Chương mở đầu nhập môn những nguyên lý CƠ BẢn của chủ nghĩa máC – LÊnin I. Khái lưỢc về chủ nghĩa máC – LÊnin



tải về 1.73 Mb.
trang9/20
Chuyển đổi dữ liệu21.08.2016
Kích1.73 Mb.
#24955
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   20

Như vậy, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá, đều không thu được giá trị thặng dư, để tìm hiểu nguồn gốc của giá trị thặng dư phải nghiên cứu từ trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, để sản xuất hàng hóa phải có lưu thông. Vì vậy, giá trị thặng dư được tạo ra từ lưu thông, nhưng không phải trong lưu thông. Đó chính là mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Để tìm ra nguồn gốc giá trị thặng dư được sản xuất ra như thế nào Mác phải đi tìm từ hàng hóa sức lao động.

3. Hàng hóa sức lao động

a. Sức lao động là toàn bộ thể lựctrí lực tồn tại trong mỗi con người, mà người đó có khả năng đem ra sử dụng để tạo ra của cải vật chất



b. Điều kiện, sức lao động biến thành hàng hóa:

Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể để có quyền đem bán sức lao động của mình.

Hai là, người có sức lao động hoàn toàn mất hết mọi tư liệu sản xuất, chỉ còn lại sức lao động là tài sản duy nhất. Để khỏi chết đói họ không còn con đường nào khác là phải bán sức lao động để nuôi sống bản thân và gia đình.

Hàng hóa sức lao động ra đời đánh dấu một giai đoạn mới trong xã hội tư bản, nó là một phạm trù lịch sử, sinh ra và mất đi cùng với phương thức sản xuất của nó, và cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng .



c. Giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:

- Giá trị của hàng hóa sức lao động là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động. Nói một cách cụ thể: Giá trị của hàng hóa sức lao động bằng giá trị những tư liệu tiêu dùng cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người lao động và gia đình họ, cũng như những chi phí để đào tạo chuyên môn. Giá trị hàng hóa sức lao động có tính lịch sử và xã hội, do đó tùy thuộc vào điều kiện mỗi nước và từng thời kỳ mà giá trị của hàng hóa sức lao động cao hay thấp.



- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động:

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng giống như hàng hóa thông thường là ở chỗ nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của người mua, nhưng hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường là quá trình tiêu dùng nó đã sản xuất ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó mà nhà tư bản đã mua. Phần lớn hơn đó, chính là giá trị thặng dư. Vì vậy, nghiên cứu giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản.



II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Sự thống nhất giữa sản xuất ra giá trị sử dụng và sản xuất ra giá trị thặng dư

Quá trình sản xuất của chủ nghĩa tư bản, trước hết vẫn là việc kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất để sản xuất ra giá trị sử dụng. Quá trình sản xuất, nhà tư bản là người nắm tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của người làm thuê. Vậy, hình thức bóc lột đó diễn ra như thế nào ?

Giả sử nhà tư bản mua sức lao động của người công nhân đúng giá trị là 3 USD để sử dụng trong 10 giờ. Giả định cứ 1 giờ lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 0,60 USD. Kết quả sau 5 giờ làm việc, người lao động biến số tư liệu sản xuất có giá trị là 20 USD thành hàng hóa mới có giá trị là 23 USD. Nếu dừng lại ở đây thì người công nhân không bị bóc lột. Nhưng, về lý nhà tư bản mua sức lao động trong 10 giờ chứ không phải 5 giờ. Vì vậy, người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 5 giờ nữa. Lần này, nhà tư bản chỉ cần bỏ ra 20 USD để mua tư liệu sản xuất và người công nhân tiếp tục lao động 5 giờ nữa và nhà tư bản lại thu 23 USD nữa.

Từ giả thiết trên cho chúng ta thấy: nhà tư bản chỉ bỏ ra 43 USD và thu về 46 USD, phần chênh lệch 3 USD do đâu mà có, 3 USD đó chính là do sức lao động của người công nhân tạo ra. Vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, là phần lao động không công của công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt. Được Mác dùng ký hiệu là: m



Kết luận:

+ Một là, quá trình sản xuất giá trị thặng dư là quá trình tạo ra giá trị vượt quá điểm mà giá trị sức lao động được trả, giá trị thặng dư là lao động không công của công nhân.

+ Hai là, ngày lao động của công nhân luôn có hai phần: thời gian lao động cần thiết để bù đắp lại giá trị sức lao động; thời gian lao động thặng dư, để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

+ Ba là, việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, mà đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó, và chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được thứ hàng hóa đặc biệt, hàng hóa sức lao động, quá trình sử dụng hàng hóa sức lao động đem lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.



2. Bản chất của tư bản. Tư bản bất biến và tư bản khả biến.

a. Bản chất của tư bản:

Theo Mác, không phải mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó nằm trong tay nhà tư bản và sử dụng để bóc lột lao động làm thuê. Khi nghiên cứu quá trình chuyển hóa của tiền tệ thành tư bản, Mác xác định: tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê.



b. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

- Tư bản bất biến: Trong tư liệu sản xuất, khi tham gia vào quá trình sản xuất có bộ phận chỉ hao mòn dần, giá trị được chuyển dần dần vào sản phẩm mới như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, có loại lại được chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới như nguyên liệu, nhiên liệu. Quá trình bảo tồn và chuyển giá trị vào trong sản phẩm mới của các loại tư bản là nhờ có lao động cụ thể của người lao động và quá trình di chuyển đó chúng cũng không hề làm tăng lên về số lượng giá trị của hàng hóa sau quá trình sản xuất. (Được Mác dùng ký hiệu là c - constant), tức tư bản bất biến, nghĩa là giá trị không thay đổi. Vậy, tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái là tư liệu sản xuất, giá trị của nó được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về lượng sau quá trình sản xuất.

- Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động của công nhân, một mặt giá trị của nó chuyển thành tư liệu tiêu dùng của người công nhân; mặt khác trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng người công nhân đã tạo ra giá trị mới bao gồm giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. (Được Mác dùng ký hiệu là v – variable), tức tư bản khả biến. Vậy, tư bản khả biến là bộ phận tư bản biểu hiện là giá trị sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng sau quá trình sản xuất.

Tóm lại: Tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến mới là bộ phận trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư. Căn cứ để C.Mác phân chia tư bản bất biến và tư bản khả biến, xuất phát từ tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Sự phân chia này chỉ rõ vai trò khác nhau của các bộ phận tư bản này, qua đó vạch rõ hơn nguồn gốc của giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra, nhà tư bản thu giá trị thặng dư là bóc lột công nhân làm thuê.



1. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

Sau khi nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, chúng ta nghiên cứu mặt số lượng của việc bóc lột giá trị thặng dư, tức là nghiên cứu tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư



a. Tỷ suất giá trị thặng dư (m’):

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Mác trình bày tỷ suất giá trị thặng dư bằng chữ m’ và xác định công thức của tỷ suất giá trị thặng dư là:

m

m’ = ---- x 100%



v

Theo giả thiết nêu trong phần quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, thì:

3 USD (m)

m’ = ---------------- x 100 = 100%

3 USD (v)

Điều đó có nghĩa là, nhà tư bản cứ ứng ra 100 USD để thuê người lao động thì nhà tư bản cũng bóc lột được 100 USD. (Thực tế tỷ suất giá trị thặng dư hiện nay ở các nước tư bản phát triển là 300 %)



b. Khối lượng gía trị thặng dư (M)

Mác dùng chữ M là ký hiệu khối lượng giá trị thặng dư và V là tổng số tư bản khả biến. Do đó, công thức về khối lượng giá trị thặng dư là:

m

M = ------- x V



v

Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư là số lượng tuyệt đối về giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã thu được. Khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến. Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô và lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư thu được, nó tỷ lệ thuận với mức độ bóc lột lao động và quy mô của tư bản khả biến



2. Những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

a. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động. Ngày lao động bị kéo dài, nhưng thời gian lao động cần thiết, không thay đổi, thời gian lao động thặng dư dài thêm ra. Do đó, ngày lao động càng dài thì tỷ suất giá trị thặng dư càng cao, giá trị thặng dư tuyệt đối càng nhiều

Ví dụ: thời gian lao động của một người trong một ngày là 10 giờ, trong đó: 

thời gian lao động cần thiết:5 giờ thời gian lao động thặng dư: 5 giờ
5

m’ = ---- x 100%, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%

5
Nếu thời gian lao động cần thiết không đổi, mà ngày lao động bị kéo dài từ 10 giờ thành 12 giờ thì tỷ suất giá trị thặng dư là: 


thời gian lao động cần thiết:5 giờ thời gian lao động thặng dư:7 giờ

7

m’ = ---- x 100% tỷ suất giá trị thặng dư là 140%



5

Việc kéo dài thời gian lao động trong ngày chỉ có giới hạn và vấp phải sự phản kháng của người lao động nên nhà tư bản tìm phương pháp bóc lột mới. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối



b. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được là do rút ngắn thời gian lao động cần thiết, nhưng không thay đổi thời gian ngày lao động, do đó, thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tương ứng.

Ví dụ: thời gian lao động của một người trong một ngày là 8 giờ, trong đó: 



thời gian lao động cần thiết:3 giờ thời gian lao động thặng dư:5 giờ

5

m’ = ---- x 100% tỷ suất giá trị thặng dư là 166%



3

Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối được áp dụng khi tiến bộ khoa học, kỹ thuật ngày càng phát triển, nó làm tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản mà không cần phải kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động, từ đó đã giải quyết được một phần mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Tuy nhiên, với mục đích là tối đa hóa giá trị thặng dư nhà tư bản vẫn tìm cách để kéo dài ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động nếu có thể được, đồng thời tìm cách bớt xén tiền lương của công nhân, vì vậy mâu thuẫn giữa tư bản và lao động vẫn không được giải quyết.



c. Giá trị thặng dư siêu ngạch

Giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư có được do giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội

Để có được giá trị thặng dư siêu ngạch, nhà tư bản phải đi đầu trong việc cải tiến kỹ thuật, công nghệ, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa giảm xuống thấp hơn giá trị xã hội. Nếu xét riêng đối với từng nhà tư bản, thì giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là hiện tượng tạm thời, nhưng xét trên phạm vi xã hội, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên, nó có thể mất đi ở nhà tư bản này, đồng thời lại xuất hiện ở nhà tư bản khác.

Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, công nghệ mới, tìm kiếm bí quyết công nghệ để nâng cao năng suất lao động, giảm giá trị cá biệt của hàng hóa, từ đó cũng nâng cao năng suất lao động của xã hội nói chung.

Giá trị thặng dư siêu ngạch còn được gọi là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối vì cả hai đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, đồng thời giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ tồn tại tạm thời, sau một thời gian khi tiến bộ kỹ thuật công nghệ mới được phổ biến nó sẽ được chuyển thành giá trị thặng dư tương đối.



Giá trị thặng dư siêu ngạch cũng có những điểm khác với giá trị thặng dư tương đối :

- Giá trị thặng dư siêu ngạch phản ánh quan hệ bóc lột trong từng xí nghiệp tư bản, còn giá trị thặng dư tương đối phản ánh quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê.

- Giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.

- Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ tồn tại tạm thời, còn giá trị thặng dư tương đối tồn tại tương đối lâu dài.



5. Sản xuất giá trị thặng dư - quy luật kinh tế tuyệt đối của CNTB

Mục đích của nền sản xuất TBCN là sản xuất ra giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt được giá trị thặng dư là: kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động hoặc tìm kiếm bí quyết công nghệ mới. Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất TBCN; mặt khác nó cũng làm cho mâu thuẫn của CNTB ngày càng gay gắt. Ngày nay, CNTB hiện đại đã có những điều chỉnh mới trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối, nhưng bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn không thay đổi.



III. TIỀN LƯƠNG TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1. Bản chất của tiền lương trong CNTB

Tiền lương trong CNTB. Thoạt nhìn, người công nhân nhận tiền lương giống như tiền trả công cho người lao động sau một thời gian làm việc. Nhưng thực chất, tiền lương trong chế độ tư bản cũng là hình thức bóc lột. Bởi vì, trong CNTB sức lao động cũng là hàng hóa, với tư cách là hàng hóa thì khi mua, người mua, tức nhà tư bản đáng lý phải trả tiền trước cho người công nhân, nhưng thực chất phải sau một thời gian lao động, tức nhà tư bản đã sử dụng rồi người lao động mới được nhận tiền công. Như vậy, bản chất của tiền lương trong CNTB là tiền trả công cho giá trị sức lao động, là giá cả của hàng hóa sức lao động, nhưng được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động.



2. Tiền lương trong trong chủ nghĩa tư bản.

a. Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.

Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người lao động nhận được do bán sức lao động cho nhà tư bản, tiền công được sử dụng tái sản xuất ra sức lao động. Tiền lương thực tế là số tiền mà người công nhân nhận được là do bán sức lao động mà có, dùng để mua hàng hóa tiêu dùng, nhưng do giá cả tư liệu tiêu dùng tăng nhanh, trong khi đó tiền lương lại không được tăng. Vì vậy, cuộc sống của người lao động ngày càng giảm sút. Trong khi đó do sự tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng làm gia tăng nạn thất nghiệp, và khủng hoảng kinh tế càng làm cho đời sống người lao động thêm khó khăn.



b. Hai hình thức tiền lương cơ bản trong chủ nghĩa tư bản :

Tiền lương tính theo thời gian: là tiền lương được trả căn cứ vào thời gian làm việc của người công nhân (giờ, ngày, tuần, tháng). Tiền lương theo ngày, tuần hoặc tháng chưa phản ánh chính xác mức tiền lương vì nó còn tùy thuộc vào thời gian lao động trong một ngày và cường độ lao động của công nhân. Khi trả lương theo thời gian, các nhà tư bản thường tìm cách tăng cường độ lao động, quản lý chặt chẽ thời gian làm việc của người công nhân.

Tiền lương theo sản phẩm: là tiền lương được trả căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà người công nhân làm ra. Tiền lương theo sản phẩm giúp cho nhà tư bản giảm bớt chi phí quản lý, đồng thời kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên nó có nhược điểm là người công nhân sẽ chạy theo số lượng sản phẩm, mà không chú ý đến chất lượng. Khi trả lương theo sản phẩm, các nhà tư bản thường tìm cách xây dựng đơn giá khoán sản phẩm thấp, quản lý chặt chẽ chất lượng sản phẩm.

IV. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

THÀNH TƯ BẢN - TÍCH LŨY TƯ BẢN

1. Tích lũy tư bản, thực chất và động cơ:

Tích lũy tư bản là tư bản hóa một phần giá trị thặng dư, hay là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản để mở rộng sản xuất. Nghiên cứu quá trình tích lũy tư bản, C. Mác đã rút ra những kết luận :

Một là, nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư và nó chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong toàn bộ vốn của nhà tư bản.

Hai là, quá trình tích lũy tư bản làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa chuyển thành quyền chiếm đoạt TBCN. Trong quá trình tích lũy, tư bản đã chiếm đoạt một phần lao động không công của công nhân, một cách hợp pháp. Khi nghiên cứu thực chất về tích lũy tư bản Mác đã bắt đầu từ tái sản xuất giản đơn.

Tái sản xuất giản đơn là quá trình tái sản xuất được lặp lại với quy mô như cũ, không có tích lũy, toàn bộ giá trị thặng dư được các nhà tư bản tiêu dùng hết cho cá nhân và gia đình.

Tái sản xuất mở rộng là tái sản xuất với quy mô ngày càng lớn, có tích lũy và mở rộng sản xuất, khác với tái sản xuất giản đơn là nhà tư bản không tiêu dùng hết phần giá trị thặng dư mà tích lũy lại một phần để mở rộng sản xuất, bao gồm tăng thêm cho (c) và (v) của cả hai khu vực theo một tỷ lệ nhất định.

Tóm lại: tái sản xuất (tích lũy tư bản) là biến một phần giá trị thặng dư tư bản để mở rộng sản xuất, tăng quy mô bóc lột. Nguồn gốc duy nhất của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư, là lao động không được trả công của người lao động.



2. Tích tụ và tập trung tư bản

Tích tụ tư bản: là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa một phần giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là yêu cầu của tái sản xuất mở rộng, đồng thời cũng là đòi hỏi để tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản

Tập trung tư bản: là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất tư bản cá biệt có sẵn trong xã hội thành một tư bản cá biệt lớn hơn. Tập trung tư bản là đòi hỏi tất yếu của cạnh tranh, đồng thời sự phát triển của tín dụng tư bản cũng góp phần thúc đẩy cạnh tranh. Tập trung tư bản có vai trò to lớn, nó dẫn đến sự ra đời của những tập đoàn tư bản lớn trong một thời gian ngắn

Tích tụ và tập trung tư bản có điểm chung là đều làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, nâng cao sức cạnh tranh. Khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản là :

- Tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản cá biệt, đồng thời cũng làm tăng quy mô tư bản xã hội. Tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô tư bản cá biệt, còn tư bản xã hội vẫn không thay đổi.

- Tích tụ tư bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa tư bản và lao động trong từng xí nghiệp tư bản. Tập trung tư bản phản ánh mối quan hệ xã hội, quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.

-Tích tụ tư bản có giới hạn vì nó phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư của từng nhà tư bản. Tập trung tư bản có quy mô và khả năng rất lớn, nó tùy thuộc vào từng tư bản cá biệt trong xã hội.

- Tích tụ tư bản là một quá trình thường xuyên, liên tục đối với từng nhà tư bản. Tập trung tư bản chỉ diễn ra ở một thời điểm nhất định, đối với từng nhà tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản có mối quan hệ tác động thúc đẩy lẫn nhau: tích tụ tư bản làm tăng quy mô của tư bản, thúc đẩy cạnh tranh quyết liệt dẫn đến tập trung tư bản nhanh hơn. Đồng thời tập trung tư bản, sẽ tăng thêm sức mạnh cho tư bản, tạo điều kiện thu được giá trị thặng dư cao, từ đó làm tăng tích tụ của tư bản. Như vậy tích tụ và tập trung tư bản làm cho tích lũy của tư bản tăng, xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, dẫn đến mâu thuẫn cơ bản của CNTB ngày càng gay gắt.



3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản

- Cấu tạo hữu cơ tư bản có hai mặt: cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị.

+ Mặt thứ nhất: cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động được sử dụng trong quá trình sản xuất. Để biểu thị cấu tạo kỹ thuật của tư bản, người ta thường dùng các chỉ tiêu như số năng lượng, hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất. Ví dụ, mỗi công nhân phụ trách 5 máy dệt trong một ca sản xuất. Cấu tạo kỹ thuật cao hay thấp là do trình độ kỹ thuật sản xuất quyết định. Do đó, để tồn tại trong cuộc cạnh tranh và chiếm được nhiều giá trị thặng dư các nhà tư bản phải không ngừng cải tiến kỹ thuật. Điều đó cũng có nghĩa là một công nhân trước đây trong một ca sản xuất chỉ phụ trách 5 máy dệt thì nay phải phụ trách 7 máy trong một ca. Cấu tạo kỹ thuật của tư bản hiện nay có xu hướng ngày càng tăng.

+ Mặt thứ hai: cấu tạo giá trị của tư bản là tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến, với số lượng giá trị của tư bản khả biến (c+v). Ví dụ: nhà tư bản đầu tư 1200 USD để tiến hành sản xuất. Trong đó: 1000 là c và 200 là v thì sẽ có cấu tạo giá trị của tư bản là 1000 : 200 = 5 : 1. Như vậy ta thấy tỷ trọng của tư bản bất biến trong toàn bộ tư bản càng lớn thì cấu tạo giá trị tư bản càng cao, phản ánh người công nhân bị bóc lột về cả về cường độ, và trí tuệ.

Giữa cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, khi cấu tạo kỹ thuật thay đổi thì cấu tạo giá trị cũng thay đổi. Trong đó phần giá trị tư liệu sản xuất (c) tăng lên tuyệt đối và tương đối, còn phần giá trị sức lao động (v) tăng lên tuyệt đối và giảm xuống tương đối. Nguyên nhân của hiện tượng này là do tiến bộ khoa học, kỹ thuật tăng nhanh, năng suất lao động cao cho phép sử dụng một khối lượng tư liệu sản xuất lớn, trong khi đó số lao động và tiền lương của công nhân lại tăng lên chậm chạp. Từ đó dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao và tiền lương của công nhân tăng chậm hơn so với sự gia tăng của năng suất lao động. Như vậy sự gia tăng của cấu tạo hữu cơ, làm cho mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng thêm gay gắt.

IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ

GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản

a. Tuần hoàn của tư bản

Quá trình vận động của tư bản đã được khái quát trong công thức chung của tư bản: T – H – T’ = T + t. Công thức này chỉ mới thể hiện quá trình vận động của tư bản mà chưa nói đầy đủ các giai đoạn trong quá trình vận động đó, tuần hoàn tư bản phải trải qua 3 giai đoạn:



Giai đoạn 1: lưu thông

Nhà tư bản dùng tiền mua tư liệu sản xuất và sức lao động để tiến hành sản xuất. Được thể hiện bằng công thức sau đây:



TLSX

T – H

SLĐ

Giai đoạn 2: tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất để tạo ra hàng hóa mới. Kết thúc giai đoạn này, tư bản sản xuất được chuyển thành tư bản hàng hóa, có giá trị lớn hơn giá trị hàng hóa ban đầu mà nhà tư bản đã bỏ tiền ra mua. Được thể hiện bằng công thức sau đây:

SLĐ


H …SX…H’

TLSX


Giai đoạn 3: giai đoạn lưu thông

Nhà tư bản trở lại thị trường thực hiện chức năng bán hàng hóa thu tiền về với giá trị lớn hơn. Kết thúc giai đoạn 3 tư bản hàng hóa chuyển thành tư bản tiền tệ, nhưng với số tiền lớn hơn số tiền ban đầu mà nhà tư bản đã bỏ ra. Đến đây mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản đã quay trở lại hình thái ban đầu là tiền với số lượng lớn hơn. Quá trình này lại được tiếp tục lặp lại, quá trình đó gọi là tuần hoàn của tư bản. Tổng hợp ba giai đoạn vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp, chúng ta có công thức: H’ - T’

Tóm lại: tuần hoàn của tư bản công nghiệp trải qua ba giai đoạn là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa, đồng thời thực hiện ba chức năng để rồi quay trở lại hình thái ban đầu, với giá trị được tăng lên. Quá trình vận động của ba hình thái nêu trên đã chứa đựng khả năng để hình thành các tập đoàn tư bản cho vay, tư bản thương nghiệp. Các tập đoàn tư bản này sẽ phân chia giá trị thặng dư do lao động tạo ra.

b. Chu chuyển của tư bản.

Tuần hoàn của tư bản được lắp đi lắp lại và có định kỳ được gọi là chu chuyển của tư bản.

Thời gian chu chuyển của tư bản, bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông. Tuy nhiên, tùy theo ở từng ngành, mà thời gian và tốc độ chu chuyển có khác nhau.

Thời gian sản xuất bao gồm:

Thời gian lao động: là thời gian mà người lao động sử dụng các công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.

Thời gian gián đoạn lao động: là thời gian mà sản phẩm chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên như gạch, ngói phải phơi khô trước khi đưa vào nung, sấy; sau khi đổ bê tông phải đợi khô để thi công tiếp…

Thời gian dự trữ sản xuất: là thời gian chuẩn bị điều kiện cho sản xuất như dự trữ nguyên vật liệu. Thời gian sản xuất dài hay ngắn ngoài tác động của kỹ thuật công nghệ, còn chịu ảnh hưởng bởi tính chất của ngành sản xuất; đặc tính của từng loại sản phẩm; quy mô sản xuất; dự trữ các yếu tố sản xuất; sự tác động của tư nhiên đối với từng loại sản phẩm.

Thời gian lưu thông: Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua các yếu tố sản xuất như nguyên nhiên vật liệu, máy móc, thiết bị và thời gian bán sản phẩm. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa, thì thời gian bán ngày càng đóng vai trò quan trọng. Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc vào các nhân tố như: khoảng cách thị trường xa hay gần, phương tiện giao thông hiện đại hay thô sơ, quy mô thị trường lớn hay nhỏ, sức mua của thị trường, hoạt động tiếp thị.

Thời gian chu chuyển và tốc độ chu chuyển càng nhanh, sẽ tạo điều kiện để tư bản thu được giá trị thặng dư ngày càng lớn. Tốc độ chu chuyển của tư bản không giống nhau, tùy theo từng ngành sản xuất. Để so sánh và xác định tốc độ chu chuyển của các tư bản khác nhau, người ta tính số vòng chu chuyển của từng loại tư bản, trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Từ đó ta có công thức sau:




tải về 1.73 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương