Chương Mười
X.Kinh điển của Chân Ngôn Tông
Những vị Tăng sĩ của Chân Ngôn Tông đọc tụng những kinh điển hằng ngày đa phần đều có quy định sẵn. Ngoài ra những giáo lý có nhiều loại khác nhau. Ngay cả cùng một loại kinh mà nhiều lúc cách đọc lại khác nhau, cũng có trường hợp đọc như ngâm vịnh. Muốn phân biệt những loại như thế này thật có rất nhiều thứ. Nếu muốn giới thiệu hết tất cả các loại kinh, chắc là không thể thực hiện được. Trong này đối với Đàn gia và tín đồ nên cố gắng nhớ. Hoặc giả trong số kinh gần gũi ấy cũng có nhiều; chỉ tuyển chọn ra một ít để giới thiệu.
Trước tiên đối với những người tại gia cần tụng những kinh khi hành trì. Khi ấy đến trước bàn thờ Phật của gia đình và đọc kinh theo thời gian mà mình đã ấn định trước. Cũng giống như đến tham bái nơi chánh điện của các chùa Bồ Đề cũng tụng kinh như vậy.
Việc này cũng có hai loại: Một loại từ xưa đến nay truyền lại quyển “Tại gia cần hành pháp tắc” và một quyển khác gọi là nghi thức “Cần hành” được bắt đầu từ thời Chiêu Hòa. Cả 2 quyển về nội dung đều gần giống nhau; nếu muốn dùng quyển nào để đọc tụng cũng đều được cả. Cả đoạn trên và đoạn dưới vừa đọc vừa đối chiếu với nhau để rõ nội dung của Kinh hơn.
Theo nghi lễ xưa thì nó có tính cách truyền thống. Còn nghi lễ nay lại hiểu được ý nghĩa dễ dàng hơn và gần gũi hơn với mọi người. Đây là một lợi điểm.
Bản cũ gọi “một phản” “ba phản” có nghĩa là “một lần: “ba lần”. Chỗ ghi “một phản” nghĩa là đọc một lần. Chỗ ghi “ba phản” là lặp lại 3 lần như vậy. Nên chú ý về điều này.
Còn bản mới lại ghi: “Kim nhứt đinh” hay là “Kim nhị đinh”. Ở đây có nghĩa là: điểm một tiếng chuông, điểm 2 tiếng chuông.
Lại có chữ “đầu và chữ “trợ”; đây nhằm lưu ý đến trường hợp có nhiều người đọc kinh chung. Chữ đầu có nghĩa là đầu tiên chỉ một người đọc. Còn chữ “trợ” có nghĩa là trợ âm và mọi người cùng đọc một lúc.
Đúng ra các loại Chân Ngôn Quang Minh thường thường là lập đi lặp lại đến bảy lần. Lần đầu tiên chỉ một người đọc; nhưng những lần sau đó thì cùng đọc chung.
---o0o---
X.01.Tại gia cần hành trì pháp tắc (theo nghi xả)
Đầu:
Sám hối văn (Một lần) Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp Giai do vô thỉ tham sân si Tùng thân ngữ ý chi sở sanh Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghĩa:
Con xưa vốn tạo các vọng nghiệp
Đều do vô thỉ tham sân si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Tất cả con nay xin sám hối.
Sau: Tam quy (ba lần)
Đệ tử Mỗ Giáp
Tận vị lai tế
Quy y Phật
Quy y Pháp
Quy y Tăng Nghĩa:
Đệ tử tên là …
Cho đến vị lai
Nương về Phật
Nương về Pháp Nương về Tăng
Sau: Tam cảnh (ba lần)
Đệ tử Mỗ Giáp
Tận vị lai tế
Quy y Phật cảnh
Quy y Pháp cảnh
Quy y Tăng cảnh Nghĩa:
Đệ tử tên là …
Cho đến vị lai Quy y Phật rồi
Quy y Pháp rồi
Quy y Tăng rồi
Sau: Thập thiện giới (3 lần)
Đệ tử Mỗ Giáp
Tận vị lai tế
Bất sát sanh Bất thâu đạo
Bất tà dâm
Bất vọng ngữ
Bất ỷ ngữ
Bất ác khẩu
Bất lưỡng thiệt
Bất xan tham
Bất sân si
Bất tà kiến
Nghĩa:
Đệ tử tên là …
Cho đến vị lai
Không giết hại
Không trộm cướp
Không tà dâm
Không nói dối
Không thêu dệt
Không nói ác
Không hai chiều
Không tham lam
Không sân si
Không tà kiến.
Sau: Phát Bồ Đề Tâm Chân Ngôn (3 lần)
On boo chisatta Bodahada yami.
Sau: Tam Muội Gia Giới Chân Ngôn (3 lần)
On Sanma ya sato Han
Sau: Khai kinh kệ (1 lần)
Vô thượng thậm thâm vị diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
Nghĩa:
Phật pháp cao sâu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Sau: Bát Nhã tâm kinh (một lần hoặc ba lần)
Phật thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời.
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc.
Sắc tức thị không, không tức thị sắc.
Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức.
Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý.
Vô sắc thanh hương vị xúc pháp
Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
Vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận.
Vô khổ, tập, diệt, đạo
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố
Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố,
Vô hữu khủng bố, viễn ly nhứt thiết149 điên đảo mộng tưởng,
Cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật,
Y Bát nhã Ba la mật đa cố,
Đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba la mật đa,
Thị đại thần chú, thị đại minh chú,
Thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú,
Năng trừ nhất thiết khổ,
Chân thật bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú,
Tức thuyết chú viết:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, Ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha. Bát Nhã Tâm Kinh.
Nghĩa:
Phật nói kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
Ngài Quán tự tại bồ tát
Khi thực hành sâu xa bát nhã ba la mật
Thấy được năm uẩn đều không
Qua tất cả khổ ách.
Xá lợi tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc
Sắc tức là không, không tức là sắc Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy
Xá lợi tử! Các pháp ấy không tướng
Chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch Chẳng tăng chẳng giảm
Cho nên trong không ấy
Không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức
Không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
Không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
Không nhãn giới, cho đến không ý thức giới
Không vô minh, cũng không hết vô minh
Không già chết, cũng không hết già chết
Không khổ, tập, diệt, đạo
Không trí, cũng chẳng đắc
Dùng chỗ không đắc ấy
Bồ Đề Tát Đỏa
Nương vào bát nhã ba la mật đa
Tâm chẳng lo lắng
Lại chẳng lo lắng
Chẳng có sợ hãi.
Xa rời hết thảy điên đảo mộng tưởng
Đạt đến rốt ráo niết bàn.
Ba đời chư Phật nương bát nhã ba la mật đa
Được vô thượng chánh đẳng chánh giác
Nên rõ bát nhã ba la mật
Là đại thần chú, là đại minh chú
Là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú
Hay trừ tất cả khổ
Chơn thật chẳng hư.
Nên nói chú bát nhã ba la mật đa
Liền nói chú rằng:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế bồ đề tát bà ha.
Bát nhã tâm kinh Sau:
Quang Minh Chân Ngôn (7 lần hoặc 21 lần)
On Abokya Beiroshano Makabodara Mani Handoma Jinbara Hataharitaya Hum.
Sau: Cao Tổ Bảo Hiệu (7 lần)
Nam mô Đại Sư Biến Chiếu Kim Cang.
Sau: Hòa tán v.v…
(tiếp theo có thể tụng thêm các kinh, Đà la ni hay những hòa tán khác v.v…)
Sau: Hồi hướng (một lần)
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Nghĩa:
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành phật đạo.
Tiếp theo sau đây muốn giới thiệu sơ qua về “Lý thú tam muội”. Đây là một trong những kinh điển căn bản của Chân Ngôn Tông. Gọi đủ là: “Đại Lạc Kim Cang Bất Không Chân Thật Tam Ma Gia Kinh. Bát Nhã Ba La Mật Đa Lý Thú Phẩm”. Gọi tắt là: Kinh Bát Nhã Lý Thú, lại cũng còn gọi là: “Lý Thú Kinh”. Khi đọc tụng Kinh này để hoan hỷ được sanh về thế giới giác ngộ.
Đồng thời đối với nghi lễ này, trước và sau khi tụng kinh đều có tán150 . Phần giới thiệu ở đây sẽ đề cập đến: Trình cúng, lý thú kinh, hậu tán và hồi hướng theo thứ tự như vậy. Đây là hình thức cơ bản có tính cách tiêu chuẩn nhất. Kinh này cũng được dùng đến hằng ngày khi có lễ tại nhà hay chùa, là nghi lễ tán thán Đức Bổn Tôn. Hay lễ cúng Sư Phụ ta thường hay cử hành nghi lễ này để cầu nguyện được chóng thành Phật quả.
Lại nữa, còn phần phụ thêm những bài xướng lễ gọi là: “Xướng lễ phụ lý tam muội” hay “Bối”151 , “Tán Hoa Đối Dương”. Như vậy gọi là: “Nhị pháp yếu phụ lý tam muội”. Nghi lễ này có thể thực hiện khi cúng cho Thầy mình hay cúng Đại Thí Ngạ Quỷ hoặc giả cũng có thể dùng để cúng cho việc hồi hướng chung các tiên vong tinh linh tại nhà của những đàn gia.
Khi tụng kinh để khai nhãn cho Mạn Trà La cũng có thể cử hành “Lý Thú Tam Muội” này và gọi là “Đại Mạn Trà La cúng”. Đồng thời những lễ lộc như lạc thành chánh điện hay làm lễ đón mừng ngày kỷ niệm của Tổ Khai Sơn v.v… cũng có thể đọc tụng những kinh này.
Tóm lại, trọng tâm của những buổi lễ như trên là tụng kinh “Lý Thú”. Trên thực tế, thì Kinh này không riêng dạy cho Đàn na thông thường để có thể đọc được. Ngay cả học Tăng khi mới làm lễ xuất gia cũng chỉ cho đọc phần đơn giản. Vì sao mà khó khăn quá vậy? Vì Kinh này nói ra ở cảnh giới giác ngộ, nên không thể giải thích một cách tỉ mỉ được. Đó là lý do chính. Đồng thời đối với các Đàn Gia dẫu cho có tham gia những nghi lễ nầy đi nữa cũng không thể tụng kinh kịp các vị Sư Tăng. Nên ngồi yên lặng ở chánh điện, để chỉ nghe kinh mà thôi, thỉnh thoảng đến đốt nhang, chắp tay và chỉ thuần là việc lắng nghe mà thôi. Nghe cũng giống như một cuộc đại hòa tấu vậy. Nếu có được một cảm giác an lạc nào đó, cũng đủ lắm rồi.
Gần đây có một số sách viết và giải thích về “lý thú kinh” có phát hành tại các nhà sách. Đồng thời nhân những cơ hội lễ lộc ấy các vị giáo thọ sư152 cũng có giải thích Kinh này một cách rõ ràng tại một số chùa.
Dầu cho khi nghe giảng chẳng hiểu toàn bộ đi chăng nữa thì cũng có thể hiểu một phần nào nội dung của kinh, và việc có ý đi tham dự những buổi giảng như vậy cũng quí hóa lắm rồi. Phần bên trên đọc kinh theo âm chữ Hán và phần bên dưới có thể tham khảo thêm theo cách dịch ngôn ngữ trong hiện đại153 .
Việc giải thích Kinh lý thú này như trên đã giải bày là vào năm rồi tại Cao Dã Sơn có cho xuất bản tập “Hòa Văn Kinh điển” do “Hội nghiên cứu kinh điển Chân Ngôn Tông Mật Giáo” dịch, cho đăng tải và ở đây chỉ giới thiệu một phần sự liên hệ đó, và bút giả rất thâm tạ việc này ở đây.
---o0o---
X.02.Lý Thú Tam Muội (Nguyên Văn Chữ Hán)
Trình cúng:
Án Phược Nhựt La Tát Đát Phược Tô Nghiệt La Hạ
Phược Nhựt La La Hằng Nẳng Ma Đổ Đát Lãm
Phược Nhựt Đạt Ma Nga Dạ Na Phược Nhựt La Yết Ma Ca Lô Bà Phược.
(Dịch ý câu chú này theo nghĩa như sau: Mong Ngài Kim Cang Tát Đỏa nhiếp thọ con, với bảo hiệu bình đẳng tánh. Đây là những lời ca vịnh, tán thán vị Thánh và sự nghiệp cứu giúp ấy trở nên không giới hạn).
---o0o---
X.03.Lý Thú Kinh
(Khuyến thỉnh) Quy mạng Tỳ Lô Giá Na Phật
Vô nhiễm vô trước chơn lý thú
Sanh sanh trực ngộ vô tướng giáo thế thế trì tụng bất vọng niệm bổn tôn giới hộ tăng pháp lạc.
Nghĩa:
Kính lễ Tỳ Lô Giá Na Phật
Không nhiễm, không dính, chân lý thú đời đời gặp được vô tướng giáo kiếp kiếp trì tụng, chẳng quên sót bổn tôn giới, gặp vui thêm pháp.
(Kinh đề)
Đại Lạc Kim Cang Bất Không chơn thật Ma Na Kinh Bát
Nhã Ba La Mật Đa Lý Thú Phẩm (Bổn văn, tiền đoạn lược)
Bồ Tát Thắng Huệ giả
Nãi chí tận sanh tử hằng tác chúng sanh lợi nhi bất thú
Niết Bàn Bát Nhã cập phương tiện
Trí độ tất gia trì
Chư pháp cập chư hữu
Nhứt thiết giai thanh tịnh
Dục đẳng điều thế gian
Lãnh đắc tịnh trừ cố
Hữu đảnh cập ác thú
Điều phục tận chư hữu
Như liên thể bổn nhiễm
Bất vi cấu sở nhiễm
Chư dục tánh diệc nhiễm
Bất nhiễm lợi quần sanh
Đại dục đắc thanh tịnh
Đại an lạc phú nhiêu
Tam giới đắc tự tại
Năng tác kiên cố lợi.
Kim cang Thủ nhược hữu văn thử
Bổn sơ Bát Nhã Lý thú
Nhựt nhựt thìn triêu hoặc tụng hoặc thính
Bỉ hoạch nhứt thiết an lạc duyệt ý.
Đại Lạc Kim Cang Bất Không Tam Muội
Cứu cánh tất địa
Hiện thế hoạch đắc
Nhứt thiết pháp tự tại duyệt lạc
Dĩ thập lục Đại Bồ Tát sanh
Đắc ư Như Lai
Chấp Kim Cang vị
Hồng
Nhĩ thời nhứt thiết Như Lai
Cập trì Kim Cang Bồ Tát Ma Ha Tát đẳng
Giai lai tập hội dục lịnh thử pháp
Bất không vô ngại tốc thành tựu cố
Hàm cộng xưng tán
Kim Cang Thủ ngôn
Nghĩa:
(Bản văn chính - bỏ bớt đoạn trước)
Ngài Bồ Tát Thắng Huệ
Cho đến hết sanh tử
Thường lợi lạc chúng sanh
Mà chẳng vui Niết Bàn
Bát Nhã cùng phương tiện
Trí độ đều gia trì
Các pháp và các cõi
Tất cả đều thanh tịnh
Muốn điều phục thế gian
Làm cho được sạch đẹp
Hữu đảnh và ác thú
Điều phục hết các cõi
Như hoa sen chẳng nhiễm
Chẳng bị dơ làm bẩn
Các dục tánh cũng vậy
Chẳng nhiễm lợi quần sanh
Dục lớn được thanh tịnh
An lạc lớn giàu mạnh
Ba cõi được tự tại
Hay làm lợi kiên cố
Kim Cang Thủ nếu nghe điều nầy
Bổn sơ Bát Nhã Lý Thú
Mỗi ngày sáng sớm, hoặc tụng hoặc nghe
Người ấy được tất cả ý vui an lạc
Đại lạc Kim Cang Bất Không Tam Muội Rốt ráo các địa.
Hiện đời đạt được
Tất cả pháp lạc tự tại
Dùng thân 16 vị Đại Bồ Tát
Được sanh nơi Như Lai
Địa vị chấp Kim Cang Hồng
Lúc bấy giờ tất cả Như Lai
Cùng trì Kim Cang Bồ Tát Ma Ha Tát
Tất cả vân tập đều muốn nhận pháp này
Bất không vô ngại mau thành tựu.
Cùng nhau xưng tán
lời Kim Cang thủ
Chữ: (tán thán)
Thiện tai thiện tai đại Tát Đỏa
Thiện tai thiện tai đại an lạc
Thiện tai thiện tai Ma Ha Diễn
Thiện tai thiện tai đại trí huệ
Thiện năng diễn thuyết thử pháp giáo
Kim Cang Tu Đa La gia trì
Trì thử tối thắng Giáo Vương giả
Nhứt thiết chư ma bất năng hoại
Đắc Phật Bồ Tát Tối Thắng vị
Ư chư Tất Địa đương bát cửu
Nhứt thiết Như Lai cập Bồ Tát
Cộng tác như thị thắng thuyết dĩ
Vi lệnh trì giả tất thành tựu
Giai đại hoan hỷ tín thọ hành.
(hợp sát)
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Nghĩa: (tán thán ca ngợi)
Lành thay lành thay Đại Tát Đỏa
Lành thay lành thay đại an lạc
Lành thay lành thay trí Bát Nhã
Lành thay lành thay trí huệ lớn
Lành thay diễn nói giáo pháp này
Kim Cang Tu Đa La gia trì
Người trì Tối Thắng Giáo Vương này
Tất cả các ma chẳng thể phá
Được Phật Bồ Tát nơi tối thắng
Ở nơi các địa gần chẳng xa
Tất cả Như Lai và Bồ Tát
Cùng nói pháp tối thắng
Khiến cho người trì đều thành tựu
Đều vui mừng lớn, tin làm theo. (cùng niệm Phật)
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Hậu tán (Phật tán)
Ma ha ca lô ni kiền nẫm tham
Xá sa đa lam tát phược phục nam bổn an na địa phú na đà lam bát la noa ma nhị hằng tha nghiệt đam.
Chữ: Hồi hướng
Sám hối tùy hỷ khuyến thỉnh phước
Nguyện ngã bất thất bồ đề tâm
Chư Phật Bồ Tát diệu chúng trung
Thường vi thiện hữu bất quyến xả
Ly ư bát nạn sanh vô nạn
Túc mệnh trụ trí trang nghiêm thân
Viễn ly ngu mê cụ bi trí
Tất năng mãn túc Ba La Mật
Phú lạc phong nhiêu sanh thắng tộc
Quyến thuộc quảng đa hằng thức thạnh
Tứ vô ngại biện, thập tự tại
Lục thông chư thiền tất viên mãn
Như Kim Cang tràng cập Phổ Hiền
Nguyện tán hồi hướng diệc như thị
Quy mệnh đảnh lễ đại bi Tỳ Lô Giá Na Phật
Nghĩa: Hồi hướng
Sám hối vui theo phước khuyến thỉnh
Nguyện con chẳng mất Bồ Đề tâm
Chư Phật Bồ Tát trên tất cả
Thường vì bạn lành chẳng bỏ quên
Lìa nơi tám nạn154 sanh vô nạn
Đầy đủ lục trí, trang nghiêm thân
Xa lìa ngu mê, đủ bi trí
Đều được viên mãn ba la mật
Giàu vui lịch lãm sanh tộc lớn
Quyến thuộc đông nhiều sung thạnh thêm
Bốn vô ngại biện155 mười tự tại 156
Lục thông, các thiền đều vô ngại
Như long Kim Cang cùng Phổ Hiền
Nguyện xin hồi hướng đều như nguyện.
Cúi đầu đảnh lễ Đại Bi Tỳ Lô Giá Na Phật.
Sau đây xin giới thiệu về “Thánh Linh Hồi Hướng”. Tụng Chân Ngôn và Đà La Ni này nhằm tạo công đức và tiêu diệt tội chướng cho người mất, cầu nguyện người mất chứng thành Phật quả.
Chân Ngôn này mang ý nghĩa chơn thật của Như Lai. Khi thành tâm tụng đọc, phiền não nghiệp chướng sẽ tiêu trừ và thân tâm được thanh tịnh viên mãn. Lại nữa Đà La Ni xưa dịch là Tổng Trì, nghĩa là những lời nói của Như Lai, trong mỗi chữ mỗi câu bao gồm và gìn giữ vô lượng nghĩa lý giáo pháp.
Chân Ngôn và Đà La Ni chung cuộc đều giống nhau và không thể phân biệt được nội dung hai loại này. Loại nào cũng dùng cách đọc bằng âm chữ Phạn. Nói chung các loại Đà la ni thường dài và Chân Ngôn thì ngắn hơn. Đó là điểm đặc trưng vậy.
Đặc biệt, tất cả Chân Ngôn và Đà La Ni sẽ giúp người mất tội chướng tiêu trừ và phước trí được tăng trưởng. Từ xưa đến nay không gì hơn “A Di Đà Đà La Ni” và “Quang Minh Chân Ngôn” cả.
---o0o---
X.04.Thánh Linh Hồi Hướng
A Di Đà Như Lai Căn Bản Đà La Ni (1 lần hoặc 3 lần)
Nouboo Aratannoo tarayaaya
Noumaku ariya mitaabaaya
Tatagyataya aragatei sanmyaku
Sanboodaya tanyata
On amiritei
Amirito dohanbei
Amirita gyarabei
Amirita sattei
Amirita teisei
Amirita bikirandei
Amirita bikiranda gyaminei
Amirita gyagyanoo kichikyarei
Amirita Dondobi Sobarei
Saraba Arata Satanei
Saraba Kyarama Kirei shakisha Yoo kyarei sowaka.
Dịch nghĩa theo lối phiên âm và ý tiếng Nhật
A Di Đà Như Lai Căn Bản Đà La Ni Con xin quy y Tam Bảo vị Thánh A Di Đà (vô lượng quang minh, vô lượng thọ mệnh)
Bậc Như Lai với Đức của vị Thánh.
Con xin kính lễ bậc chánh đẳng chánh giác.
Cam Lồ Tôn
Cam Lồ Sở Sanh Tôn
Cam Lồ Thai Tạng Tôn
Cam Lồ Thành Tựu Tôn
Cam Lồ Uy Quang Tôn
Cam Lồ Thần Biến Tôn
Cam Lồ Đằng Dược Tôn
Cam Lồ Quảng Thiệt Tôn
Cam Lồ Hảo Âm Tôn
Tất cả nghĩa lợi thành tựu tôn
Tất cả nghiệp chướng tiêu trừ tôn
Được thành tựu. Phổ Minh Chân Ngôn (7 lần hoặc 21 lần)
On (Thánh ngữ)
Abogya (Bất không)
Beiroshyanoo (Biến chiếu)
Makabodara (Đại Ấn)
Mani (Bảo Châu)
Handoma (Liên Hoa)
Jinbara (Quang Minh)
Haraharitaya (Chuyển hoán)
On (Thánh ngữ)
Bảo hiệu (mỗi danh xưng tụng 3 lần hay bảy lần)
Nam Mô Bổn Tôn Giới Hội
Nam Mô Lưỡng Bộ Giới Hội
Nam Mô Đại Sư Biến Chiếu Kim Cang
Hồi hướng tinh linh (pháp danh)
Nam Mô pháp giới vạn linh.
Chữ:
Phổ Hồi hướng
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Nghĩa:
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Phần hồi hướng cho tinh linh như trên đã xong. Nếu nói Chân Ngôn và Đà La Ni là việc lợi ích thì đây là những bài kinh khá đầy đủ.
Thế nhưng trong trường hợp những Đàn Gia tự đọc tụng thì nên nhờ vị Thầy hồi hướng, nếu chỉ riêng phần này thì quá đơn giản. Đầu tiên đọc tụng cúng dường “Lý Thú Kinh” “Trình Cúng” rồi “Lý Thú Kinh” như những trang trước về Đức Bổn Tôn. Sau đó hồi hướng đến tinh linh tiếp theo. Trong trường hợp nầy không dùng “Phổ Hồi Hướng” mà đối với “Lý Thú Tam Muội” thì dùng “Hồi Hướng”.
Khi hồi hướng việc cúng giỗ thì đọc tiếp “Quang Minh Chân Ngôn”. Lúc ấy có thể đọc tụng thêm Chân Ngôn 13 vị Phật nữa. Bây giờ nếu cúng giỗ và tụng Chân Ngôn của 13 vị Phật thì theo thứ tự như sau:
Thập Tam Phật Chân Ngôn
Sơ thất: Bất Động Minh Vương
Noomaku samanda Bazaradan Kan
Nhị thất: Thích Ca Như Lai
Noomaku Samanda Bodanan Haku
Tam thất: Văn Thù Bồ Tát
On arahashanoo
Tứ thất: Phổ Hiền Bồ Tát
On sanmaya satoban
Ngũ thất: Địa Tạng Bồ Tát
On kakaka Bisanmabi Sowaka
Lục thất: Di Lặc Bồ Tát
On Baitareiya Sowaka
Chung thất: Dược Sư Như Lai
On Korokoro Sendari Matoogi Sowaka
Bách nhựt: Quan Âm Bồ Tát
On Arorikiya Sowaka
Giỗ năm đầu: Thế Chí Bồ Tát
On sansansanzaku Sowaka
Giỗ lần thứ ba: Di Đà Như Lai
On amirita Teiseikara Un
Giỗ lần thứ bảy: A Súc Như Lai
On akishubiya Un
Giỗ lần thứ 13: Đại Nhựt Như Lai (Kim Cang Giới) On bazaradato Ban
Giỗ lần thứ 17: Đại Nhựt Như Lai (Thai Tạng Giới) A Bi Ra Un Ken
Giỗ lần thứ 33: Hư không Tạng Bồ Tát On Bazara Aratannouon Taraku Sowaka.
Dưới đây xin thêm một thí dụ về quy tắc pháp “Kỳ nguyện” để chấm dứt phần giới thiệu về Kinh.
Gọi là kỳ nguyện hay kỳ đảo, có nghĩa là muốn thoát khỏi những hành vi mê tín. Phải nhận chân sâu sắc theo cội nguồn của tôn giáo về việc này, đây không phải việc tầm thường. Nguyên chữ kỳ nguyện xuất phát từ tôn giáo. Mỗi ngày ta phải cảm tạ ân huệ và cầu nguyện luôn để được hưởng sự gia hộ. Đây chính là lòng nhiệt thành của người có tín tâm nơi tôn giáo.
Thật ra không phải chỉ cầu nguyện riêng cho hạnh phúc của mình, mà còn cầu cho hạnh phúc của người khác nữa. Hoặc giả cũng không phải chỉ cầu cho những người đang sống, mà còn cầu nguyện cho những người đã mất, được sanh về cõi tốt đẹp hơn. Như vậy chắc chắn tấm lòng ấy không phải là ích kỷ mà có thể nói rằng đây là tinh thần cao cả của người theo Phật Giáo Đại Thừa.
Do đó đối với những Tự Viện của Chân Ngôn Tông thường hay tổ chức kỳ đảo Hộ Ma, mà trong kinh Đại Bát Nhã cũng hay đưa ra nhiều thí dụ về việc cầu nguyện như vậy. Đồng thời cũng có Đàn Gia hay tín đồ mời chư Tăng đến nhà để làm lễ “Chánh Ngũ Cửu”; hoặc khi xây nhà mới, làm lễ cầu nguyện cho giao thông an toàn. Những việc như vậy không phải là việc xa lạ gì lắm.
Ở đây xin giới thiệu một ví dụ về lễ Đại Bát Nhã và Hộ Ma tại chùa. Hay khi tụng Kinh hoặc các lễ nghi kỳ nguyện tại gia khác, chắc hẳn cũng phải đọc Kinh như vậy.
Người ta thường tụng: “Kinh Tích Trượng” “Kinh Bất Động” hay “Kinh Quan Âm”. Sau đây xin lần lượt giới thiệu một số kinh ngắn gọn làm căn bản cho việc nầy.
Cửu Điều Tích Trượng
(Nguyên văn)
Chữ:
Thủ chấp Tích Trượng
Đương nguyện chúng sanh
Thiết đại thí hội
Thị như thật đạo
Cúng dường Tam Bảo
Thiết đại thí hội
Thị như thật đạo
Cúng dường Tam Bảo
(Tam chấn)
Nghĩa:
Tay cầm tích trượng
Cầu cho chúng sanh
Thích hội thí đây
Là đạo chơn thật
Cúng dường Tam Bảo
Lập hội thí này
Là đạo chơn thật
Cúng dường Tam Bảo
(Dộng Tích Trượng ba lần)
Chữ:
Dĩ thanh tịnh tâm
Cúng dường Tam Bảo
Phát thanh tịnh tâm
Cúng dường Tam Bảo
Nguyện thanh tịnh tâm
Cúng dường Tam Bảo
(Nhị chấn)
Nghĩa:
Dùng tâm thanh tịnh
Cúng dường Tam Bảo
Phát tâm thanh tịnh
Cúng dường Tam Bảo
Nguyện thanh tịnh tâm
Cúng dường Tam Bảo
(Dộng tích trượng hai lần)
Chữ:
Đương nguyện chúng sanh
Tác thiên nhơn sư
Hư không mãn nguyện
Độ khổ chúng sanh
Pháp giới vi nhiễu
Cúng dường Tam Bảo
Trực ngộ chư Phật
Tốc chứng Bồ Đề
(Nhị chấn)
Nghĩa:
Cầu cho chúng sanh
Làm Thầy trời người
Nguyện cùng hư không
Chúng sanh khổ hết
Pháp giới chung quanh
Cúng dường Tam Bảo
Gặp được chư Phật
Mau chứng Bồ Đề
(Dộng tích trượng hai lần)
Chữ:
Đương nguyện chúng sanh
Chơn đế tu tập
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Tục đế tu tập
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Nhứt thiết tu tập
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Cung kính cúng dường
Phật bảo Pháp bảo Tăng bảo
Nhứt thiết Tam Bảo
(nhị chấn)
Nghĩa:
Cầu cho chúng sanh
Tu tập chơn đế
Đại từ đại bi
Hết thảy chúng sanh
Tu tập tục đế
Đại từ đại bi
Hết thảy chúng sanh
Tu tập hết thảy
Đại từ đại bi
Hết thảy chúng sanh
Kính lễ cúng dường
Phật – Pháp Tăng bảo
Tam Bảo hơn cả.
(Dộng tích trượng hai lần)
Chữ:
Đương nguyện chúng sanh
Đàn Ba La Mật
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Thi La Ba La Mật
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Sằn Đề Ba La Mật
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Tỳ Lê Gia Ba La Mật
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
Thiền Na Ba La Mật
Đại từ đại bi
Nhứt thiết chúng sanh
(Nhị chấn)
Nghĩa:
Cầu cho chúng sanh
Bố thí rốt ráo
Đại từ đại bi
Tất cả chúng sanh
Trì giới rốt ráo
Đại từ đại bi
Tất cả chúng sanh
Nhẫn nhục rốt ráo
Đại từ đại bi
Tất cả chúng sanh
Tinh tấn rốt ráo
Đại từ đại bi
Tất cả chúng sanh
Thiền định rốt ráo
Đại từ đại bi
Tất cả chúng sanh
Trí tuệ rốt ráo
Đại từ đại bi
Tất cả chúng sanh
(Dộng tích trượng hai lần)
Chữ:
Đương nguyện nhứt thiết
Thập phương nhứt thiết
Vô lượng chúng sanh
Văn Tích Trượng thinh
Giải đải giả tinh tấn
Phá giới giả trì giới
Bất tín giả lệnh tín
Xan tham giả lệnh tín
Sân si giả từ bi
Ngu si giả trí tuệ,
Kiêu mạn giả cung kính
Phóng dật giả nhiếp tâm
Cụ tu vạn hạnh
Tốc chứng Bồ Đề
(Nhị chấn)
Nghĩa:
Cầu cho chúng sanh
Tất cả mười phương
Vô lượng chúng sanh
Khi nghe tích trượng
Giải đải liền siêng năng
Phá giới liền giữ giới
Chẳng tin làm cho tin
Tham lam khiến bố thí
Sân si lại từ bi
Ngu si thêm trí tuệ
Kiêu mạn lại cung kính
Buông lung hay nhiếp tâm
Đều tu vạn hạnh
Mau chứng Bồ Đề
(Dộng tích trượng hai lần)
Chữ:
Đương nguyện chúng sanh
Thập phương nhứt thiết
Tà ma ngoại đạo
Võng lượng quỷ thần
Độc thú độc long
Độc trùng chư loại
Văn tích Trượng thinh
Tồi phục độc hại
Phát Bồ Đề Tâm
Cụ tu vạn hạnh
Tốc chứng Bồ Đề
(Nhị chấn)
Nghĩa:
Cầu cho chúng sanh
Tất cả mười phương
Tà ma ngoại đạo
Yêu quái quỷ thần
Thú độc rồng độc
Trùng độc các loại
Khi nghe tích trượng
Xua đuổi độc hại
Phát tâm Bồ Đề
Đầy đủ vạn hạnh
Mau chứng Bồ Đề
(Dộng tích trượng 2 lần)
Chữ:
Đương nguyện chúng sanh
Thập phương nhứt thiết
Địa ngục ngạ quỷ súc sanh
Bát nạn chi xứ
Thọ khổ chúng sanh
Văn tích trượng thinh
Tốc đắc giải thoát
Hoặc, si nhị chướng
Bách bát phiền não
Phát Bồ Đề Tâm
Cụ tu vạn hạnh
Tốc chứng Bồ Đề
(Nhị chấn)
Nghĩa:
Cầu cho chúng sanh
Tất cả mười phương
Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
Khắp nơi tám nạn
Chúng sanh khổ sở
Khi nghe tích trượng
Mau được giải thoát
Hoặc, si hai chướng
Trăm tám157 phiền não
Phát Bồ Đề Tâm
Đều tu vạn hạnh
Mau chứng Bồ Đề
(Dộng tích trượng hai lần)
Chữ:
Quá khứ chư Phật
Chấp trì tích trượng
Dĩ thành Phật
Hiện tại chư Phật
Chấp trì tích trượng
Hiện thành Phật
Chấp trì tích trượng
Đương thành Phật
Cố ngã khể thủ
Chấp trì tích trượng
Cúng dường Tam Bảo
Cố ngã khể thủ
Chấp trì tích trượng
Cúng dường Tam Bảo
(tam chấn)
Nghĩa:
Chư Phật quá khứ
Cầm giữ Tích Trượng
Đã thành Phật rồi
Hiện tại chư Phật
Cầm giữ Tích Trượng
Hiện đang thành Phật
Chư Phật vị lai
Cầm giữ Tích Trượng
Sẽ được thành Phật
Nên con cúi đầu
Cầm giữ Tích Trượng
Cúng dường Tam Bảo
(Dộng Tích Trượng ba lần)
Chữ:
Nam Mô cung kính cúng dường
Tam Tôn giới hội
Cung kính cúng dường
Hiển Mật Thánh giáo
Ai mẫn nhiếp thọ
Hộ trì đệ tử
Nghĩa:
Chí thành cung kính cúng dường
Tam Tôn giới hội
Thành kính cúng dường
Hiển, Mật Thánh giáo
Xót thương nhận cho
Hộ trì cho con
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Dịch theo lối văn hiện đại của Nhật Bản)
Phật nói kinh căn bản giác ngộ đạt đến hoàn toàn trí tuệ nơi bờ kia một cách vĩ đại
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát khi thực hành Tam Mật, tu sâu xa hoàn toàn bằng trí tuệ, Ngài thấy rõ được rằng: Năm yếu tố cấu thành thân tâm của con người trên thực thể không có tính cách cố định, cùng hỗ tương với nhau, duy trì chi phối để được tồn tại. Tất cả đều không ngoại trừ sự khổ.
Nầy Xá Lợi Tử! Hình thức cuộc đời nầy tất cả đều không có thực thể. Bởi vì thực thể không có; nên hình thức ấy chỉ tồn tại trong giây lát và tuy là có hình dáng đó; nhưng thực thể của nó lại không. Thật thể không ấy trở thành có hình tướng; sự cấu tạo gồm: cảm giác, tưởng nghĩ, ý chí, nhận thức v.v… và tâm cũng giống như vậy. Nó không thực thể cố định, hỗ tương với nhau để duy trì sự sống, không thay đổi.
Nầy Xá Lợi Tử! Bởi vì không có chơn tướng của thật thể; nên sự tồn tại trong đời nầy là hiện tượng. Nguyên thủy của nó không có sanh ra, lại chẳng có mất đi; lại chẳng có dơ cũng không có sạch; cũng không tăng mà cũng chẳng giảm.
Cho nên nếu đứng từ điểm không có thật thể ấy thì hình thức (vật chất) cũng không, cảm giác và tưởng niệm, ý chí và nhận thức, ngay cả tâm (tinh thần) cũng chẳng có gì cả. Ngoài ra thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cùng cảm giác khí quản (sáu căn) lại cũng không.
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là đối tượng (sáu trần) cũng không. Từ đó những loại nầy nhận lấy nhãn thức cho đến ý thức, gồm 6 nhận thức chủ tể (sáu thức) cũng không. Nói chung từ lãnh vực của mắt đến lãnh vật của ý thức gồm 18 lãnh vực (6 căn, 6 cảnh, 6 thức thành 18 giới) đều không.
Lại cũng chẳng có căn bản của sự vô minh, cũng không có cái cuối cùng của vô minh. Lại từ căn bản của vô minh cho đến lập lại 12 nhơn duyên và cho đến lão tử (12 nhân duyên) ấy cũng không có già chết, lại cũng chẳng có tận cùng của sự già chết.
Đã không có khổ thì nguyên nhân cũng không. Nếu khổ chẳng có thì phương pháp “Tứ đế” cũng không.
Không có đã rõ biết thì việc ấy cũng không có nữa. Thực thể không; cho nên việc đạt tới chân tướng ấy cũng không.
Người tu hành cầu giác ngộ vì hoàn toàn nương vào việc tu trí huệ; nên tâm chẳng lo sợ, vì không lo sợ nên chẳng có gì sợ hãi.
Cuối cùng suy nghĩ xa lìa những loại ấy, thì rốt ráo có thể an trụ được nơi cảnh giới giải thoát.
Trải qua quá khứ, hiện tại và tương lai những người dùng mắt để thấy chơn chánh và tất cả đều hoàn toàn nương theo trí tuệ, thì không có gì trên hết việc rõ biết những điều chơn thực ấy.
Do vậy nên biết rằng việc hoàn toàn nương vào trí tuệ để tu, thì đây là một Chân Ngôn vĩ đại, một Chân Ngôn giác ngộ to lớn và không có Chân Ngôn nào trên cả. Không có Chân Ngôn nào có thể so sánh được. Cho nên có thể trừ được tất cả khổ, chơn thật, không hư ngụy.
Do vậy cuối cùng thuật lại Chân Ngôn của việc hoàn toàn nương theo trí tuệ ấy. Chân Ngôn như sau: “Hãy đến! (các vị Thanh Văn! Người người hãy đến nghe Phật thuyết pháp! Hãy đến đây).
Hãy đến: (các vị Duyên Giác! Phật sẽ khai ngộ cho những người có duyên với Phật ! Hãy đến).
Đến bên kia bờ (Các vị Bồ Tát! Hãy tự mình cùng những người khác, mọi người hãy cùng tỏ ngộ! Hãy đến bờ bên kia )
Bờ bên kia đã đến rồi (Nầy các bạn của Chân Ngôn! Và những người cùng đi trên con đường của Phật! Hãy đến trước bờ bên kia!)
Hãy giác ngộ! cùng hạnh phúc (Tất cả cùng giác ngộ và qua bên kia bờ. Hãy giác ngộ! cùng hạnh phúc) để hoàn thành trí tuệ. Kinh này là căn bản của sự giác ngộ.
Chư Chân Ngôn
Phật nhãn
On Bodaroshani Sowaka
Cúi đầu trước Bổn Tôn của Kim Cang giới ! Đại Nhựt Tôn
Thai Đại Nhựt
A Bi La Un Ken
Bản thể của vũ trụ gồm 5 đại là: đất, nước, lửa, gió, không khí.
Thai Tạng Đại Nhựt Tôn .
Bất Động
Noomaku Samanda Bazaradan Senda Makaroshada Sowataya un Tarat Kanman.
Xin quy y tất cả các vị Kim Cang, đặc biệt hiện ra tướng bạo ác đại phẩn nộ để chiến đấu với phiền não và ác ma. Ngài Bất Động Minh Vương.
Giáng Tam Thế
On Sobanisoba Un Bazara Un Hatta.
Quy y với Hàng Tam Thế Minh Vương, đầy đủ Kim Cang lực, để phá hủy các ma phẩn nộ.
Quân Trà La
On Amiritei Un Hatta
Quy y Đức Cam Lồ Quân Trà Lợi Minh Vương!
Phá dẹp những ma phẩn nộ.
Đại uy Đức
On Shuchiri Kyararoha Un Ken Sowaka
Quy y vị có hình màu đen đáng sợ hãi, là bậc Đại Uy Đức Minh Vương! Cầu cho được thành tựu hạnh phúc.
Kim Cang Dạ Xoa
On Bazara Yakisha Un
Quy y Đấng Kim Cang Dạ Xoa Minh Vương!
Xin hàng phục các ác ma.
Đại Kim Cang luân
Noomaku Shutchiriya Jibikyanan Tatagyatanan An Biragi Makashakyara Bajiri Tarai Bitamani Sanhanzani Taramachi Shitta Giriya Taran Sowaka .
Xin quy y tất cả ba đời chư Phật, vô cấu, thật là vô cấu, Đại luân Kim Cang Tam Muội thật kiên cố, thật là kiên cố, dũng kiện, thật là dũng kiện. Ở đời để giúp đời. Bậc cứu thế trừ dứt những cấu uế và phá bỏ hết! Hãy giúp cho con người được thành tựu trí tuệ tối thượng!
Nhứt tự luân quán
Noowaku Samanda Bodanan Boron
Xin quy y tất cả chư Phật! Nhứt tự Kim Luân Tôn. Hậu Dạ Kệ
Chữ:
Bạch chúng đẳng các niệm
Thử thời thanh tịnh kệ
Chư pháp như ảnh tượng Thanh tịnh vô hà uế
Thủ thiết bất khả đắc
Giai tòng nhơn nghiệp sanh
Nghĩa: Kệ sau đêm
Thưa cùng đại chúng nhớ
Lúc nầy thật thanh tịnh
Các pháp như hình ảnh Thanh tịnh chẳng tỳ vết
Nắm giữ lại chẳng được Đều do duyên nghiệp sanh.
---o0o---
X.05.Những sách tham khảo chính yếu
Mật Giáo Phật Giáo sử của Mai vĩ Tường Vân trước tác, Đại Học Cao Dã Sơn xuất bản Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải do Sơn Bổn Trí Giáo, (Đại diện) biên soạn - Giảng Đàm Xã xuất bản (Châu thức hội xã)
Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải do Tùng Vĩnh Hữu Khanh soạn lại - Mỗi Nhựt Tân văn xã xuất bản.
Hoằng Pháp Đại Sư Không Hải Toàn Tập - gồm 8 quyển do Cung Phản Hào Thắng (Đại diện) biên soạn – Trúc Ma Thơ Phòng ấn hành.
Hoằng Pháp Đại Sư truyện do Gia Đằng Tinh Nhứt biên soạn – Chân Ngôn Tông Phong Sơn Phái Tông Vụ Sảnh ấn hành.
Tất cả về Không Hải Mật Giáo gồm các Tác Giả biên soạn như: Cung Phản Hào Thắng; Cung Kỳ Nhẫn Thắng và Thôn Cương Không – Chu Kỵ Thơ phòng ấn hành.
Hoằng Pháp Đại Sư cuộc đời và sự dạy dỗ do Phước Điền Hào Thành biên soạn – Sonburu (Châu Thức Hội Xã phát hành).
18 Bổn Sơn tuần bái án nội ký do Chân Ngôn Tông các phái Tổng Bổn Sơn Hội chủ trương và biên tập phát hành.
Hòa văn kinh điển do Mai Vĩ Tường Vân dịch thuật – Chân Ngôn Mật Giáo Hòa dịch kinh điển nghiên cứu hội phát hành.
Người phụ nữ nên biết do Đằng Tỉnh Long Tâm biên soạn và Chân Ngôn Tông Trí Sơn phái Tông Vụ sảnh phát hành.
Trí Sơn giáo hóa tư liệu (gồm nhiều tập và đủ các loại) do Trí Sơn Giáo Hóa nghiên cứu Sở Biên và Chân Ngôn Tông Trí Sơn phái Tông Vụ Sảnh phát hành.
Tang Nghi Đại Tự Điển do Đằng Tỉnh Chánh Hùng biên soạn lại và Liêm Thương Thơ phòng (Châu Thức Hội Xã) ấn hành.
Phật Giáo Tang Tế Đại Tự Điển do những tác giả như sau soạn: Đằng Tỉnh Chánh Hùng; Hoa Sơn Thắng Hữu; Trung Dã Đông Thiền và do Hùng Sơn Cát xuất bản.
Minh Giải Phật Giáo Sự Điển do Vĩnh Điền Cung Điển biên soạn và Bổn Bổn Hữu Xã (Châu Thức Hội Xã) ấn hành.
Bát Nhã Tâm Kinh do Kim Cang Tú Hữu hiệu chú và Giảng Đàm Xã (Châu Thức Hội Xã) phát hành.
CD tụng bằng tiếng Nhật gồm những bài kinh như sau:
Sám hối văn,
Tam quy lễ văn,
Thập Thiện giới
Phát Bồ Đề Tâm Chân Ngôn,
Tam muội Da Giới Chân Ngôn
Khai kinh văn,
Phật thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Quang Minh Chân Ngôn,
Bảo Hiệu,
Phổ Hồi Hướng.
Cần Hành Thức (Hán Việt)
Gon Gyoo Shiki (Nhựt Ngữ)
Sám Hối Văn
San Geno Mon (Thỉnh 2 tiếng chuông)
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Ware mukashi yori Tsukuru Tokoro no Moroku no aku
Goo Wa
Giai do vô thỉ tham sân si
Mina mushi no Ton Jin Chi Ni yoru Tùng thân ngữ ý chi sở sanh
Shin go I yori shoozuru Tokoro nari
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối
Issai ware Ima mina Sange Shitatematsuru
(Thỉnh 1 tiếng chuông)
Lễ văn ba tự quy y
San ki rai mon
Thân người khó được nay đã được
Jin shin ukegatashi Ima sudeni uku
Phật pháp khó nghe nay được nghe
Butsu Boo kikigatashi Ima sudeni kiku
Bây giờ không độ thân nầy được
Kono mi konjoo ni dosezunba
Cho đến bao giờ độ thân nầy
Sara ni Izureno shoo ni oiteka kono mi o dosen
Đại chúng hãy nhất tâm quy y Tam Bảo Dai shyu morotomo ni shishin ni Sanboo ni kie Shitatematsuru.
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh
Minzukara Butsu ni kie Shitatematsuru
Masa ni negawaku wa shuyoo to tomo ni
Thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Daidoo o taige shite muyooi o okosan
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh Mizukara Hoori kie Shitatematsuru
Masa ni negawaku wa shuyoo to tomo ni
Thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải
Fukaku kyoozoo ni Irite chie umi no Gotokunaran.
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh
Mizukara Soo ni kie Shitatematsuru, masa ni negawaku wa Shuuyoo to tomo ni.
Thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại Daishyu o toorishite sssai mugenaran
(1 tiếng chuông)
Thập Thiện giới
Yuu Zen Kai
Đệ tử mổ giáp
De shi mu koo
Tận vị lai tế
Jin mi rai sai
Bất sát sanh
Bu setsu shoo
Bất thâu đạo
Bu chyuu too
Bất tà dâm
Bu ya in
Bất vọng ngữ
Bu moo go
Bất ỷ ngữ
Bu ki go
Bất ác khẩu
Bu atsu ku
Bất lưỡng thiệt
Bu ryoo zetsu
Bất xan tham
Bu ken don
Bất sân si
Bu shin ni
Bất tà kiến
Bu ya ken
(Thỉnh một tiếng chuông)
Phát Bồ đề Tâm Chân Ngôn
Hotsu Bo Dai Shin shin Gon
On Boochishatta Bodawadayami
(3 lần 1 tiếng chuông )
Tam Muội Da Giới chân ngôn
San Ma ya kai shin gon
On Sanmaya Satoban
(3 lần 1 tiếng chuông)
Kệ kinh
Kai Kyoo Mon
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Mujoo jin jin mi myoo no hoo wa
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Hyaku sen man goo nimo ai ou koto katashi
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Ware Ima ken mon shi zuuji suru koto o etari
Nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa
Negawaku wa Nyo rai no Shinjitsugi o Gesen koto o
(Thỉnh 1 tiếng chuông)
Phật thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh
Butsu setsu Ma Ka Han Nya Ha Ra Mi Ta Shingyoo
Quán Tự Tại Bồ Tát
Kan Ji Zai Bo Sa
Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời
Gyoo Jin Han Nya Ha Ra Mi Ta Ji
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không
Shoo ken go un kai kuu
Độ nhất thiết khổ ách
Do issai ku yaku
Xá Lợi Tử
Sha Ri Shi
Sắc bất dị không
Shiki bu I kuu
Không bất dị sắc
Kuu bu I shiki
Sắc tức thị không
Shiki soku ze kuu
Không tức thị sắc
Kuu soku ze shiki
Thọ tưởng hành thức
Yuu soo Gyoo Shiki
Diệc phục như thị
Yaku bu nyo ze
Xá Lợi Tử
Sha ri Shi
Thị chư pháp không tướng
Ze sho hoo kuu soo
Bất sanh bất diệt
Bu shoo bu metsu
Bất cấu bất tịnh
Bu ku bu yoo
Bất tăng bất giảm
Bu soo bu gen
Thị cố không trung
Ze ko kuu yuu
Vô sắc vô thọ tưởng hành thức
Mu Shiki Mu juu soo gyoo shiki
Vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý
Mu gen ni bi su zetsu shin ni
Vô sắc thanh hương vị xúc pháp
Mu shiki shoo koo mi soku hoo
Vô nhãn giới
Mu gen kai
Nãi chí vô ý thức giới
Nai shi mu I shiki kai
Vô vô minh
Mu mu myoo
Diệc vô vô minh tận
Yaku mu mu myoo jin
Nãi chí vô lão tử
Nai shi mu roo shi
Diệc vô lão tử tận
Yaku mu roo shi jin
Vô khổ tập diệt đạo
Mu ku yuu metsu doo
Vô trí diệc vô đắc
Mu chi yaku mu toku
Dĩ vô sở đắc cố
I mu sho toku ko
Bồ Đề Tát Đỏa
Bo Dai Satsu Ta
Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố
E Han Nya Ha Ra Mi Ta ko
Tâm vô quái ngại
Shin mu ke ge
Vô quái ngại cố
Mu ke ge ko
Vô hữu khủng bố Mu u ku bu
Viễn ly nhứt thiết điên đảo mộng tưởng
On ri issai tendoo muso
Cứu cánh Niết Bàn
Ku gyoo Ne Han
Tam thế chư Phật
San ze sho Butsu
Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố
E Han Nya Ha Ra Mi Ta ko
Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
Toku A noku Ta Ra Sam Myaku San Bo Dai
Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa
Ko chi Han Nya Ha Ra Mi Ta
Thị đại thần chú
Ze dai Jin shu
Thị đại minh chú
Ze dai Myoo shu
Thị vô thượng chú
Ze mu yoo shu
Thị vô đẳng đẳng chú
Ze mu too doo shu
Năng trừ nhứt thiết khổ Noo yo issai ku
Chơn thiệt bất hư
Shin Jitsu bu ko
Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú
Ko setsu Han Nya Ha Ra Mi Ta shu
Tức thuyết chú viết
Soku setsu shu watsu
Yết Đế Yết Đế
Gyatei Gyatei
Ba La Yết Đế
Ha Ra Gyatei
Ba La Tăng Yết Đế
Ha Ra Soo Gyatei
Bồ Đề Tát Bà Ha
Bo Ji So Wa Ka
Bát Nhã Tâm Kinh
Han Nya Shin Gyoo
(một tiếng chuông)
Quang Minh Chân Ngôn
Koo myoo shin gon
On Abokya beiroshanoo Makabodara
Mani Handoma Jinbara Haraharitaya un
(7 lần, thỉnh 1 tiếng chuông)
Bảo Hiệu
Hoo Goo
Nam Mô Bổn Tôn Giới Hội
Na Mu Hon Zon Kai E
(Ba lần, thỉnh một tiếng chuông)
Nam Mô Đại Sư Biến Chiếu Kim Cang
Na Mu Dai Shi Hen Yoo Kon Goo
(ba lần, thỉnh một tiếng chuông)
Nam Mô Hưng Giáo Đại Sư
Na Mu Koo Gyoo Dai Shi
(Ba lần, đánh một tiếng chuông)
Phổ Hồi Hướng
Fu E Koo
Nguyện đem công đức nầy
Negawaku wa kono kudoku o motte
Hướng về khắp tất cả
Amaneku issai ni oyoboshi
Đệ tử và chúng sanh
Warera to shyu yoo to
Đều trọn thành Phật Đạo
Mina tomo ni Butsu Doo o yoozen koto o
(Đánh một tiếng chuông)
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |