Chương Bốn Các tác giả thời thơ Man yô phát triển và hưng thịnh



tải về 0.86 Mb.
trang6/10
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích0.86 Mb.
#18739
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

戀死 後何為 吾命 生日社 見幕欲為礼

Dạng huấn độc (đã chua âm):

恋死なむ後は何せむ我が命生ける日にこそ見まく欲りすれ

Phiên âm:

Koi shinamu (shinan) / nochi wa nani semu / wa ga inochi / ikeru hi ni koso / mamiku hori sure /



Diễn ý:
Em yêu anh quá, tình yêu như thiêu như đốt, chắc em đến chết mất. Nếu em không còn nữa, dù có hối hận tìm đến cũng đã muộn màng rồi. Vậy thì chần chờ gì mà không nhanh chân đến ngay bên em!
Tạm dịch thơ:
Anh ơi, em chết mất / Yêu anh tình nấu nung / Nếu em không còn nữa / Anh hối cũng bằng không / Chần chờ chi nữa thế / Không đến bên em cùng /
11-2613
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

夕卜尓毛 占尓毛告有 今夜谷 不来君乎 何時将待

Dạng huấn độc (đã chua âm):

夕占にも占にも告れる今夜だに来まさぬ君をいつとか待たむ

Phiên âm:

Yuuke ni mo / ura ni mo noreru / koyoi da ni / kimasanu kimi wo / itsu to ka matamu (tan) /



Diễn ý:
Hồi nãy em xem bói yuuke (bói buổi chiều) thì thấy ra chữ cát. Bói thêm ishiura (bói đá) và waraura (bói bằng rơm rạ) hai lần nữa thì lại thấy đại cát.Em chắc mẫm như thế thì làm gì tối nay anh chả tới! Này anh, cát tới cát lui bao nhiêu thứ mà đêm nay anh còn chẳng tới thế thì chừng nào anh mới tới hở anh?
Hơn cả bài trước, bài thơ này chứa một liều lượng mĩa mai khá mạnh đối với kẻ bạc tình. Bài thơ này được thấy trong tiểu thuyết Ochikubo Monogatari (Truyện Lọt Hố) chứng tỏ văn nhân vương triều đời sau cũng hết sức tán thưởng nó.
Tạm dịch thơ:
Hết bói đi bói lại / Từ chiều cho đến giờ / Không “hung”, chỉ toàn “cát” / Đêm, vẫn không đến cho / Em xin anh nói thật / Bao nhiêu “cát” mới vừa? /

11-2679
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

窓超尓 月臨照而 足桧乃 下風吹夜者 公乎之其念

Dạng huấn độc (đã chua âm):

窓越しに月おし照りてあしひきのあらし吹く夜は君をしぞ思ふ

Phiên âm:

Madogoshi ni / tsuki oshiterite / ashihiki no / arashi fuku yo wa / kimi wo shi zo omou /



Diễn ý:
Ban đêm, những khi ánh trăng tràn qua khung cửa sổ và gió núi lạnh lẽo thổi thốc vào phòng, không hiểu sao lòng em cảm thấy một nỗi buồn xâm lấn và em nhớ thương anh thật nhiều.
Tuy cách biểu hiện khá trong sáng giản dị, vẫn có cái gì căng thẳng tàng ẩn bên trong.
Tạm dịch thơ:
Những khi trăng qua song / Tràn ngập chốn khuê phòng / Gió núi thốc lạnh lẽo / Em thấy lạnh trong lòng / Buồn thương cùng chợt đến / Nhớ anh mấy cho cùng /

Như Lý Bạch (701-762), một người cùng thời, từng đặt câu hỏi:


Đông phong bất tương thức ,
Hà sự nhập la vi ?
(Gió xuân vốn chẳng quen ta,
Sao len vào bức màn là, gió ơi?)
Gió và trăng gợi lên tình yêu là chuyện cổ kim đông tây nhất là khi trăng gió ngập khuê phòng. Nhưng nên để ý đây là gió lạnh đến từ một cơn giông núi (ashihiki no arashi) có thể làm rơi rụng hết hoa xuân.

11-2838
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

河上尓 洗若菜之 流来而 妹之當乃 瀬社因目

Dạng huấn độc (đã chua âm):

川上に洗ふ若菜の流れ来て妹があたりの瀬にこそ寄らめ

Phiên âm:

Kawakami ni / arau wakana no / nagarekite / imo ga atari no / se ni koso yorame /



Diễn ý:
Từ thượng nguồn sông, một cọng rau non ai đem đi rửa rơi ra, trôi lững lờ, dạt xuống bên chân nàng con gái đang giặt giũ dưới hạ lưu. Tôi đây cũng muốn tấp vào cạnh người con gái ấy để được hẹn hò gặp gỡ với nàng.
Tác giả mượn phong cảnh đồng quê hiện ra trước mắt để gửi gấm tấm tình riêng của mình.
Tạm dịch thơ:
Như cọng rau trên nguồn / Xanh non trôi giữa giòng / Tấp đến chỗ cô gái / Đang giặt giũ ven sông / Tấp thời ta cũng tấp / Vào em mới thỏa lòng /

11-2364
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

玉垂 小簾之寸鶏吉仁 入通来根 足乳根之 母我問者 風跡将申

Dạng huấn độc (đã chua âm):

玉垂の小簾のすけきに入り通ひ来ねたらちねの母が問はさば風と申さむ

Phiên âm:

Tamadare no / osu no sukeki ni / irikayoi kone / tarachine no / haha ga towasaba / kazetoma wo samu /



Diễn ý:
Anh ơi, đừng có đến bằng cổng chính. Phòng của em là chỗ có treo tấm rèm cửa nho nhỏ xinh xinh đấy nhé. Cứ lách khoảng trống dưới bức rèm đó mà vào, anh ạ. Nếu mẹ hỏi “Tiếng gì đấy hở con ?” thì em sẽ trả lời: “Gió đấy mẹ ơi!”.
Đây là một bài làm theo thể sedôka, lập đi lập lại 2 lần độ dài 5/7/7. Không rõ tác giả là ai nhưng chắc hẳn là một thiếu nữ ranh mãnh. Và thời đó, các bà mẹ đã giử rịt các cô con gái như thể giử mỡ không cho mèo ăn vụng rồi.
Ngoài ra, cụm từ tamadare (đẹp như ngọc treo lơ lửng) là makura kotoba (chữ gối đầu) của osu (rèm cửa).
Tạm dịch thơ:
Đừng vào ngay ngỏ chính / Phòng em có rèm xinh / Lách dưới rèm cửa nhé / Vào cho khéo nghe anh / Nếu mẹ hỏi gì đấy ? / Em đáp: Gió qua mành!
Gió qua mành? Đây cũng là chuyện gió trăng nữa đấy! Phải chi “trước còn trăng gió sau ra đá vàng” ! Cũng có thể dối mẹ là qua cầu gió bay, mèo khua, chuột chạy vv... nếu cô ấy muốn.

11-2357
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

朝戸出 公足結乎 閏露原 早起 出乍吾毛 裳下閏奈

Dạng huấn độc (đã chua âm):

朝戸出の君が足結を濡らす露原早く起き出でつつ我れも裳裾濡らさな

Phiên âm:

Asato de no / kimi ga ayui wo / nurasu tsuyu hara / hayaku oki / idetsutsu ware mo / mo suso nurasana /



Diễn ý:
Buổi sáng khi anh từ giã để ra đi, chắc sương móc trên cánh đồng sẽ làm ướt mối giây thắt ống quần anh vào tấm hakama quàng trước đầu gối. Em xin lỗi để anh bị ướt một mình. Thế thì nhớ đánh thức em dậy để cùng đi và chịu ướt váy áo cùng với anh.
Bài thơ này tả cảnh người vợ được chồng đến thăm và qua đêm, tiếc không nỡ rời chồng, muốn tiễn chàng về ít nhất một thôi đường.
Tạm dịch thơ:
Hừng sáng khi anh đi / Sương chắc đẫm gấu quần / Một mình anh bị ướt / Em hối hận vô cùng / Nhớ thức em đi tiễn / Ướt áo thì ướt chung /

Tiết V: Trích thơ quyển 12:
Thơ sômon trong tập 12 đa dạng nhưng chủ yếu là thơ bày tỏ tâm tư nỗi niềm, thơ tặng đáp và thơ tả tình cảm lúc biệt ly trên bước lữ hành.

12-2841
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

我背子之 朝明形 吉不見 今日間 戀暮鴨

Dạng huấn độc (đã chua âm):

我が背子が朝明の姿よく見ずて今日の間を恋ひ暮らすかも

Phiên âm:

Wa ga seko ga / asake no sugata / yoku mizute / kyô no aida wo / koi kurasu kamo /



Diễn ý:

Chồng của em cũng như bao nhiêu chàng trai, đêm hôm tới thăm em, sáng sớm ra đi về nhà mình. Sáng nay chàng đi lúc nào em đâu biết, làm cho suốt một ngày em cứ tơ tưởng về chàng.

Phong tục kết hôn đương thời là như thế. Nhưng một hôm, không hiểu vì cớ gì mà người đàn ông bỏ về sớm và người đàn bà không nói được lời chia tay cho trọn tình nên suốt ngày nàng lan man nghĩ về chồng và không làm được chuyện gì khác.

Tạm dịch thơ:

Chàng đến thăm ban đêm / Bình minh lại cất bước / Hồi sáng nay chàng đi / Lúc nào em chẳng biết / Nên thơ thẩn suốt ngày / (Hết vườn sau ngõ trước).

Có một ruika (loại ca, bài ca tương tự) mang số 10-1925 với nội dung như sau:



朝戸出の君が姿をよく見ずて長き春日を恋ひや暮らさむ

Asa to de no / kimi ga sugata wo / yoku mizu te / nagaki haru hi wo / koi ya kurasamu (san) /

(Sáng ra không thấy bóng anh bước ra cửa nên suốt một ngày xuân dài dằng dặc, em cứ sống trong nhớ nhung)

12-2943

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

我命之 長欲家口 偽乎 好為人乎 執許乎

Dạng huấn độc (đã chua âm):

我が命の長く欲しけく偽りをよくする人を捕ふばかりを

Phiên âm:

Wa ga inochi no / nagaku hoshikeku / itsuwari wo / yoku suru koto wo / torafu bakari wo



Diễn ý:

Sở dĩ em khẩn cầu sao cho mình sống được lâu cũng chỉ vì một lý do thôi. Đó là để nhằm bắt cho được cái anh chàng nói dối như cuội, cứ bảo sẽ đến thăm em mà chẳng bao giờ cho thấy mặt.

Anh chàng chắc hứa hẹn cưới nàng nhưng không thành thực và đã chạy làng. Đây là mũi tên nhắm bắn vào kẻ thiếu chung thủy đó.

Tạm dịch thơ:

Em mong được sống lâu / Nào có ý gì khác / Muốn tóm được cái người / Chỉ có tài khoác lác / Nào thương em, nhớ em / Mà chẳng hề chường mặt!

12-2999



Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

水乎多 上尓種蒔 比要乎多 擇擢之業曽 吾獨宿

Dạng huấn độc (đã chua âm):

水を多み上田に種蒔き稗を多み選らえし業ぞ我がひとり寝る

Phiên âm:

Mizu wo ômi / age ni tane maki / hie wo ômi / eraeshi nariso (waza zo) / wa ga hitori nuru /



Diễn ý:

Dưới ruộng thấp (kubota) nhiều nước quá, người ta mới gieo hạt ở ruộng trên (ageta). Thế nhưng lúa ở đó bị giống lúa xấu (hie, barnyard grass) mọc chen vào quá nhiều, họ vạch được lúa xấu ấy ra và nhổ đem vứt. Người con gái ấy cũng lựa lọc, nhổ ta đem vứt đi để cho bây giờ khố thân ta phải ngủ một mình (hitorine).

Một bài thơ phảng phất hương vị đồng ruộng và qua sự ví von, diễn tả sinh hoạt phức tạp của nhà nông một cách giản dị gọn ghẽ.

Tạm dịch thơ:

Khi ruộng thấp úng nước / Nhà nông gieo ruộng cao / Nếu lúa xấu chen mất / Nhổ ra vứt chứ sao / Như ta bị nàng loại / Ôm gối buồn canh thâu!

12-3034
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):
吾妹兒尓 戀為便名鴈 る乎熱 旦戸開者 所見霧可聞

Dạng huấn độc (đã chua âm):

我妹子に恋ひすべながり胸を熱み朝戸開くれば見ゆる霧かも

Phiên âm:

Wagimo ko ni / koi subenagari / mune wo atsumi / asa to akureba / miyuru kiri kamo /

Diễn ý:

Yêu em quá đỗi không biết làm sao đây. Trong đêm, lửa tình nhen nhúm, cả người nóng bỏng. Có phải vì thế mà khi buổi sáng dậy sớm mở của ra ngoài thì hơi thở đã bốc khói trắng như làn sương?

Có thể tác giả dang tả quang cách một ngày đông giá. Khi nhìn hơi thở bốc ra như làn khói mỏng, người ấy đã liên tuởng đến khối niềm khao khát yêu đương của mình.

Tạm dịch thơ:

Yêu người yêu quá đổi / Lòng ta nóng như thiêu / Buổi sáng ra mở cửa / Hơi thở trắng sương chiều / Có phải làn khói bốc / Từ đám cháy tình yêu /

Sau đây là những bài thơ làm theo dạng hát đối đáp (mondôka問答歌) giữa hai bên trai gái:



12-3101

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

紫者 灰指物曽 海石榴市之 八十街尓 相兒哉誰

Dạng huấn độc (đã chua âm):

紫は灰さすものぞ海石榴市の八十の街に逢へる子や誰れ

Phiên âm:

Murasaki wa / hai sasu mono zo / Tsubaichi no / yaso no chimata ni / aeru ko ya tare /

Diễn ý:

Em ơi, em là người tôi tình cờ gặp ở ngã tư nơi phố chợ tên là Tsubaichi, em từ đâu đến thế em? Ta muốn hỏi tên em đó, em ơi!



Murasaki wa hai sasu mono, nguyên cụm từ đó là jokotoba (tự từ) trang sức cho địa danh Tsubaichi, tên một cái chợ, có ý “màu tím là màu làm thuốc nhuộm lấy từ than của cây tsubaki” (tức cây hoa trà và trùng với chữ tsuba trong Tsubaichi). Khi tác giả hỏi tên một người con gái không quen không biết như thế có nghĩa đã bị tiếng sét ái tình và những muốn cầu hôn. Có thuyết cho rằng đây là một bài hát đối đáp của trai gái ở utagaki (ca viên, tên gọi các địa điểm hát đối đáp giữa trai gái đời xưa).



Hoa trà (tsubaki) (Nguồn Wikipedia)

Tạm dịch thơ:

Tình cờ anh được gặp / Giữa chợ Tsubaki / Người đẹp như hoa vậy / (Bảo ai đành lòng đi ) / Cho anh biết nhà cửa / Và tên họ là chi! /

12-3102

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

足千根乃 母之召名乎 雖白 路行人乎 孰跡知而可

Dạng huấn độc (đã chua âm):

たらちねの母が呼ぶ名を申さめど道行く人を誰れと知りてか

Phiên âm:

Tarachi ne no / haha ga yobuna wo / maosamedo / michiyuku wo / tare to shiri te ka /



Diễn ý:

Muốn cho anh biết cái tên mà mẹ hay gọi em (tên thân mật trong nhà) lắm đấy chứ ! Thế nhưng khách qua đường như anh thì ai biết là cha căng chú kiết (doko no uma no hone) nào đâu mà phải xưng tên anh nghe.



Tạm dịch thơ:

Em muốn cho anh biết / Tên mẹ gọi em sao / Nhưng anh là khách lạ / Gốc gác như thế nào / Em đâu đã nắm được / Dễ gì lòng đem trao /
12-3105
Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

人目太 直不相而 盖雲 吾戀死者 誰名将有裳

Dạng huấn độc (đã chua âm):

人目多み直に逢はずてけだしくも我が恋ひ死なば誰が名ならむも

Phiên âm:

Hitome ômi / tada ni awazu te / kedashiku mo / wa ga koi shinaba / tare ga naramu (naran) mo /

Diễn ý:

Vì cặp mắt người đời, em không cho anh được gặp trực tiếp. Lòng anh u uất, một mình khô héo chắc chết đến nơi. Do đó, anh đây muốn tung tên cái người nào đó ra cho thiên hạ biết hết. Không phải tên em thì tên ai giờ.



Tạm dịch thơ:

Ngại người đời dòm dỏ / Em không cho đến gần / Lòng anh những khô héo / Sắp chết trong lặng câm / Để anh gieo tiếng dữ / Cho cô mình biết thân?

Đây là bài thơ có chút ít ý muốn đe dọa vì biết tâm lý đàn bà vốn hay sợ miệng thế gian. Anh chàng con trai vì hận người yêu ít chịu cho mình gặp. Tuy vậy nàng con gái còn đáo để hơn thế nữa như thấy trong bài phúc đáp kế tiếp.



12-3106

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

相見 欲為者 従君毛 吾曽益而 伊布可思美為也

Dạng huấn độc (đã chua âm):

相見まく欲しきがためは君よりも我れぞまさりていふかしみする

Phiên âm:

Aimi maku / hoshiki ga tameba / kimi yori mo / ware somasari te / iu ka shimisuru

Diễn ý:

Anh nói chi mà ngược đời . Chính em mới là người muốn tìm gặp anh chứ. Dạo này em còn thấy mình u uất hơn cả anh nữa. Em sẽ chết trước mất và người mang tiếng bạc bẽo với đời là anh thôi ạ.



Tạm dịch thơ:

Nói chi mà ngược đời / Hay anh lại đùa dai / Người sống trong sầu khổ / Chỉ có mình em thôi / Một mai nếu em chết / Anh ráng chịu người cười /

Người con gái tỏ ra rất từng trải, biết cách đối đáp thế nào với đàn ông, làm chàng ta bắt buộc phải nghĩ lại.



12-3111

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

為便毛無 片戀乎為登 比日尓 吾可死者 夢所見哉

Dạng huấn độc (đã chua âm):

すべもなき片恋をすとこの頃に我が死ぬべきは夢に見えきや

Phiên âm:

Sube mo naki / katakoi wo su to / kono koro ni / wa ga shinu beki wa / ime ni mieki ya



Diễn ý:

Người mắc bệnh tương tư khô héo khổ sở sắp chết đến nơi không cách nào thoát là em đây. Trong chiêm bao anh có thấy điều đó hay chăng ?

Trường hợp người con gái này thì khác, cô ta dùng phương pháp thậm xưng để bày tỏ nỗi lòng.

Tạm dịch thơ:

Làm cách nào thoát thân / Khỏi lưới tình vây bủa / Hình ảnh em héo hon / Và chết trong đau khổ / Trong giấc mộng của chàng / Có bao giờ hiện rõ?/

Sau đây là bài thơ đáp lại:



12-3112

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

夢見而 衣乎取服 装束間尓 妹之使曽 先尓来

Dạng huấn độc (đã chua âm):

夢に見て衣を取り着装ふ間に妹が使ぞ先立ちにける

Phiên âm:

Ime ni mite / koromo wo toriki / yosou ma ni / imo ga tsukai zo / sakidachi ni keru /

Diễn ý:

Vâng, anh thấy em (trong giấc mộng của anh) rồi chứ! Vì vậy anh mới lấy làm ngạc nhiên và tìm đến thăm bệnh em ngay. Trong khi đang sửa soạn thay quần áo thì gặp lúc người nhà của em đến đưa tin anh biết đấy. (Thế nào cô nàng đã khỏe ra chưa?)



Tạm dịch thơ:

Trong giấc mộng của anh / Em hiện hình tiều tụy / Nên mới thay áo quần / Định thăm em yêu quí / Vừa lúc người nhà em / Trao cho tờ thư đấy!

Anh chàng quả thật nhanh trí, lợi dụng bài thơ nàng gửi đến để trả lời thật ăn khớp. Nếu cô gái tin anh thì cô đã mắc lỡm vậy.



12-3113

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

在有而 後毛将相登 言耳乎 堅要管 相者無尓

Dạng huấn độc (đã chua âm):

ありありて後も逢はむと言のみを堅く言ひつつ逢ふとはなしに

Phiên âm:

Ariari te / nochi mo awamu (awan) to / koto nomi wo / kataku iitsutsu / au to hanashi ni /



Diễn ý:

Anh đã bao nhiêu lần mở miệng hẹn thề bảo em cứ để nguyên tình trạng này, sau rồi thế nào mình cũng có cơ hội gặp gỡ, đi lại. Sự thực, anh có bao giờ đến với em đâu. Người sao mà không thể tin tưởng được.



Tạm dịch thơ:

Ngọt ngào anh hẹn ước / Cứ để thế nghe em / Mai sao mình chắc chắn / Hạnh phúc sống kề bên / Nói vậy mà không đến / Lời anh nào ai tin /

Lời kháng nghị nhẹ nhàng như của cô gái nhà lành, phản ứng lại trước hành động không thực thà của anh con trai từng thỏ thẻ bên tai cô những câu hứa hẹn.



12-3114

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):
極而 吾毛相登 思友 人之言社 繁君尓有

Dạng huấn độc (đã chua âm):

ありありて我れも逢はむと思へども人の言こそ繁き君にあれ

Phiên âm:

Ariari te (kiwamari te) / ware mo awamu (awan) to / omoedomo / hito no koto koso / shigeki kimi ni are /

Diễn ý:

Anh định bụng sẽ đi gặp em đúng như lời đã hứa đấy chứ nhưng ngại tiếng người đàm tiếu phương hại đến em. Nào có phải anh không tiếc đâu em!

Quả thật anh chàng này đáng giật giải quán quân về cách ăn nói đường mật.

Tạm dịch thơ:

Quyết tâm đến với em / Đúng như lời đã hứa / Nhưng ngại tiếng người đời / Làm tổn thương em nữa / Đành phải chịu xa nhau / Lòng không nguôi tiếc nhớ!

12-3117

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

門立而 戸毛閇而有乎 何處従鹿 妹之入来而 夢所見鶴

Dạng huấn độc (đã chua âm):

門立てて戸も閉したるをいづくゆか妹が入り来て夢に見えつる

Phiên âm:

Kado tatete / to mo sashite aru wo / izuku yuka / imo ga irikite / ime ni mietsuru



Diễn ý:

Lạ lùng thay, tối hôm qua anh nhớ chính mình đã đóng cả cổng lẫn cửa kia mà. Cớ sao em có thể tìm đến để đi vào trong giấc mộng của anh được. Nói nghe, em đã đi vào bằng lối nào?

Qua câu thơ này, người con trai có ý bỡn người con gái.

Tạm dịch thơ:

Lạ làm sao tối qua / Đã khóa cổng, then nhà / Mà em còn vào được / Trong mộng hồn của ta / (Em của anh giỏi thật) / Lối ấy khéo tìm ra. /

Còn sau đây là lời cô gái đáp lại:



12-3118

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

門立而 戸者雖闔 盗人之 穿穴従 入而所見牟

Dạng huấn độc (đã chua âm):

門立てて戸は閉したれど盗人の穿れる穴より入りて見えけむ

Phiên âm:

Kado tatete / to wa sashitaredo / nusubito no / horeru ana yori / irite miekemu /



Diễn ý:

Anh nói đúng đấy, cửa nẻo nhà anh đều được đóng kỹ càng nhưng em chỉ cần chui vào cái lỗ bọn ăn trộm đã đào sẳn là đến nơi. Chắc trong mộng của anh, anh phải thấy tất cả sự việc chứ!

Cô gái biết tương kế tựu kế đáp lại người đàn ông. Rõ ràng nàng là người có tinh thần hài hước. Ý tưởng “chui lỗ trộm đào mà vào” khá mới mẽ.

Tạm dịch thơ:

Như anh nói chẳng sai / Cửa đóng kỹ, then gài / Nhưng em chui bằng lỗ / Trộm mới đào bên ngoài / Ô kìa, trong mộng đẹp / Lẽ nào anh không hay!

Để thay đổi không khí, xin trình bày vài bài thơ cùng tập 12 nói về tình cảm nầy sinh trên bước đường du lịch (kiryo no omoi) và thơ ly biệt (wakare-uta):



12-3154

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

乞吾駒 早去欲 亦打山 将待妹乎 去而速見牟

Dạng huấn độc (đã chua âm):

いで我が駒早く行きこそ真土山待つらむ妹を行きて早見む

Phiên âm:

Ide a ga koma / hayaku yuki koso / Matsuchiyama / matsu ramu (ran) imo wo / yukite wa hayamimu /

Diễn ý:

Này, hỡi chú ngựa ta đang cưỡi! Hãy chạy nhanh lên nào. Qua khỏi hòn núi Matsuchi này là đến nơi thôi. Phóng cho gấp đến ngôi nhà mà vợ ta đang tựa cửa chờ đợi ta nhé !

Đây là bài tiêu biểu trong loại saibara (thôi mã nhạc), hay “bài hát giục ngựa đi nhanh” nhưng trong thực tế thường được hợp ca kèm theo nhạc khí như tiêu, trúc, tì bà. Người làm ra bài thơ này đang ở trên đường đi từ xứ Kii về cố hương Yamato, đến vùng đất có ngọn Matsuchi án ngữ. Bài này có nhịp điệu dồn dập, tương ứng với lòng nhớ thương quê (qui tâm) của tác giả. Nên nhớ tên núi Matsuchi còn có nghĩa là “chốn đợi chờ” (matsu tsuchi). Ngoài ra khi lập đi lập đi lập lại những âm haya (nhanh), yuki (đi), matsu (đợi), tác giả đã tạo nên một không khí thôi thúc, rộn ràng.

Tạm dịch thơ:

Này ngựa ta đang cưỡi / Chú phóng nhanh đi thôi / Chỉ còn một khúc nữa / Đến nhà vợ ta rồi / Chắc bên kia hòn núi / Nàng hết đứng lại ngồi.

12-3180

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

浦毛無 去之君故 朝旦 本名焉戀 相跡者無杼

Dạng huấn độc (đã chua âm):

うらもなく去にし君ゆゑ朝な朝なもとなぞ恋ふる逢ふとはなけど

Phiên âm:

Ura mo naku / inishi kimi yue / asa nasana / moto na zo kouru / au to wa nakedo /

Diễn ý:

Con người bạc tình không thể tha thứ được đó đã lên đường du hành mất rồi. Có biết không mỗi khi trời về sáng em cứ nghĩ đến và nhớ thương chàng.Tuy em không biết đến bao giờ mình mời gặp lại nhau đây.

Cò thể đối tượng là một nguời đàn ông nhận lệnh trên phải lên đường phó nhậm ở địa phương và vì không muốn người ngoài thấy sự yếu mềm, đã phải cương quyết cắt đứt mối ràng buộc tình cảm. Do đó tác giả mới đề cập đến thái độ lãnh đạm (bạc tình)..

Tạm dịch thơ:

Bạc tình ơi bạc tình / Người cất bước lữ hành / Để mỗi đêm về sáng / Lòng em thương nhớ mình / Dẫu ôm niềm tuyệt vọng / Bao giờ thấy bóng hình? /

12-3182

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

白妙之 袖之別者 雖<> 思乱而 赦鶴鴨

Dạng huấn độc (đã chua âm):

白栲の袖の別れは惜しけども思ひ乱れて許しつるかも

Phiên âm:

Shirotae no / sode no wakare wa / oshikedomo / omoi midarete / yurushi tsuru kamo /



Diễn ý:

Bởi em cảm thấy tiếc nuối nếu phải chia tay với anh nên em mới giữ chặt tay áo anh, không cho đi.Thế nhưng nỗi buồn chia tay trào dâng không cầm lại được khiến cho em lung túng vuột mất nó và để anh đi mất. Ôi, tiếc hận biết bao.

Người chồng mà mình trông cậy phải lên đường nên cô gái không muốn cho chàng chi. Nhưng vì trào xúc cảm khó nén, nàng lúng túng buông tay chàng lúc nào không biết và để chàng đi mất dạng. Cô chỉ còn biết thở than.

Shirotae (đẹp như sa trắng) là từ tu sức cho chữ sode (ống tay áo)



Tạm dịch thơ:

Chia ly lòng tiếc nuối / Níu chặt tay áo người / Lúng túng vì sầu khổ / Lại vuột mất anh rồi / Từ khi xa biền biệt / Em tiếc hận bao nguôi /

12-3183

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):

京師邊 君者去之乎 孰解可 言紐緒乃 結手懈毛

Dạng huấn độc (đã chua âm):

都辺に君は去にしを誰が解けか我が紐の緒の結ふ手たゆきも

Phiên âm:

Miyakobe ni / kimi wa inishi wo / ta ga toke ka / wa ga himo no o no/ yuu te tayuki mo /

Diễn ý:

Anh lên đường đi về hướng kinh đô, mình không có dịp gặp nhau được nữa. Thế mà dường như có ai cởi mà giải giây lưng của em lâu lâu có vẻ lỏng lẻo ra. Thường thì giây lưng lỏng ra là chứng cứ là có ai đang nghĩ về mình đó. Phải chăng nơi kinh đô, anh đang nhớ em không?

Người vợ ở lại chốn khuê phòng nơi quê nhà trong khi chồng nàng lên kinh đô. Nàng bày tỏ tấm tình quyến luyến. Nỗi nhớ chồng thật thực thà chất phác.

Tạm dịch thơ:

Anh lên chốn kinh đô / Gặp nhau biết bao giờ / Nhưng sao thắt lưng lại / Chợt lỏng ra không ngờ / Hay nơi ấy anh nhớ / Người em khoác áo chờ?

12-3191

Nguyên văn (dạng Man.yôgana):



tải về 0.86 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương