” theo cách gọi của Các Mác và Ph.Ăngghen. Theo hai ông thì trong giai đoạn này, trình độ phát triển kinh tế – xã hội trước hết là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp. Của cải làm ra chưa thật dồi dào do đó phải “lấy lao động làm thước đo trong phân phối của cải vật chất” (Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản).

- Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa:

+Thứ nhất, cơ sở vật chất kỹ thuật là nền đại công nghiệp.

Mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng của nó, phản ánh trình độ phát triển kinh tế – kỹ thuật của chế độ đó. Công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tính cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có trình độ cao hơn so với trình độ của xã hội tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin đã đề ra kế hoạch điện khí hóa toàn nước Nga, ông đã nêu lên quan niệm: [ chủ nghĩa xã hội = chính quyền xô viết + điện khí hóa toàn quốc]. Ngày nay, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội phải có trình độ cao hơn nhiều, phải là tự động hóa.



+Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.

Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước…

Do vậy chỉ đến chủ nghĩa xã hội thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mới được xác lập đầy đủ. Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn hai hình thức là sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân, người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội; không còn tình trạng người bóc lột người.

+Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.

Tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích toàn xã hội. Thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội cũng tạo ra cách tổ chức lao động mới dựa trên tinh thần tự giác của nhân dân, dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của Đảng Cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Đương nhiên, để có một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao như vậy, một mặt đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền vận động, mặt khác phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.

+Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tuy sản xuất đã phát triển, nhưng vẫn còn có những hạn chế, vì vậy thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động là cơ bản nhất. Ngoài phân phối theo lao động, người lao động còn được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế, những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện, công viên, đường giao thông v.v… phục vụ mọi người trong xã hội. Nguyên tắc phân phối này vừa phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội, vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Đây là một nội dung quan trọng trong thực hiện công bằng xã hội trong giai đoạn này.



+Thứ năm, xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân vì nhà nước là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; thực hiện trấn áp những thế lực phản động, những lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nhà nước này tập hợp đại biểu các tầng lớp nhân dân, nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia ngày càng nhiều vào công việc của nhà nước với tinh thần tự giác, tự quản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn nguyên nghĩa như nhà nước tư bản chủ nghĩa mà là “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự quản, tự giác ngày càng cao của nhân dân, quyền tự do dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng; biện pháp bạo lực trấn áp ngày càng giảm đi. Tất cả những điều đó nhằm chuẩn bị cho sự tự tiêu vong của nhà nước trong giai đoạn cao là chủ nghĩa cộng sản.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính dân tộc sâu sắc. Thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được các dân tộc, tạo nên sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lý và trong thực tiễn cuộc sống, đấu tranh bảo vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không ngừng phát huy những giá trị của dân tộc, nâng chúng lên ngang tầm với yêu cầu của thời đại.



+Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.

Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi sự bóc lột về kinh tế, nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Tới xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thực hiện việc xóa bỏ đối kháng giai cấp, xóa bỏ bóc lột, con người có điều kiện phát triển tài năng cá nhân, mang tài năng đó đóng góp cho xã hội; thực hiện được công bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội của con người, bình đẳng nam – nữ, bình đẳng giữa các dân tộc v.v…

Những đặc trưng trên từng bước được hình thành và hoàn thiện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

c. Giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa

C.Mác trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người đã có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản).



- Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ, của cải xã hội tuôn ra dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được giảm nhẹ, lúc đó nhân loại mới thực hiện được nguyên tắc làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Khi mà lao động trở thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của đời sống, khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân, sức sản xuất của họ ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.

- Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát triển năng lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn có sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, tới “khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn giai cấp nữa (nghĩa là giữa các thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ xã hội của họ đối với những tư liệu sản xuất xã hội) chỉ lúc đó “nhà nước mới không còn nữa và mới có thể nói đến tự do”. Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thật sự không hạn chế mới có thể có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì lý do đơn giản là một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng khiếp, những sự dã man… thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các qui tắc sơ thiểu của đời sống chung xã hội”.

Qua phân tích của V.I.Lênin đã cho thấy, khi xã hội đạt được trình độ phát triển cao như vậy thì dân chủ mới thực hiện đầy đủ, dân chủ cho mọi người, không còn đối tượng bị hạn chế dân chủ, do vậy, dân chủ cũng không còn; nhà nước, luật pháp tự tiêu vong, vì lúc này không cần tới sự trấn áp của nhà nước, pháp luật trở thành phong tục, tập quán, thành quan niệm đạo đức mọi người tự giác thực hiện.

Qua phân tích của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, cho chúng ta những nhận thức đúng đắn về giai đoạn hiện nay:

Một là, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin dự báo về giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa khi có những điều kiện kinh tế – xã hội đảm bảo cho sự xuất hiện của giai đoạn này.

Hai là, sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, bằng việc không ngừng phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tổ chức xã hội về mọi mặt, giáo dục nâng cao tinh thần tự giác của con người.

Ba là, quá trình xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước khác nhau diễn ra với những quá trình khác nhau, tùy thuộc vào sự nỗ lực phấn đấu về mọi phương diện. Khi chưa xuất hiện giai đoạn cao thì “trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn còn pháp quyền tư sản, mà vẫn còn cả nhà nước kiểu tư sản nhưng không có giai cấp tư sản”. Khi chưa đạt đến giai đoạn cao của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong điều kiện vẫn còn chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc trên thế giới thì những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác về nhà nước, về dân chủ vẫn còn nguyên giá trị. Tính chất giai cấp của nhà nước, của dân chủ vẫn tồn tại.


Chương VIII

NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI CÓ TÍNH QUY LUẬT

TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
I. XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

a. Quan niệm về dân chủ và nền dân chủ

- Để có quan điểm đúng đắn về dân chủ và nền dân chủ, ta cần nghiên cứu một cách khái quát lịch sử của vấn đề dân chủ.

Từ thời nguyên thủy, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp lực nhau để sản xuất, để chống thiên tai, thú dữ, đã tổ chức ra những hoạt động chung mang tính cộng đồng và cử ra những người đứng đầu, đồng thời sẵn sàng phế truất họ nếu họ không thực thi được những quy định mà cộng đồng yêu cầu. Thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngôn ngữ, chữ viết thì việc “cử ra và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lực của nhân dân.

Khi chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời (ở Aten, Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên) giai cấp chủ nô lập ra nhà nước lấy tên là nhà nước dân chủ. Khi đó khái niệm “dân chủ” chính thức được sử dụng (từ “dân chủ” do hai từ Démos và kratos – tức nhân dân và quyền lực – ghép lại). Nhưng “dân” lúc này theo luật pháp của giới chủ nô quy định gồm: giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do, còn đại đa số là nô lệ thì không được coi là dân. Về thực chất, đây là nhà nước dân chủ của giai cấp chủ nô.

Trong chế độ tư hữu nói chung (phong kiến, tư bản) do các giai cấp tư hữu thống trị xã hội, nhà nước vẫn là nhà nước áp bức bóc lột nhân dân. Ngay cả trong chế độ dân chủ tư sản đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về dân chủ, nhưng nhà nước đó về thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai cấp tư sản thống trị nhân dân.

Chỉ đến khi Cách mạng xã hội Chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, mới bắt đầu một thời đại mới, khi đó nhân dân lao động đã giành lại chính quyền, tư liệu sản xuất, giành lại quyền lực thực sự của nhân dân, tức là dân chủ thực sự và lập ra Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiết lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân.

Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dân chủ và có quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực của dân. (Dân là những ai còn phụ thuộc vào quan niệm của giai cấp thống trị xã hội).

- Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ

+ Thứ nhất, dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử, là nhu cầu khách quan của con người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn, là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân chống lại áp bức, bóc lột, bất công.

+ Thứ hai, dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có “dân chủ phi giai cấp”, “dân chủ chung chung”.

Trong xã hội có giai cấp, việc thực hiện dân chủ cho những tập đoàn người này là đã loại trừ hay hạn chế dân chủ của tập đoàn người khác. Mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất của giai cấp thống trị. Điều này là tất yếu cho mọi chế độ dân chủ, kể cả chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.

+ Thứ ba, dân chủ còn được hiểu với tư cách là một hệ giá trị phản ánh trình độ phát triển cá nhân và cộng đồng xã hội trong quá trình giải phóng xã hội, chống áp bức, bóc lột và nô dịch để tiến tới tự do, bình đẳng. Theo V.I.Lênin “dân chủ là bình đẳng. Rõ ràng là cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để dành quyền bình đẳng có một ý nghĩa rất lớn, nghĩa là phải hiểu bình đẳng cho đúng, hiểu theo nghĩa xóa bỏ giai cấp”.

Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, pháp luật và cũng từ khi xã hội có giai cấp, dân chủ được thực hiện dưới hình thức mới – hình thức nhà nước với tên gọi là “chính thể dân chủ” hay “nền dân chủ”.



- Nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội có giai cấp. Nền dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra được thể chế hóa bằng luật pháp. V.I.Lênin viết:” Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta “(V.I.Lênin:Sđd, tập 33, tr.123). Do đó, nền dân chủ luôn gắn với nhà nước như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất của giai cấp thống trị. Chính vì vậy, kể từ khi nền dân chủ ra đời thì dân chủ trở thành một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị, phạm trù đa nghĩa.

b. Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một nền dân chủ mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với quá trình ra đời của chủ nghĩa xã hội.

Sự hình thành dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất của dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được hình thành “ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ được hình thành, phát triển dần dần, từng bước phù hợp với quá trình phát triển của kinh tế, chính trị và văn hóa – xã hội”.

Trong quá trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng cơ bản sau đây:



- Một là, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước đảm bảo thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu và lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân. Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.

- Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Chế độ sở hữu đó phù hợp với quá trình xã hội hóa ngày càng cao của sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quần chúng nhân dân lao động. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với quá trình hình thành và hoàn thiện của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

- Ba là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội (do Nhà nước của giai cấp công nhân đại diện) nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tất cả các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể và mọi công dân đều được tham gia vào công việc của nhà nước (bằng thảo luận, góp ý kiến xây dựng chính sách, hiến pháp, pháp luật…). Mọi công dân đều được bầu cử, ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà nước các cấp.

- Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần có và phải có những điều kiện tồn tại với tư cách là một nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Thực hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và thực hiện trấn áp với thiểu số giai cấp áp bức, bóc lột và phản động. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là hai mặt, hai yếu tố quy định lẫn nhau, tác động, bổ sung cho nhau. Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo lối mới trong lịch sử.

c. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Từ việc nắm vững và phân tích thực tế lịch sử đã diễn ra trong sự phát triển dân chủ của nhân loại, nhất là qua những quy luật phát triển của các nền dân chủ chủ nô, nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã dự báo khoa học qua nhiều luận điểm cơ bản về tính tất yếu nổ ra và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn liền với tất yếu của chủ nghĩa xã hội.



- Động lực của quá trình phát triển xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ. Dân chủ phải được mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Như vậy, thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một yêu cầu khách quan, một động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng chính là quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ mới đảm bảo cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình thành và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng là quá trình vận động và thực hành dân chủ, là quá trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự trở thành một cuộc cách mạng chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân dân với mục đích lôi cuốn nhân dân vào quá trình sáng tạo xã hội mới.

- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết, nó trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là điều kiện cần thiết tất yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực sự dân chủ.

- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng cộng sản. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.

Với ý nghĩa đó “Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nó vừa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới”.




tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương