Chương 1: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái và tác động của tỷ giá tới ngoại thương


Giai đoạn 1993-1996: Giai đoạn nâng giá đồng Việt Nam



tải về 0.89 Mb.
trang7/11
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích0.89 Mb.
#3959
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

2.2.2.3. Giai đoạn 1993-1996: Giai đoạn nâng giá đồng Việt Nam

Thành tích xuất siêu năm 1992 kéo dài không được bao lâu. Ngay trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra. Quan điểm nâng giá nội tệ không dựa trên chỉ số giá cả dưới vỏ bọc “không phá giá tiền ta” trở lại với lối nghĩ xưa cũ thời bao cấp. Trong khi báo chí ra sức cảnh báo việc tăng giá nội tệ sẽ hủy hoại xuất khẩu thì tỷ giá lại tiếp tục bị điều chỉnh theo hướng lên giá và ngày càng lệch xa khỏi trục tỷ giá thực. Thậm chí những người nhào nặn ra mức tỷ giá nội tệ cao giả tạo này lại vô cùng hoan hỉ, cho rằng với việc tăng giá đồng Việt Nam như vậy sẽ khiến nền kinh tế tăng trưởng vững chắc hơn. Tháng 3 năm 1994, một đoàn lãnh đạo cao cấp của ta sang thăm Thái Lan với mục đích học tập kinh nghiệm điều hành quản lý kinh tế. Được nước bạn cung cấp cho bí quyết điều hành tỷ giá, một vị lãnh đạo đã tuyên bố xanh rờn “Thái Lan phát triển đến ngày nay là nhờ họ đã cố định tỷ giá nội tệ ở mức cao 25 bạt/đôla suốt 10 năm liền...”. Thật nực cười khi chỉ 3 năm sau đó, chính mức tỷ giá cao giả tạo này đã khiến Thái Lan phải bán hết lượng dự trữ ngoại hối 36 tỷ đô la và lâm vào tình cảnh khủng hoảng kinh tế toàn diện.

Bên cạnh đó, nguyên nhân chính của việc chỉ đạo lên giá nội tệ lại được đổ cho lạm phát đang trong tình trạng cao, do đó cần nâng tỷ giá hối đoái để tăng cường sức mua, triệt tiêu lạm phát. Rồi người ta hoan hỉ khi mức lạm phát giảm từ 17,5% năm 1992 xuống còn 5,2% năm 1993. Thế nhưng khi lạm phát tăng đột biến từ 5,2% năm 1993 lên 14,4% năm 1994 thì tác động “hữu ích” của nâng giá tiền tệ lại không được đề cập tới. Thực ra động lực kéo tụt lạm phát thời kỳ này không phải là nâng giá tiền tệ mà do độ trễ trong xuất siêu 1992. Chính việc sự kiện phá giá giai đoạn 89-91 đã thúc đẩy xuất khẩu, một lượng ngoại tệ lớn đổ vào trong nước nâng sức mua thực tế của đồng Việt Nam cao hơn, từ đó lạm phát giảm xuống. Quan điểm chỉ đạo nâng giá nội tệ trong bối cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, khi chiến lược hướng về xuất khẩu vừa được thực thi thực sự là một rào cản đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn này.

Trở lại với vấn đề điều hành tỷ giá, sau khi mức giảm giá nội tệ âm suốt 11 tháng cuối năm 1992, tháng 3/1993 nhằm phục vụ quan điểm lên giá đồng tiền, Nhà nước đã chỉ đạo đặt giá USD của Nhà nước cao hơn giá thị trường, USD liên tục được bán ra. Từ tháng 8/1993 đến 3/1994, Nhà nước đã bán ra 5,049 triệu đô la(22), đồng Việt Nam do đó lên giá tương đối so với đô la. Có một bài báo đã phấn khởi rằng tiền ta đã lên giá so với USD, đồng tiền mạnh nhất thế giới!



Đồ thị 2: Diễn biến tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND)

giai đoạn 1993-1999



Nguồn: Vụ ngoại hối, NHNN

Trong suốt thời kỳ 93-96, tỷ giá danh nghĩa (USD/VND) liên tục bị ép ở mức cao tương đối so với tỷ giá thực. Trong khi tỷ giá thực giảm đáng kể thì tỷ giá danh nghĩa hầu như không đổi. Có thể thấy rõ điều này trong biểu đồ 5, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa ngày càng doãng rộng ra, năm có độ doãng cao nhất chính là 1996, đây cũng là năm tổng kim ngạch nhập khẩu tăng đột biến do nhập siêu đạt mức kỷ lục. Xét trên góc độ tài chính-tiền tệ, cách điều hành tỷ giá trong giai đoạn đầu thập niên 90 còn mang nặng tính chủ quan, việc ấn định tỷ giá còn quá đơn giản, xa rời thực tế bởi ngân hàng trung ương đã coi việc giảm tỷ giá danh nghĩa là phá giá đồng tiền mà không tính đến tương quan chỉ số giá tiêu dùng cũng như mức lạm phát giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Đơn cử năm 1994, tỷ lệ lạm phát nội tệ 14,4% và USD 3% tức USD tăng giá 11,4% so với VND song ngân hàng trung ương chỉ chỉ đạo cho giá tăng có 1,8%. Việc giảm 1,8% được giải thích là đã phá giá nhẹ tiền ta, một ảo ảnh trông tỷ giá danh nghĩa thành tỷ giá thực tiếp tục tồn tại, bóp méo cơ chế điều hành tỷ giá vốn dựa trên qui luật thị trường và tiếp tục tác động xấu đến hoạt động thương mại.

Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt động xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương, cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm. Song thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Năm 1994, nếu mức tăng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 36% ở mức giảm giá danh nghĩa nội tệ 2,96% thì sang năm 1995, mức tăng xuất khẩu chỉ đạt khoảng 34% bởi tỷ giá giảm rất thấp: 0,14%. Việc tham gia hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á cùng với sự kiện Mỹ bãi bỏ cấm vận thương mại năm 1995 xem ra cũng không phải là liều thuốc hiệu quả tuyệt đối như người ta mong đợi khi nhập siêu liên tục gia tăng. Cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng, từ 1 tỷ năm 1994, rồi trên 2 tỷ năm 1995 và gần 4 tỷ năm 1996. Chỉ trong một thời gian ngắn việc mức thâm hụt thương mại đạt đến con số hàng tỷ đô la quả là một điều đáng buồn đối với ngoại thương Việt Nam.

Ấy thế nhưng người ta đã đem Hàn Quốc ra để biện hộ cho tác động tiêu cực của chính sách nâng giá nội tệ lên hoạt động ngoại thương thời kỳ này. Với lý luận rằng Hàn Quốc thời kỳ bắt đầu mở cửa cũng nhập siêu liên tục, tổng mức nhập siêu tăng lên qua các năm nên từ đó kết luận ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ lên ngoại thương không phải hoàn toàn tiêu cực. Thế nhưng thực tế cho thấy tình hình nhập siêu của Hàn Quốc hoàn toàn khác với nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 93-96. Nếu Hàn Quốc nhập siêu với tốc độ ngày càng giảm (từ 29% năm 1979 xuống 14,2% năm 1980 và 13,7% năm 1981) thì Việt Nam lại nhập siêu với tốc độ ngày càng tăng (bảng 5). Hơn nữa nếu nhập siêu của Hàn Quốc diễn ra trong bối cảnh giá đồng Won giảm mạnh (mất giá khoảng 170,8% năm 1984) thì nhập siêu của Việt Nam lại đi kèm với mức tăng giá nội tệ (lạm phát 3 năm 93, 94, 95 cộng lại là 32% song tỷ giá ngoại tệ USD tại Việt Nam chỉ tăng 2%). Điều đó có nghĩa là trong khi Hàn Quốc định giá theo đúng mức độ mất giá của đồng Won thì ta lại giữ cho giá đồng Việt Nam cao hơn 30% giá trị thực. Việc nhập siêu tại Việt Nam do đó có thể kết luận không phải do cầu nhập khẩu tăng lên mà do mức giá rẻ tương đối đã khiến hàng ngoại ồ ạt xâm lấn thị trường Việt Nam. Và xu thế mở cửa nền kinh tế nhưng coi nhẹ vai trò của tỷ giá đã vô tình biến Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ béo bở của bạn hàng nước ngoài.



Bảng 5: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá

giai đoạn 1993-1999

Năm

Tỷ giá chính thức (USD/VND)

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Cán cân thương mại

Hệ số co giãn

Mức tỷ giá

%Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Kim ngạch (triệu USD)

% Tăng, giảm

Thâm hụt (triệu USD)

% Tăng, giảm

Xuất khẩu (ηx)

Nhập khẩu (ηn)

1993

10640

100

2985,2

100

3924

100

938,8

100







1994

10955

102,9

4054,3

135,8

5825,8

148,5

1771,5

143,7

1,32

-1,44

1995

10970

100,1

5448,9

134,4

8155,4

140

2706,5

149,7

1,34

-1,40

1996

11100

101,2

7255,9

133,2

11143,6

136,6

3887,7

153,6

1,32

-1,35

1997

11175

100,7

9185

126,6

11592,3

104

2407,3

126,2

1,26

-1,03

1998

12985

116,2

9360

101,9

11499,6

99,2

2139,6

122.9

0,88

-0,85

1999

14004

107.848

11541.4

123.306

11742.1

102.109

200.7

101,7

1,14

-0,94


Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê,

Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước.

Xét một cách cụ thể hơn, với các số liệu tính toán từ bảng 5 trên đây, việc tỷ giá luẩn quẩn quanh biên độ giao động +/- 0,5% giai đoạn 93-96 đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng(51). Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị định cao hơn so với giá trị thực của nó vận động rất đúng theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và thực sự gây tổn hại đến sản xuất trong nước.

Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao dường như ưu ái cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Giá đô la hạ xuống 12,5% từ khoảng 12.000 tháng 1/1993 xuống 10500 cuối năm khiến hàng nhập theo giá đô la cũng được rẻ đi 12,5% . Và thế là hàng ngoại nhập giá rẻ trời cho tràn vào với đủ mẫu mã, chủng loại, danh mục hàng nhập khẩu cứ thế dài ra. Trước tình trạng hàng trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước buộc phải cấm nhập khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Ví như giá đường trong nước năm 1993 nếu qui đổi ra USD là 544 USD/tấn trong khi giá đường nhập khẩu chỉ có 400USD/tấn thì tất yếu phải cấm nhập khẩu đường bởi nếu không giá 544USD không thể địch nổi với giá 400USD. Thời điểm này, hàng hóa nhập khẩu lợi thế bao nhiêu thì hàng hóa xuất khẩu lại bất lợi bấy nhiêu. Trong 3 năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt Nam đã lên giá 24% và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc. Nếu một đô la xuất khẩu gạo trả theo tỷ giá thực năm 1995 là 13.992 (hay chỉ 12.000 theo cách xóa dần tình trạng lên giá đồng nội tệ) thì nông dân sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị lỗ đến hơn 1000 đồng/đôla. Giá tơ tằm xuất khẩu quy theo USD giai đoạn 93-96 tăng từ 18 USD lên 26 USD/kg làm sao có thể địch nổi giá tơ 21 USD/kg của Trung Quốc (22).

Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng đã phần nào khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật...Điều này cũng khiến công tác mở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do công tác xúc tiến thị trường giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được tiến hành rầm rộ nên qui mô thị trường không những không bị thu hẹp mà ngày càng được mở rộng hay nói cách khác, thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng mấy đến vấn đề thị trường xuất-nhập khẩu.



2.2.2.4. Giai đoạn 1997-1999:

Khủng hoảng 97-98 đã thay đổi toàn bộ quan điểm điều hành tỷ giá của Việt Nam. Sau khi Thái Lan rồi đến lần lượt các quốc gia khác lâm vào tình cảnh khủng hoảng, đồng USD lên giá mạnh so với tất cả các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á, xét thấy việc cố định tỷ giá ở mức cao là không thể được, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh ngay tỷ giá đồng Việt Nam. Trước tiên là việc tăng biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-0,5% rồi +/- 10%. Sau đó là hành động giảm giá dần tiền đồng Việt Nam, nâng mức tỷ giá chính thức tiến sát tỷ giá thực tế, với phương châm điều chỉnh linh hoạt tỷ giá, tạo một mức tỷ giá phản ánh chính xác cung-cầu tiền tệ trên thị trường. Bên cạnh đó, để tránh các hoạt động làm biến dạng tỷ giá hối đoái ví như hoạt động đầu cơ hối đoái trên thị trường chợ đen và cũng để giảm bớt nạn đô la hóa vốn rất nhức nhối trong dân chúng, quyết định 173/1998 TTg đã được ban hành ngày 12/9/1998, qui định lượng ngoại tệ kết hối của người cư trú tối thiểu là 80% (năm 1999 tỷ lệ này giảm xuống còn 50%).

Cơ chế điều hành tỷ giá tỏ ra hoạt động có hiệu quả khi chỉ trong vòng 1 năm (1997 so với 1996 ) đồng Việt Nam đã giảm giá 16%, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa được thu hẹp, tác động tích cực đến ngoại thương Việt Nam (Biểu đồ 5). Rõ nét nhất là kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, chỉ dừng ở mức 4%, đưa mức nhập siêu xuống 2,4 tỷ so với 3,8 tỷ năm 1997 so với 1996. Và đặc biệt năm 1999, mức nhập siêu chỉ còn khoảng 200 triệu đô la.

Mặc dầu vậy, khi đặt đồng Việt Nam trong tương quan với giá tiền tệ các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng thì giá đồng Việt Nam vẫn còn ở mức cao. Trung bình, tỷ lệ mất giá so với đô la của các đồng tiền thuộc khu vực khủng hoảng là 30-40%, cao nhất là đồng Rupiah của Indonesia với độ mất giá đến hơn 80%, ngay cả đồng đô la Singapore cũng bị sụt giá 16% trong khi đó đồng Việt Nam chỉ được giảm giá trung bình 8,25%. Điều này đồng nghĩa với việc VND bị định giá cao hơn bạt Thái Lan... ít nhất 15%. Chính sự tăng giá đồng Việt Nam này đã không tạo điều kiện về giá cho hàng hóa Việt Nam để có thể cạnh tranh được trên thị trường các quốc gia Đông Nam Á. Năm 1998, giá một chiếc áo phông Thái Lan qui ra tiền Việt Nam chỉ có 7000 đồng trong khi giá áo phông Việt Nam xuất khẩu lại lên đến 40.000 đồng. Đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao lượng xuất khẩu của Việt Nam không tăng mấy trong năm 1998, kéo theo kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng xuất khẩu đứng ở mức thấp 1,9%.

Cơ cấu thị trường nhập khẩu thời kỳ này không có sự biến động lớn, đáng lưu tâm thực sự phải kể đến cơ cấu thị trường xuất khẩu. Trước khủng hoảng, thị trường ASEAN chiếm khoảng 70% trong tổng cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam, sau khủng hoảng, tỷ trọng này chỉ còn khoảng 60%; thay thế vào đó là thị trường Châu Âu với tỷ trọng tăng từ 15% năm 1996 lên trên 20% thời kỳ sau đó. Sự thay đổi tỷ trọng này do hai nguyên nhân chính: một là động lực cạnh tranh về giá của hàng xuất khẩu Việt Nam bị triệt tiêu trên các thị trường Châu Á, kết quả của vấn đề đồng Việt Nam tăng giá như đã đề cập ở trên; hai là do suy thoái kinh tế, các quốc gia Châu Á buộc phải bảo vệ lượng ngoại tệ ít ỏi bằng mọi biện pháp trong đó có biện pháp hạn chế nhập khẩu. Cả hai nguyên nhân này đều dẫn đến việc cánh cửa thị trường Châu Á không còn rộng mở như trước; để tồn tại, tất yếu xuất khẩu Việt Nam buộc phải tìm kiếm thị trường mới và thị trường Châu Âu được xem là thị trường mục tiêu của xuất khẩu Việt Nam.

Có thể nói tác động bao trùm của tỷ giá lên hoạt động ngoại thương thời kỳ này mang tính tích cực. Lần đầu tiên chúng ta đã dung hòa được mối quan hệ vốn mâu thuẫn giữa xuất khẩu-tỷ giá-nhập khẩu. Nhập khẩu được kiểm soát còn xuất khẩu trở nên chủ động hơn trên những thị trường mới và thời kỳ 1997-1999 có thể xem là thời kỳ thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.



2.2.2.4. Giai đoạn 2000 đến nay:

Thế kỷ mới bắt đầu với hàng loạt sự kiện đáng chú ý, trong đó có sự kiện đồng EUR. Việc đồng tiền chung Châu Âu được lưu hành thống nhất trên tất cả các quốc gia thành viên trong cộng đồng Châu Âu EU đã khiến EUR thực sự trở thành đối thủ nặng ký của USD. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động đặc biệt là biến động tiền tệ, để giảm thiểu rủi ro tỷ giá, Việt Nam đã chọn quan điểm điều hành tỷ giá theo cơ chế bò trườn (crawling peg) (iii) nhằm tránh gây các cú sốc đột biến, đồng thời gắn đồng Việt Nam với “rổ tiền tệ” trong đó cố gắng nâng dần tỷ trọng EUR so với USD.

(iii) Crawling peg – Chế độ neo tỷ giá hối đoái điều chỉnh dần: Một hình thái của chế độ tỷ giá cố định, trong đó tỷ giá giữa các đồng tiền được cố định ở những giá trị nhất định, nhưng được thay đổi thường xuyên hàng tuần, hàng ngày hoặc hàng tháng với mức độ nhỏ, tạo ra những tỷ giá cố định mới để phản ánh những chuyển biến cơ bản trên thị trường ngoại hối (44).

Giai đoạn 2000-2003 cũng chính là giai đoạn các chính sách liên quan đến vấn đề tỷ giá được chú trọng, hàng loạt các quyết định ra đời trong đó phải kể đến quyết định nới rộng biên độ tỷ giá từ +/-0,1% lên +/-0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ kì hạn ngày 1/7/2002. Bên cạnh đó, cũng vào năm 2002, Chính phủ cũng đã cho phép ngân hàng xuất nhập khẩu Eximbank thực hiện bảo hiểm rủi ro tỷ giá, bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất- nhập khẩu. Có thể nói ngân hàng nhà nước giai đoạn này đã tạo mọi điều kiện để tỷ giá phát huy vai trò của nó, thế nhưng do những biến động bất thường của thế giới cũng như sự lên xuống thất thường của các đồng tiền chủ chốt, NHTW lại buộc phải can thiệp liên tục trên thị trường ngoại hối nhằm tránh gây những cú sốc cầu ngoại tệ ảnh hưởng xấu đến kinh tế Việt Nam. Sự can thiệp này xem ra hơi quá tay bởi kết quả đạt được là đồng Việt Nam lại tăng giá so với đồng đô la.

Suốt 3 năm 2000-2003, giá đồng nội tệ so với đô la có giảm song mức giảm tỷ giá nội tệ không đáng kể, trung bình là 2,4%, một mức giảm khá dè dặt thể hiện chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam còn nặng về thay thế nhập khẩu (Hình 1). Thời kỳ tăng giá đồng Việt Nam quay trở lại trong bối cảnh kinh tế toàn cầu lâm vào tình trạng suy thoái liên tiếp. Năm 2000, đồng bạt (Thái Lan ) mất giá 14,5%; Yên Nhật 21,25%, Rupiah (Philippines) 24,18%...so với đô la càng làm mức tăng giá của Việt Nam bị đội cao.



Nguồn: Tài liệu hội thảo- Vụ ngoại hối, NHNN-2003

Xuất khẩu Việt Nam gặp khó khăn trong việc giữ vững thị trường Châu Á bởi sự xâm lấn của hàng hóa Trung Quốc được trợ giá đến gần 40% (do tỷ giá USD/CNY được định thấp hơn tỷ giá thực khoảng 30-40%). Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm, thấp nhất là trên 3 % năm 2001. Tuy nhiên nếu coi lý do nền kinh tế toàn cầu lâm vào tình trạng suy thoái do đó kim ngạch xuất-nhập khẩu sụt giảm năm 2001 là có thể chấp nhận được thì bước sang năm 2002, khi kinh tế thế giới bắt đầu giai đoạn phục hồi, hoạt động ngoại thương vẫn chưa có được những bước tiến vượt bậc trong kim ngạch. Giai đoạn 2002-2003 tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng nhập khẩu, dẫn đến tình trạng nhập siêu mức cao từ khoảng 1 tỷ năm 2001 lên trên 2 tỷ năm 2002 và tính đến tháng 10/2003, mức nhập siêu đã lên đến con số 4,55 tỷ đô la. Một tình trạng báo động khiến nhiều nhà quản lý phải thực sự lo lắng (12).

Nguyên nhân chủ đạo của việc nhập siêu chính là do tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực nhiều lần. Tại thời điểm cuối năm 2003 này, giá đồng Việt Nam so với USD bị định cao hơn giá trị thực từ 10-20%. Sự cao giá VND sẽ làm nâng giá toàn bộ các mặt hàng xuất khẩu tính theo USD. Nếu VND cao giá khoảng 10% thì giá cả toàn bộ mặt hàng xuất khẩu cũng sẽ bị đội lên 10%, tương đương với mức thuế 10% áp dụng cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu, lợi thế cạnh tranh hàng xuất khẩu sẽ giảm đi tương đối. Điều đáng chú ý là từ trước tới nay việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại chủ yếu dựa vào việc tăng lượng nên mức giá không hấp dẫn sẽ nhanh chóng triệt tiêu tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Ngược lại, đối với việc tăng tỷ giá nội tệ, hàng nhập khẩu nghiễm nhiên được giảm thuế 10%, tình trạng này sẽ dẫn đến hiện tượng nhập khẩu hàng loạt đối với mọi chủng loại hàng hóa và nhanh chóng đẩy kim ngạch nhập khẩu tăng cao. Thực tế cho thấy từ đầu năm đến nay những mặt hàng nhập khẩu ngoài máy móc thiết bị toàn bộ, đa số đều là những mặt hàng trong nước có thể sản xuất thay thế được như chất hóa dẻo TOTM, đèn hình tivi màu, giấy DUPLEX 180 GSM...Tuy nhiên với mức giá nhập khẩu rẻ hơn thì việc sản xuất trong nước trở nên vô nghĩa, việc phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu đặc biệt là nguyên vật liệu trước mắt sẽ tiếp tục diễn ra. Theo dự báo của Vụ Châu Á Thái Bình Dương, với việc định giá quá thấp tỷ giá hối đoái đồng nhân dân tệ so với đô la (thấp đến 40%) thì trong năm 2003 kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc sẽ tăng 0,34 tỷ trong khi xuất khẩu chỉ tăng 0,2 tỷ. Và tại thị trường này, Việt Nam sẽ tiếp tục nhập siêu, tăng nhập nhanh hơn tăng xuất.

Ngoài hiệu ứng về giá mà tỷ giá hối đoái đã gây ra cho kim ngạch xuất khẩu cũng như nhập khẩu, hiệu ứng nổi bật thứ hai chính là việc đồng Việt Nam lên giá cộng với những biến động bất thường về tỷ giá các đồng tiền mạnh như biến động USD, EUR...đã gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của rất nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do các đồng tiền mạnh khác ngoài USD như Yên Nhật, EUR, GBP...được khuyến khích trong thanh toán nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào một loại tiền tệ duy nhất nên rủi ro tỷ giá không chỉ còn nằm ở giá cả đồng đô la mà còn ở giá cả các đồng tiền khác cũng được sử dụng trong thanh toán. Và thế là việc tăng giảm đột ngột của các đồng tiền mạnh trên thế giới trong thời gian cực ngắn đã đẩy các doanh nghiệp xuất nhập khẩu vào tình cảnh dở khóc dở cười. Tháng 9 năm 2002, việc đồng Euro mất giá mạnh chỉ còn 0,84 USD đã khiến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu ký kết hợp đồng thanh toán bằng đồng Euro tại thời điểm 1 EUR = 0,94 USD phải gánh chịu các khoản lỗ phát sinh là 0,1 EUR/USD. Đây cũng là thời điểm giá gia công của một số các công ty giày da lớn xuất sang EU bị dìm từ 1,5 USD/đôi xuống 0,91 USD/đôi. Chưa hết, chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2003, trên thị trường thế giới, đồng EUR đột ngột tăng giá so với USD do đó tỷ giá EUR/VND đã leo từ 16000đồng/EUR xuống đến 16800 đồng/EUR khiến chi phí đầu tư nhập khẩu phát sinh cao. Điển hình là công ty giày da thời trang T&T đã phải trả thêm 700 triệu đồng để mua 700000 EUR thanh toán cho việc nhập khẩu một lô thiết bị phục vụ sản xuất. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Mỹ, tình hình cũng không mấy khả quan hơn; giá đồng Việt Nam định cao hơn giá đô la 20% đã khiến doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu thiệt thòi gần 2000 đồng với mỗi đô la xuất khẩu thu về, từ đó vốn đầu tư phục vụ việc mở rộng thị trường trong nước bị thu hẹp thậm chí một số doanh nghiệp đã phải đi vay VND với lãi suất cao để thực hiện được các dự án của mình, đây là trường hợp xảy ra với Mecanimex Saigon (Công ty xuất nhập khẩu sản phẩm cơ khí tại thành phố Hồ Chí Minh) (xem (52) ).

Suốt giai đoạn 2000 đến nay, Việt Nam đang trải qua tình trạng giảm phát với mức tăng lạm phát thấp, có thời kỳ dưới 1% trong khi Cục dự trữ liên bang Mỹ lại duy trì chính sách đồng đô la yếu nhằm kích cầu tiêu dùng, nâng chỉ số giá tiêu dùng lên 6% (tháng 11/2003) điều này tất yếu dẫn đến việc tỷ giá thực đồng Việt Nam sẽ tiếp tục giảm mạnh. Do đó với cách duy trì tỷ giá danh nghĩa ở mức cao, độ giảm thấp, ngoại thương Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục bị tổn hại. Có thể nói trong suốt giai đoạn 2000 đến nay, mặc dù núp dưới vỏ bọc tỷ giá thả nổi, vận động theo qui luật thị trường có sự điều tiết của nhà nước song thực chất tỷ giá hối đoái của Việt Nam lại tiếp tục bị áp đặt một cách chủ quan duy ý chí, tư tưởng định giá cao đồng nội tệ đã quay trở lại sau chưa đầy một thập kỷ. Người ta dường như quá “đau xót” nếu đồng Việt Nam bị giảm giá, với lý do giảm giá đồng Việt Nam sẽ gây tâm lý mất lòng tin vào đồng nội tệ, gây tình trạng đô la hóa, tăng nợ đọng, tăng chi phí nhập khẩu đầu vào... Tuy nhiên, theo WB thì cho đến năm 2007, Việt Nam mới thực sự bắt đầu phải trả những khoản nợ nhưng ở mức lãi suất rất thấp, tình trạng đô la hóa cũng đã giảm và đến nay không phải là điều đáng ngại. Bên cạnh đó việc nâng cao tỷ giá hỗ trợ nhập khẩu thường gây ra tình trạng thiếu vốn tái đầu tư do kim ngạch xuất khẩu sụt giảm. Vậy phải chăng việc duy trì tỷ giá cao hơn giá trị thực là nhằm để bảo vệ cho sự yếu kém ở đâu đó trong hệ thống tài chính-tiền tệ? Trung Quốc cũng đã từng giảm giá đồng nhân dân tệ đến 40% năm 1994 song Trung Quốc đâu có rơi vào tình trạng khủng hoảng đồng nội tệ, thay vào đó là việc tăng trưởng liên tiếp của hoạt động ngoại thương, xuất siêu gần 10 năm trời (49). Thiết nghĩ nếu chúng ta phối hợp được đồng bộ việc điều hành tỷ giá và cơ chế quản lý ngoại hối một cách chặt chẽ thì việc giảm giá nội tệ sẽ mang đến nhiều ích lợi hơn tác hại cho hoạt động ngoại thương nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.

Xin được kết thúc phần viết này bằng câu trả lời của Phó thủ tướng Vũ Khoan trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình mới đây rằng: “ Khả năng cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam hiện nay còn thấp, mức giá bị định cao khiến một số mặt hàng không xuất khẩu được như xi măng, sắt thép... Đến 2006, chúng ta phải thực hiện AFTA, lúc ấy giá hàng xuất khẩu nếu quá cao sẽ bị thua thiệt. Trong một môi trường kinh doanh ngày càng chật hẹp với đầy rẫy những rào cản mọc lên như hiện nay thì một sự trợ giá xuất khẩu ngầm thông qua tỷ giá có thể coi là cần thiết...”


Каталог: luanvan -> 19123
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
19123 -> Bảng danh mục các ký hiệu viết tắt

tải về 0.89 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương