Chương 1: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá tới ngoại thương



tải về 0.89 Mb.
trang6/11
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích0.89 Mb.
#3959
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Mốc thời gian

Tỷ giá KTNB (USD/VND)

Tỷ giá chính thức (USD/VND)

% Tăng, giảm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

1958

4,21

3,59

100

100

1959

4,21

3,59

131,52

148,03

1961-1966

4,21

2,94

101,26

111,6

1967-1970

5,08

3,75

67

112,83

1971-1972

5,08

2,71

128,72

107,7

1973-1974

4,21

2,44

165,6

133,66

1975-1980

3,84

1,85

116,98

112,88

1981-1984

12

9

118,49

105,17

1985

15

15

107,53

106,44



Nguồn: Tổng hợp trên số liệu Vụ ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước

Trong suốt giai đoạn 1958-1985, có thể nhận thấy tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh một vài lần trong đó tỷ giá kết toán nội bộ thường xuyên được áp đặt cao hơn tỷ giá chính thức. Bảng 3 cho thấy xu thế tăng giảm của tỷ giá thời kỳ 1958 đến 1975 không kéo theo mức giảm, tăng của xuất khẩu như quy luật chung. Năm 1966, tỷ giá giảm từ 4,21 đồng/đôla xuống 5,08 đồng/đôla song xuất khẩu lại không tăng trưởng, thậm chí còn sụt giảm 33% so với năm trước. Xu thế này cho thấy hiện tượng tăng giảm của tốc độ xuất nhập khẩu không phụ thuộc nhiều vào tỷ giá hay nói đúng hơn xuất nhập khẩu vận hành trên một quỹ đạo độc lập với tỷ giá.

Nguyên nhân chủ yếu là do tỷ giá kết toán nội bộ không được xây dựng dựa trên ngang giá sức mua do đó không phản ánh đúng sự vận động thương mại giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, với mục tiêu xây dựng và thống nhất đất nước, với tình cảnh kinh tế vừa được khôi phục đã bị kẻ địch tàn phá nên nhu cầu nhập khẩu phục vụ tiêu dùng, chiến đấu không hề giảm sút, tỷ giá thực của đồng nội tệ dù có giảm đến bao nhiêu chăng nữa thì nhập khẩu vẫn tăng lên. Viện trợ không hoàn lại cũng như tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn trong nhập khẩu. Viện trợ năm 1975 lên đến 50% kim ngạch nhập khẩu, khoản nợ giai đoạn 1955-1975 đã lên đến 5,5 tỷ Rúp/đôla. Nền kinh tế phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu, hệ thống sản xuất công nghiệp trong nước những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 thế kỉ trước tưởng chừng sẽ bị tê liệt nếu không có động lực nhập khẩu trợ giúp. Cán cân thương mại mất cân đối nghiêm trọng, các mặt hàng nhập khẩu trải dài từ máy móc thiết bị cho đến hàng tiêu dùng thiết yếu như gạo, vải, xà bông...

Giai đoạn 1980-1985, tỷ giá chính thức cũng như tỷ giá kết toán nội bộ lệch rất xa khỏi trục tỷ giá thực, nền kinh tế lâm vào tình trạng bất ổn, chính sách tài chính-tiền tệ tỏ ra không hiệu quả, tỷ giá bắt đầu tác động tiêu cực lên hoạt động ngoại thương. Trong khi kinh tế toàn cầu bước vào chu kỳ tăng trưởng với sự xuất hiện hàng loạt các nước công nghiệp mới, sức mua của thế giới tăng mạnh dẫn đến giá trị đồng tiền các quốc gia tư bản phát triển trên thế giới tăng cao thì Việt Nam chúng ta vẫn “cò cưa” chế độ bao cấp tem phiếu, khủng hoảng trầm trọng kéo theo sản xuất trong nước bị đình đốn. Giá trị thực của đồng Việt Nam giảm sút, nếu đúng theo qui luật cung-cầu tiền tệ, đồng Việt Nam sẽ bị mất giá mạnh. Thế nhưng, tỷ giá kết toán nội bộ của chúng ta vẫn được giữ cố định ở mức dao động trung bình từ 10 đến 15 VND/đô la, tình trạng này đã khiến đồng Việt Nam bị định giá cao hơn nhiều lần so với các đồng tiền khác trên thị trường thế giới. Trên thị trường chợ đen, tỷ giá liên tục leo thang và tình trạng này lập tức đã tác động rất xấu đến hoạt động xuất khẩu. Các nhà xuất khẩu thay vì kết hối toàn bộ số tiền thu được từ hoạt động xuất khẩu đã bằng mọi cách giấu giếm để có thể quay sang bán ăn chênh lệch trên thị trường chợ đen. Có thể nói, sự chênh lệch ngày một lớn giữa tỷ giá chính thức, tỷ giá kết toán nội bộ và tỷ giá thị trường đã thủ tiêu động lực xuất khẩu, khiến giá trị xuất khẩu tăng chậm, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu cơ hối đoái, làm xuất hiện cơ chế phá giá ngầm đồng nội tệ cũng như đẩy nhanh tốc độ lạm phát. Năm 1985, mức chênh lệch đã lên đến đỉnh điểm, đạt 666,6%, đây cũng là năm có mức nhập siêu cao nhất 1.158,9 triệu Rúp/đôla (21).

Nói tóm lại, thời kỳ 80-85, tỷ giá hối đoái tác động lên hoạt động ngoại thương chủ yếu thông qua biểu hiện kim ngạch xuất nhập khẩu; tỷ giá không tác động gì mấy đến cơ cấu hàng xuất-nhập khẩu do sản xuất trong nước còn nghèo nàn chủ yếu dựa vào viện trợ. Mặt khác, tỷ giá cũng không có tác dụng mở rộng hay thu hẹp thị trường bởi việc trao đổi, buôn bán với Liên Xô là yếu tố bắt buộc trong điều kiện bị bao vây, cấm vận kinh tế. Xét một cách khách quan thì tỷ giá hối đoái không phải là nhân tố duy nhất đẩy ngoại thương Việt Nam đến bên bờ vực thẳm bởi ngoại thương hoạt động không chỉ dựa vào tỷ giá mà còn dựa vào hàng loạt các luật lệ, quy tắc mà yếu tố chi phối chủ đạo là nguyên tắc độc quyền ngoại thương. Song chế độ đa tỷ giá với việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ một cách cứng nhắc, không tuân theo quy luật quốc tế trong thu-chi dù sao cũng đã gây rất nhiều khó khăn trong công tác điều hành quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước nói chung cũng như kìm hãm hoạt động xuất khẩu nói riêng.

2.2.2. Giai đoạn sau đổi mới 1986:

2.2.2.1. Giai đoạn 1986-1989:

Trong vòng ba năm kể từ sau đổi mới 86, mặc dù cơ chế quan liêu bao cấp đã bị xóa bỏ cùng với sự ra đi của chế độ độc quyền ngoại thương song quan điểm chỉ đạo trong quản lý tỷ giá vẫn là cố định tỷ giá, chế độ đa tỷ giá vẫn tồn tại. Giải thích cho vấn đề này có thể do tỷ giá là nhân tố nhạy cảm, việc thay đổi đột ngột tỷ giá có thể sẽ dẫn đến khủng hoảng tiền tệ nghiêm trọng, bên cạnh đó việc mở cửa kinh tế trong khi những kiến thức thực tế về tỷ giá hối đoái vẫn còn khiêm tốn đã vô tình tước đi sự “tự do” của tỷ giá.

Xét trên góc độ thực tế điều hành tỷ giá, tỷ giá kết toán nội bộ vẫn được xem là đứa con ruột của hoạt động ngoại thương Việt Nam và tỷ giá này lại tiếp tục cái công việc xói mòn hoạt động ngoại thương như nó đã từng làm trước đây. Càng ngày, tỷ giá kết toán nội bộ càng lệch xa tỷ giá thị trường, việc không tính đến mức độ trượt giá trong ấn định tỷ giá đã khiến ngân sách phải liên tục bù lỗ hàng xuất khẩu, càng xuất lại càng lỗ. Tính chung thời kì 1986-1989, trên thị trường, 1Rúp mua được trên dưới 1500VND hàng xuất khẩu, 1 USD được khoảng 3000VND thì tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán quan hệ xuất-nhập cố định ở mức lần lượt là 150 VND/Rúp và 225 VND/USD. Điều này có nghĩa là 1 Rúp hàng xuất khẩu, Nhà nước phải bù lỗ 1350VND và 1 USD phải bù 2775 VND. Năm 1987, cả nước xuất khẩu được 650 triệu Rúp/đô la trong đó khu vực đồng Rúp là 500 triệu, khu vực đồng đô la là 150 triệu thì ngân sách nhà nước đã phải bù lỗ hơn 900 tỷ(50). Việc các ngành, các địa phương càng cố gắng xuất khẩu nhiều để thực hiện nghĩa vụ với các nước bạn đồng nghĩa với việc Nhà nước càng phải bù lỗ xuất khẩu. Khi Ngân sách Nhà nước không đủ bù lỗ thì nợ giữa các doanh nghiệp, các ngành tham gia hoạt động ngoại thương tăng lên do vấn đề chậm trễ trong thanh toán; vốn phục vụ kinh doanh, thu mua nông sản thiếu hụt kéo theo sự giảm sút trong sản xuất hàng xuất khẩu.

Đối với hoạt động nhập khẩu, thực chất Nhà nước vẫn đứng ra phân phối cho các ngành kinh tế quốc dân vật tư, nguyên vật liệu với mức giá thấp theo tỷ giá kết toán nội bộ kể trên và vẫn áp dụng chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương. Việc áp dụng tỷ giá nhập khẩu đối với một số loại mặt hàng, nhóm hàng trong khi không bao quát được tổng thể mặt bằng giá cả hàng hóa đã khiến xảy ra tình trạng 1 xe xúc than Bella loại 20 tấn của Liên Xô giá 500 đồng bằng giá một xe môtô cũ. Bên cạnh đó, tình cảnh bù lỗ nhập khẩu diễn ra tương tự như đối với xuất khẩu. Năm 1988, giá trung bình 1kg bông nhập khẩu trên thị trường các nước là 4500 đồng trong khi giá nhập khẩu của Việt Nam chỉ dừng ở mức 3000đồng/kg, sở dĩ có mức giá rẻ như vậy là do mức giá này được tính từ mức tỷ giá 630 đồng/Rúp. Và mỗi một cân bông, nhà nước phải bù lỗ khoảng 1500 đồng. Đối với các mặt hàng khác như phân bón, lúa gạo... tình cảnh cũng diễn ra tương tự. Việc bù lỗ liên tục đối với hoạt động xuất nhập khẩu cũng như cách áp đặt cứng nhắc tỷ giá đã khiến ngoại thương Việt Nam không phát huy được vai trò của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế, càng đẩy mạnh xuất khẩu, nhập siêu càng nghiêm trọng. Việc tạo ra tỷ giá chính thức, tỷ giá kết toán nội bộ với mục đích hoang đường là ổn định hoạt động kinh tế đối ngoại đã bóp nghẹt động lực cũng như tính sáng tạo trong sản xuất và phát triển hoạt động xuất nhập khẩu.

Có thể nói, trong thời kỳ 86-89 này, cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ đã làm nảy sinh hai khuynh hướng chủ đạo trong việc điều hành và bù lỗ hoạt động xuất nhập khẩu. Một là nếu thực hiện đúng như cam kết giao hàng đối với nước bạn thì lỗ hàng xuất khẩu nảy sinh rất lớn nhưng nếu trì hoãn lại nghĩa vụ giao hàng thì nợ đọng lại tăng lên kéo theo tăng nghĩa vụ xuất khẩu để trả nợ. Hai là do tỷ giá được ấn định thấp nên các tổ chức kinh tế được quyền xuất khẩu có ngoại tệ không bán lại cho ngân hàng như quy định vì sợ mất lãi mà quay sang buôn bán trên thị trường chợ đen. Cả hai khuynh hướng này đều làm rối loạn hoạt động ngoại thương, khiến xuất khẩu trở nên tiêu điều, cán cân thương mại nhập siêu nghiêm trọng, đặt công tác điều hành và quản lý tỷ giá trước sức ép phải được đổi mới.

2.2.2.2. Giai đoạn 89-92: Giai đoạn phá giá mạnh đồng nội tệ

Phát súng đầu tiên trong đổi mới tỷ giá chính là chỉ thị 271-CT ban hành tháng 10/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với nội dung xác lập một mức tỷ giá đồng Việt Nam đối với khu vực ngoại tệ chuyển đổi phù hợp với mức tỷ giá thị trường trong biên độ dao động 10-20%. Tháng 3/1989, nhà nước bãi bỏ hệ thống tỷ giá kết toán nội bộ, tiến tới thực hiện thống nhất một mức tỷ giá duy nhất cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế gọi là tỷ giá chính thức. Đây là một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển ngoại thương Việt Nam, động lực phát triển ngoại thương dần được khôi phục, kinh tế Việt Nam nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đã bước sang một trang mới.



Cùng với việc ban hành các chỉ thị, các quan điểm điều hành tỷ giá được các nhà quản lý đưa ra. Vấn đề chủ yếu gây tranh cãi đó là giai đoạn 89-92 có phải là giai đoạn phá giá đồng Việt Nam hay không? Theo đa số các nhà nghiên cứu kinh tế trong và ngoài nước, giai đoạn 1989-1992 được xem là thời kỳ Việt Nam phá giá mạnh đồng tiền của mình, thế nhưng cũng có quan điểm cho rằng phá giá phải là đánh tụt sức mua hàng hóa so với giá trị thực của nó, tức phá giá thực sự phải tác động đến tỷ giá thực chứ không phải tỷ giá danh nghĩa. Nếu hiểu theo quan niệm này thì có thể xem giai đoạn 1989-1992 là giai đoạn giảm mạnh giá trị danh nghĩa đồng nội tệ chứ chưa đến mức phá giá. Nhưng dù theo quan niệm nào thì ngay lập tức, tỷ giá hối đoái cũng đã thể hiện vai trò của nó trong thúc đẩy hoạt động ngoại thương trên tất cả các phương diện từ kim ngạch cho đến cơ cấu, thị trường xuất nhập khẩu. Một nền kinh tế mở với nhịp tăng trưởng nhanh chóng trong đầu tư nước ngoài, kinh tế tư nhân được cởi trói...đã tạo môi trường thuận lợi cho tỷ giá hối đoái phát huy “sứ mệnh cao cả” của mình.

Bảng 4: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1992

Năm

Tỷ giá chính thức (USD/VND)

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Cán cân thương mại

Tỷ giá thị trường (USD/VND)

Mức tỷ giá

(đồng)

%Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Giá trị (triệu USD)

% Tăng, giảm

Mức tỷ giá

(đồng)

% Tăng, giảm

1986

80

100

789,1

100

2155,1

100

-1366

100

425

369,56

1987

368

460

854,2

108,25

2455,1

113,92

-1600,9

117,20

1270

298,82

1988

3000

815,21

1038,4

121,56

2756,7

112,29

-1718,3

107,33

5000

393,70

1989

3900

130

1320

127,12

2565,8

93,08

-1245,8

72,50

4100

82

1990

6300

161,54

2404

182,12

2752,4

107,27

-348,4

27,96

6500

158,54

1991

9767

155,03

2087,1

86,82

2338.4

84,96

-251,3

72,13

11975

184,23

1992

10720

109,75

2580,7

123,65

2540,7

108,65

40

-15,92

10550

88,1

Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê
Bảng 4 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng nội tệ đã giảm xuống 10720 đồng/đôla năm 1992; trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần 4 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các quốc gia bao gồm cả những nước tư bản phương tây.

Có thể dễ dàng nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng nặng. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ thì sang năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không những không kích thích được ngoại thương mà còn đẩy hoạt động này đến tình cảnh nhập siêu trầm trọng hơn.

Thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 (trong khi giai đoạn 89-92, chỉ số co giãn này đạt 0,46) một chỉ số quá thấp thể hiện nền kinh tế tăng trưởng không bền vững hay đúng hơn là không tăng trưởng. Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất đi luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập về nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1989. Lý do cơ bản giải thích cho vấn đề này chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng nổi.

Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá, bộ mặt ngoại thương lập tức có biến chuyển rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).

Mặt khác, do tỷ giá chính thức được điều chỉnh tiến sát với tỷ giá thị trường, hình thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ nét hơn, chính xác hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá, thể hiện xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong bốn năm 1989-1992 yếu tố nổi bật trong tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu là mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm. Đơn cử như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức thu hẹp mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.

Đặc biệt, sự kiện tỷ giá danh nghĩa giảm thấp hơn 7,04% so với tỷ giá thị trường cuối năm 1991 cộng với quyết định bãi bỏ “tỷ giá nhóm hàng” trong thanh toán ngoại thương năm 1992 đã khiến ngoại thương Việt Nam xuất siêu liên tục trong 6 tháng đầu năm 1992. Kết thúc năm 1992, cán cân thương mại thặng dư 40 triệu đô la. Nguyên nhân xuất siêu do tỷ giá năm 1992 là hoàn toàn rõ ràng bởi tại thời điểm 92 giá thành sản xuất hàng Việt Nam còn cao, chất lượng còn kém, công tác xúc tiến thương mại cũng chưa được ý thức triệt để và khi ấy, cạnh tranh về giá được xem là yếu tố duy nhất đưa ngoại thương Việt Nam đạt thành tích kể trên. Nếu đầu năm 1991, buôn lậu qua biên giới Việt-Trung tăng mạnh do hàng hóa của Trung Quốc được duy trì ở mức giá thấp hơn nhiều so với mức giá hàng hóa của chúng ta thì cuối năm 1991, khi đồng Việt Nam bị phá giá mạnh so với đô la 50% từ khoảng 7000VND/đô la xuống 14500 VND/đô la thì tỷ giá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt giảm mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã kéo theo tình trạng giá hàng Trung Quốc bị đội cao, gặp khó khăn trong tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Và thế là với chiến lược thâm nhập thị trường Trung Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhiều mặt hàng nhờ lợi thế về giá đã cạnh tranh được với mặt hàng Trung Quốc như bóng đèn, phích nước, đồ sứ dân dụng, bia, sữa, mì ăn liền, máy nổ, động cơ điện...

Xét về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1992, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá đồng nội tệ, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD. Bên cạnh đó, việc tỷ giá giảm mạnh kéo theo sự tăng lên đáng kể trong đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp đã làm phong phú hơn danh mục xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc liên doanh thường dẫn đến tình trạng góp vốn thông qua công nghệ và thế là Việt Nam bắt đầu nhập về những công nghệ mới như công nghệ dán da, công nghệ xử lý chất thải...những công nghệ từ trước tới nay chưa từng có trong danh mục nhập khẩu để rồi đi đến sản xuất những chủng loại hàng có thể cũng chưa bao giờ xuất hiện trong danh mục xuất khẩu. Ví như năm 1991, xí nghiệp mì ăn liền Hà Nội liên doanh với Vifon Sài Gòn đã nhập một dây chuyền sản xuất mì ăn liền phục vụ xuất khẩu trị giá 600 ngàn đô la Mỹ, đưa công suất tăng gấp ba lần, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và đã xuất khẩu được 150000 thùng.

Về thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ đạo, thay vào đó là sự lên ngôi của thị trường Châu Á trong hợp tác thương mại với Việt Nam trên cả lĩnh vực xuất khẩu lẫn nhập khẩu.

Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thời kỳ này do có lợi thế về giá cộng với rủi ro tỷ giá hoàn toàn không có nên đã yên tâm phát triển sản xuất, mạnh bạo hơn trong vấn đề vay vốn và bước đầu sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả. Điển hình của nỗ lực đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu thời kỳ này là Công ty dệt kim Đông Xuân với tổng số vốn đầu tư hơn 1 triệu đô la Mỹ đã sản xuất được 95% sản phẩm loại A, đưa doanh thu xuất khẩu năm 1992 tăng 29% so với 1991...(21)

Có thể kết luận việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống nhất tỷ giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức tỷ giá hợp lý những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là một chủ trương đúng đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân thương mại và nhất là tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam trong phát triển kinh tế thông qua xuất khẩu. Tuy nhiên, mức tỷ giá hợp lý này kéo dài không được bao lâu. Tâm lý “sợ tiền ta mất giá” đã được khơi mào ngay sau đó, tỷ giá liên tục bị đẩy cao hơn giá trị thực, gây ra rất nhiều bất lợi cho hoạt động ngoại thương nói riêng cũng như toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vấn đề này sẽ được đề cập ngay dưới đây.



Каталог: luanvan -> 19123
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
19123 -> Bảng danh mục các ký hiệu viết tắt

tải về 0.89 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương