ĐỨc tin ngưỜi công giáo the Catholic Vision Mark Link, sj. Lm. Trần Đình Nhi



tải về 1.67 Mb.
trang6/10
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.67 Mb.
#37886
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Tại sao Đức Giê-su làm phép lạ?

Đức Giê-su đã chữa lành người ta, có phải vì Ngài thương xót họ không? Có phải vì người ta nài xin Ngài giúp họ hết đau đớn không?


Rõ ràng Đức Giê-su đã làm phép lạ vì cả hai lý do trên. Nhưng có những lý do khác sâu xa hơn.
Trước hết Đức Giê-su đã muốn những phép lạ Ngài làm phải là những dấu chỉ để cho thấy rằng:
* Ngài là Đấng Cứu Thế Thiên Chúa hứa ban

* Ngài đã khai mạc Triều Đại Thiên Chúa.


Tiếp đến, Đức Giê-su đã muốn những phép lạ Ngài làm trở thành những lời mời gọi người ta
* hãy tin vào Ngài

* hãy trở nên những phần tử của Nước Thiên Chúa.


PHÉP LẠ NHƯ NHỮNG DẤU CHỈ

Một số bạn hữu của Gio-an Tẩy giả đã đến với Đức Giê-su và thưa: “Ông Gio-an Tẩy giả sai chúng tôi đến hỏi Thầy: “Thầy có thật là ‘Đấng phải đến’ không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Lc 7:20). Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7:22).


Phép lạ là những dấu chỉ về Đấng Cứu Thế

Để hiểu được câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ của Gio-an, chúng ta phải suy nghĩ về những điều các ngôn sứ Do-thái đã tiên báo về Đấng Cứu Thế. Thí dụ ngôn sứ I-sai-a đã nói rằng việc Đấng Cứu Thế đến sẽ kèm theo những dấu chỉ:


“Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35: 5-6).
Câu trả lời của Đức Giê-su cho môn đệ của Gio-an rõ ràng: những dấu chỉ I-sai-a tiên báo giờ đây đang xảy ra. Những phép lạ Đức Giê-su làm là những dấu chỉ hiển nhiên minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế đã được hứa ban.
Nhưng những phép lạ của Đức Giê-su còn là những dấu chỉ của một điều gì khác hơn nữa.
Phép lạ là những dấu chỉ về Triều đại Thiên Chúa

Cuốn phim Người trừ quỷ (The Exorcist) nói về một người trẻ bị quỷ ám. Phim dựa trên một câu truyện có thật về một cô gái 14 tuổi sống tại Mount Rainier, Maryland, vào năm 1949. Cuộc đời cô gái này khổ sở cho tới khi quyền lực của ma quỷ đã được khu trừ.


Mặc dù việc khu trừ quyền lực ma quỷ ngày nay hiếm có, nhưng lại thường gặp trong thời Kinh Thánh. Thí dụ một ngày kia khi Đức Giê-su đang giảng dạy trong hội đường tại Ca-phác-na-um, thì:
“Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. Nỗi kinh ngạc trùm lên mọi người.” (Lc 4:33-36).
Khi dân chúng rời hội đường, họ hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?”
Sau đó ít lâu, Đức Giê-su trả lời câu hỏi của họ. Ngài trả lời khi có một người tố cáo rằng Ngài đã dùng quyền của “quỷ vương” mà trừ quỷ. Đức Giê-su nói: “Vậy nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” (Lc 11:20)
Câu trả lời của Đức Giê-su đã làm sáng tỏ rằng không những phép lạ là những dấu chỉ cho thấy Ngài là Đấng Cứu Thế, mà còn là những dấu chỉ nói lên Ngài đã khai mạc Triều Đại Thiên Chúa trên mặt đất này.
Triều Đại Thiên Chúa là gì?

Khi Đức Giê-su nói Ngài đã khai mạc Triều Đại Thiên Chúa, thì Ngài có ý nói rằng thời điểm người ta chờ đợi Thiên Chúa thay thế vương quốc của Sa-tan bằng vương quốc của Ngài đã đến rồi. Việc khai mạc Triều Đại Thiên Chúa là việc tái tạo thế giới đã bị tội lỗi phá hủy.


Tuy nhiên Đức Giê-su cho thấy rõ là việc tái tạo thế giới sẽ không xảy ra trong khoảnh khắc. Vương quốc của Xa-tan sẽ chỉ cáo chung sau một cuộc chiến. Đức Giê-su đã so sánh việc Triều Đại Thiên Chúa đến giống như việc gieo hạt giống. Sau khi được gieo xuống, hạt giống phải có một thời gian để nảy mầm, lớn lên rồi sinh hoa trái (Mc 4:26-29). Triều Đại Thiên Chúa cũng vậy.
PHÉP LẠ NHƯ NHỮNG LỜI MỜI GỌI

Bruce Marshall viết một câu truyện hài ước và giả tưởng về một người cầu xin một phép lạ thật lớn để cho người ta không còn nghi ngờ những chân lý về Thiên Chúa và đạo giáo nữa. Phép lạ – và đây là phần hài ước – xảy ra là cả một hộp đêm tội lỗi bị bứng lên và bị đem tới một hải đảo hoang vu ngoài bờ biển Cốt-len.


Phép lạ đã xảy ra. Nhưng thay vì làm cho người ta hối cải thì kết quả lại trái ngược. Những người chủ của hộp đêm đã lợi dụng tất cả những gì đã xảy ra để quảng cáo rầm rộ hơn. Câu truyện kết thúc bằng việc chính người cầu nguyện xin phép lạ đã ý thức rằng thật ra kết quả còn tai hại hơn cả một phép lạ muốn đem người ta trở về với đức tin.
Có thể Marshall đã được gợi ý từ một đoạn Tin Mừng Gio-an. Một ngày kia, Đức Giê-su lấy bùn xức lên mắt một người mù và bảo anh hãy đi đến hồ nước Si-lô-am mà rửa. Người mù đã làm như vậy và anh đã được sáng mắt. Một số người nghe biết việc này và họ không tin là Đức Giê-su chữa lành anh mù. Họ còn chối rằng đó không phải là cùng một người (Ga 9:1-11).
Hai câu truyện trên hiển nhiên cho thấy niềm tin vào Đức Giê-su quan trọng hơn là nhìn thấy dấu lạ hoặc nghe lời giảng. Cần nhất là biết mở lòng trước những gì chúng ta thấy hoặc nghe.
Phép lạ mời gọi người ta hãy tin

Việc Đức Giê-su chữa lành người mù, người điếc, cho con gái ông Gia-ia sống lại (Lc 8:55) đã xảy ra, nhưng không có phép lạ nào tồn tại mãi. Người mù rồi cũng mắt mờ khi tuổi về già. Tai của người điếc được khỏi sẽ lãng dần. Con gái ông Gia-ia sau này cũng chết.


Những phép lạ của Đức Giê-su cũng chỉ giới hạn ở một số ít người. Ngài không chữa lành hết mọi người mù hoặc điếc trên thế giới này. Nhưng Ngài muốn những phép lạ Ngài làm sẽ có một mục đích quan trọng hơn cả việc cứu giúp một số người qua cơn ngặt nghèo. Chúng ta đã thấy một trong những mục đích của phép lạ Đức Giê-su làm, đó là để chứng tỏ:
* Ngài là Đấng Cứu Thế

* Ngài đã khai mạc Triều Đại Thiên Chúa.


Đức Giê-su cũng muốn phép lạ Ngài làm trở thành những lời mời gọi người ta:
* hãy tin vào Ngài

* hãy trở nên những phần tử của Triều Đại Thiên Chúa.


Đức Giê-su muốn phép lạ có ích không phải cho một số ít người, nhưng là cho mọi người trong mọi thời. Việc chữa lành người mù là lời mời gọi mọi người hãy mở mắt ra để nhận biết những gì Đức Giê-su đang làm. Việc chữa lành người điếc là lời mời gọi mọi người hãy mở tai để đón nhận những gì Đức Giê-su đang nói. Việc cho người chết sống lại là lời mời gọi mọi người hãy tin vào Đức Giê-su và hãy chỗi dậy để sống đời sống mới như những phần tử của Triều Đại Thiên Chúa.
Cũng như cánh thiệp mời, phép lạ của Đức Giê-su có đính kèm một thiệp trả lời. Các phép lạ chờ đợi người ta đáp trả.
Để thấy được những phương thức đáp lại lời mời gọi của phép lạ Đức Giê-su, chúng ta hãy xét tới những dụ ngôn của Ngài.
DỤ NGÔN CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Nông dân Pha-lét-tin gieo hạt giống trên mặt đất trước, rồi mới cầy đất phủ lên. Thường thường có một ít hạt rơi trên những đường nhỏ chạy chung quanh ruộng lúa. Cũng có một số hạt rơi vào những bụi gai dầy được trồng làm hàng rào ngăn ngừa thú vật. Một số hạt rơi vào chỗ đất mỏng mà bên dưới là sỏi đá. Đức Giê-su dùng hình ảnh quen thuộc này để làm bối cảnh cho dụ ngôn người gieo hạt giống.


Ngày kia có bác nông phu đi gieo hạt giống. Có hạt rơi trên đường đi và chim chóc đến ăn liền. Có hạt rơi trên đất mỏng nên chết cháy khi mặt trời làm cho đất khô. Có hạt rơi vào bụi gai và bị chết ngạt. Những hạt khác rơi vào đất tốt, bén rễ và sinh hoa trái.

Hạt giống rơi trên đường đi là những người từ chối lời Đức Giê-su mời gọi

Ông Kenneth Clark là người điều hành chương trình truyền hình của Anh-quốc, đã viết về kinh nghiệm sống đạo khi ông đến nhà thờ thánh Lô-ren-xô, tại nước Ý. Kinh nghiệm ấy mạnh mẽ đến nỗi ông coi như nó đã thay đổi sâu xa cuộc đời ông. Tuy nhiên, sau khi kinh nghiệm qua rồi, ông đã quyết định làm ngược lại, lý luận rằng mình đã “bị sa lầy trong trần gian quá sâu nên không còn thay đổi được nữa,”


Quyết định của Clark nhắc nhớ chúng ta về những hạt giống rơi trên đường đi. Đức Giê-su nói rằng chúng ám chỉ về những người nghe lời Chúa, “nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ” (Lc 8:12).
Hạt giống rơi trên sỏi đá là những người bỏ mặc lời Đức Giê-su mời gọi

Clarence và Robert Jordan là hai anh em. Họ đã xả thân vì Đức Giê-su khi họ còn trẻ tuổi. Clarence lớn lên và trở thành một người hoạt động cho dân quyền tại miền Nam vào thập niên 60. Robert thì trở thành một luật sư đầy tham vọng chính trị. Một ngày kia Clarence xin Robert giúp làm cố vấn luật pháp trong một vụ án về dân quyền. Robert từ chối, nói rằng làm như thế sẽ có hại cho con đường chính trị của anh. Khi Clarence nhắc đến việc dấn thân cho Đức Ki-tô thì Robert thú nhận rằng anh phải dẹp qua một bên vì ý đồ chính trị của anh.


Tình trạng của Robert có thể ví như những hạt giống rơi trên sỏi đá. Đức Giê-su nói chúng chỉ về những người nghe lời Chúa và “khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và trong thử thách, họ bỏ cuộc” (Lc 8:13).
Hạt giống rơi vào bụi gai là những người quên đi lời mời gọi của Đức Giê-su

Một nữ sinh trung học ở Philadelphia đã ghi trong tập bài làm của cô như sau: “Cuối năm ngoái, tôi đã có một cuộc gặp gỡ thật tốt với bà cố vấn của tôi. Bà giúp tôi nhận ra thật nhiều điều và tôi đã chọn một số quyết định cho năm nay. Rồi ngày hôm qua tôi thấy choáng váng. Tôi chẳng giữ một quyết định nào cả. Những lo âu và vui chơi của đời học sinh trung học đã làm tôi quên sạch.”


Những điều cô nữ sinh viết nhắc nhớ chúng ta về những hạt giống rơi vào bụi gai. Đức Giê-su nói chúng ám chỉ những người bỏ cuộc vì “bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành” (Lc 8:14).
Hạt giống rơi vào đất tốt là những người chấp nhận lời mời gọi của Đức Giê-su

John R. Stott là tác giả cuốn Căn bản Ki-tô giáo (Basic Christianity). Trong sách này ông kể rằng hồi còn trẻ, một đêm kia ông đã quỳ gối và tận hiến cuộc đời cho Đức Giê-su. Khi nhìn lại quyết định này, Stott nói rằng đó là khúc quẹo trong cuộc đời ông. Nó cho đời ông một mục đích và một hướng đi để tiếp tục sống mỗi ngày.


Stott hiến thân vì Đức Ki-tô có thể ví như hạt giống rơi vào đất tốt. Đức Giê-su nói hạt giống ấy ám chỉ những người nghe lời Chúa “với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả” (Lc 8:15).
Chúng ta thuộc loại người nào?
Những phép lạ của Đức Giê-su có một ý nghĩa sâu xa hơn là chúng ta tưởng bề ngoài. Chúng truyền đạt ý nghĩa một cách gián tiếp. Kết quả là chúng cho chúng ta được tự do chấp nhận hay từ chối. Như vậy chúng được sử dụng đề làm một loại trắc nghiệm, cho thấy chúng ta có mở lòng cho những gì Đức Ki-tô muốn nói với chúng ta qua những phép lạ ấy hay không.
Những dụ ngôn của Đức Giê-su cũng có một ý nghĩa sâu xa hơn là chúng ta nghĩ. Chúng gián tiếp nêu lên một quan điểm dứt khoát. Dụ ngôn người gieo hạt giống là thí dụ điển hình. Dụ ngôn được sử dụng như một “tấm gương” để nhìn vào đó chúng ta sẽ thấy chúng ta thực sự là ai:
* người trên đường đi

* người trên sỏi đá

* người trong bụi gai

* người trên đất tốt.


Chúng ta được tự do để chấp nhận hay từ chối những gì chúng ta nhận thấy.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Mác-cô 8:22-26 Tôi thấy cây đang đi

2. Lu-ca 8:40-48 Ai là người đã sờ vào tôi?

3. Mát-thêu 13:10-17 Những dụ ngôn biểu lộ tâm hồn

4. Mát-thêu 13:54-58 Ông ta không phải là con bác thợ sao?

5. Gio-an 9 Còn mù lòa hơn cả kẻ mù


THẢO LUẬN

1. Bạn hiểu thế nào về quyền năng chữa lành của Đức Giê-su?


2. Đức Giê-su còn tiếp tục “làm phép lạ” không? Những phép lạ trong đời tôi là những phép lạ nào và mang ý nghĩ gì?
3. Một dụ ngôn thích hợp nhất cho đời tôi là dụ ngôn nào?
CHIA SẺ

1. “Thật hiếm thấy trong lịch sử nhân loại có người nào trong đời lại vừa cứng rắn như đá lại vừa mềm mại như sương mai.” (Carl Sandburg)

2. Bạn hãy tưởng tượng Đức Giê-su đã xuống trần hôm nay tại Hoa-kỳ này, chứ không phải vào thế kỷ I tại Pha-lét-tin. Bạn nghĩ là Ngài sẽ giảng dạy nhiều nhất ở những nơi nào sau đây: (a) trong nhà thờ, (b) trung tâm thương mại, (c) trên đài phát thanh và truyền hình, (d) nơi hòa nhạc rock, (e) các khu đại học? Tại sao?
3. “Nếu tôi có quyền lực như quyền lực của Đức Giê-su được nói đến trong Tân Ước, thì tôi sẽ không chữa lành một người nào cho khỏi mù, nhưng tôi sẽ làm cho sự mù lòa không thể xảy ra được nữa.” (Joseph Lewis)
Tại sao bạn đồng ý hoặc không đồng ý với Lewis?
4. “Tin Mừng là một vũ khí lợi hại hơn hẳn cái nhìn về thế giới theo Mác-xít rất nhiều. Tuy nhiên, chính chúng tôi sẽ chinh phục được các anh vào giờ chót… Ai mà tin được giá trị siêu việt của Tin Mừng này nếu các anh không sống nó, nếu các anh không gieo rắc nó, nếu các anh không chịu hy sinh thời giờ và tiền bạc để làm những công việc ấy?” Bạn trả lời thế nào về lời tố cáo trên trích trong tạp chí Paix et Liberté (Hòa bình và tự do)?
5. Dựa theo hình ảnh dụ ngôn của Đức Giê-su về người gieo hạt giống, bạn là loại người bụi gai hay loại người sỏi đá? Làm sao bạn có thể trở thành loại người đất tốt?
-----------------------------
Bài 15

ĐỨC GIÊ-SU CHẾT VÀ PHỤC SINH

Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:


1. Một lần tôi phải đau khổ rất nhiều, đó là…
2. Một điều khiến tôi cảm thấy Đức Giê-su đã thực sự sống lại từ kẻ chết, đó là…
ĐỨC GIÊ-SU CHỊU ĐAU KHỔ

Có một mảnh vườn với tám cây ô-liu cổ thụ nằm trên sườn Núi Cây Dầu. Không ai biết những cây ấy đã có tự bao giờ. Nhưng mọi người đều đồng ý có lẽ đó là địa điêåm Đức Giê-su bắt đầu chịu khổ nạn và chịu chết.


Sách Tin Mừng nói rằng sau bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su cùng với tông đồ đã đi tới Núi Cây Dầu, đến một vườn nhỏ gọi là Ghết-sê-ma-ni. Tên ấy nghĩa là “ép dầu,” vì vườn có đặt một máy ép trái ô-liu để lấy dầu.
Đức Giê-su chịu đau đớn về tinh thần

Tại Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su bắt đầu chịu một trong bốn cơn đau của cuộc khổ nạn, đánh dấu những giờ phút cuối cùng của Ngài trên trần gian. Cơn đau thứ nhất: hấp hối tinh thần khi thấy số phận tàn bạo sắp đến.


Lu-ca nói rằng cơn buồn phiền tinh thần của Đức Giê-su quá lớn lao đến nỗi “mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22:44). Trong cơn hấp hối, Đức Giê-su hướng về Cha Ngài, cầu xin: “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22:42).
Sau cơn hấp hối và cầu nguyện, Đức Giê-su nghe tiếng người phía xa. Ngài biết họ làm gì. Chỉ ít phút sau, một đám lính đã vào Ghết-sê-ma-ni. Giu-đa đến cùng với họ. “Ngay lúc đó, Giu-đa tiến lại gần Đức Giê-su… và hôn Ngài” (Mt 27:49). Lập tức bọn lính xông tới bắt Đức Giê-su. Giờ đây cơn đau thứ hai bắt đầu.
Đức Giê-su chịu đau đớn về xúc cảm

Sự phản bội của Giu-đa là vết cắt sâu vào trái tim Đức Giê-su. Rõ ràng những lời Thánh Vịnh vang lên trong đầu. “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm xẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!” (Tv 41:9).


Đám lính trói Đức Giê-su lại và dẫn Ngài về nhà tù. Khi cánh cửa nhà tù sập lại, Đức Giê-su ngồi một mình trong bóng tối. Cơn hấp hối về cảm xúc vì bị Giu-đa phản bội, Phê-rô chối bỏ và các tông đồ khác lẩn trốn đã đè dập Đức Giê-su. Sau khi các môn đệ và bạn hữu bỏ rơi, Ngài bị bỏ mặc chịu đau khổ và chết lủi thủi một mình.
Đến sáng, Đức Giê-su bị đem ra tòa, bị buộc tội và đưa đến trước Phi-la-tô để chịu kết án. Phi-la-tô liền nghị án rằng đây chỉ là vấn đề tranh chấp về tôn giáo giữa người Do-thái với nhau. Ông xử tha bổng Đức Giê-su, trong khi những nhà lãnh đạo Giê-ru-sa-lem cương quyết đòi phải trừng phạt Ngài. Cuối cùng Phi-la-tô đã thất vọng bỏ cuộc (Ga 18:29-19:16). Bây giờ là cơn đau thứ ba.
Đức Giê-su chịu đau đớn về thể xác
Phi-la-tô ra lệnh cho đánh đòn Đức Giê-su. Thi hành xong án lệnh quái ác ấy, đám lính Rô-ma đem Đức Giê-su ra làm trò hề diễu cợt.
“Rồi chúng kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Ngài, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Ngài mà nhạo rằng: ‘Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!’ Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra và cho Ngài mặc lại áo của mình, rồi điệu Ngài đi đóng đinh vào thập giá” (Mt 27:29,31).
Theo thói quen, các tử tội phải tự vác lấy dụng cụ hành quyết mình. Đức Giê-su không ngoài thông lệ đó. Sau khi đi được vài trăm thước, vì yếu sức do mất nhiều máu, Đức Giê-su đã quỵ ngã mấy lần. Do đó đám lính bắt một người qua đường tên là Si-mon người Ky-rê-nê vác giúp Ngài.
Khi đám rước thô bạo ấy tới ngọn đồi Gôn-gô-tha, đám lính đóng đinh Đức Giê-su vào thập giá. Đau đớn thể xác do việc đóng đinh không sao tả xiết. Một tài liệu ngày xưa cho thấy nhiều khi những nạn nhân trở nên điên khùng trước khi chết.
Đức Giê-su chịu đau đớn về thiêng liêng

Một trong những đau đớn dữ dội nhất chúng ta phải chịu là đau đớn về thiêng liêng, đó là cảm giác thấy mình bị bỏ rơi, ngay cả Thiên Chúa cũng không đoái hoài. Đức Giê-su đã cảm nghiệm cơn đau đớn kinh khủng này ở trên đồi Gôn-gô-tha (Mc 15:34). Những lời Thánh Vịnh 22 mô tả tình trạng ấy một cách tuyệt hảo:


“Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa,

Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?…

Tưởng mình như tan dần ra nước,

Toàn thân con xương cốt rã rời,

Con tim đau đớn bồi hồi,

Mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.

Nghe cổ họng khô ran như ngói,

Lưỡi với hàm dính lại cùng nhau.

Chốn tử vong, Chúa đặt vào;

Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.

Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,

Chúng đâm con thủng cả chân tay,

Xương con đếm được vắn dài;

Chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem.

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác,

Còn áo trong cũng bắt thăm luôn.

Chúa là sức mạnh con nương,

Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:2,15-20)


Nhưng Thiên Chúa đã chẳng tới để giải cứu Đức Giê-su! Lu-ca kể lại:
“Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. Mặt trời tối đi. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Ngài tắt thở.” (Lc 23:44-46)
Khi viên sĩ quan Rô-ma đứng dưới chân thập giá trông thấy mọi sự xảy ra như vậy, ông liền kêu lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:39).
Viên sĩ quan Rô-ma ấy là người trong đám đông nhìn lên Đức Giê-su chịu đóng đinh, ông đã tin vào Ngài và chiếm được sự sống đời đời. Đức Giê-su đã tiên báo điều ấy trước đây khi Ngài nói: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15).
TẠI SAO ĐỨC GIÊ-SU CHỊU ĐAU ĐỚN
Việc đóng đinh kết thúc với bao nhiêu con mắt ngước nhìn lên con người chịu đau khổ trên thập giá. Cuối cùng, sự chết đã giải thoát Đức Giê-su khỏi những đau đớn của Ngài. Đang khi Ngài bị treo thân trên đó, chúng ta tự hỏi: tại sao Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã phải chịu sự đau đớn tột độ ấy? Tại sao Ngài phải chịu:
* đau đớn tinh thần tại Ghết-sê-ma-ni,

* đau đớn về cảm xúc do sự phản bội,

* đau đớn thể xác khi chịu đóng đinh, và

* đau đớn về thiêng liêng khi bị bỏ rơi?


Sự đau đớn của Đức Giê-su có thể gây hiểu lầm. Đức Giê-su không chịu đau khổ vì giá trị của chính sự đau khổ. Không phải cái chết về thể xác của Đức Giê-su đã cứu chuộc chúng ta. Nhưng chính tình yêu đã đưa Đức Giê-su đến việc sẵn sàng chịu đau khổ để cứu chuộc chúng ta. Do đó thập giá giúp chúng ta hiểu ba điều sau đây:
Thập giá là dấu chỉ tình yêu
Trước hết, thập giá của Đức Giê-su là một dấu chỉ tình yêu. Nó nói lên cách cụ thể điều chính Đức Giê-su thường nói: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15:13).
Thập giá là một mặc khải về tình yêu

Tiếp đến, thập giá là một mặc khải về tình yêu. Nó nói với chúng ta rằng tình yêu đòi hỏi đau khổ.


Thập giá nói lên cách cụ thể điều Đức Giê-su thường nói: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23).
Thập giá là lời mời gọi hãy yêu mến

Sau hết, thân xác Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là lời mời gọi chúng ta hãy yêu thương. Một lần nữa, thập giá nói lên cách cụ thể lời Đức Giê-su: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15:12).


ĐỨC GIÊ-SU PHỤC SINH

Một phóng viên của Liên hiệp Thông tấn xã đã tóm tắt những biến cố trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh như sau:


“GIÊ-RU-SA-LEM (AP) - Giê-su Na-da-rét đã bị hành quyết hôm nay tại ngoại thành của cố đô này. Ông ta chết vào lúc ba giờ chiều. Một cơn giông tố dị thường đã làm cho đám đông hiếu kỳ phải tản mát, và đó cũng là cao điểm thích hợp nói lên quãng đời ngắn ngủi nhưng đầy phong ba của nhà giảng thuyết được nhiều người mến nhưng cũng không thiếu kẻ ghét tại miền núi đồi Ga-li-lê. Việc mai táng đã được thực hiện liền sau đó. Một tiểu đội cảnh sát được phái tới canh phòng ngay tại ngôi mộ để đề phòng bất trắc. Người Ga-li-lê này có bà mẹ còn sống.”
Những biến cố ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đã để lại cho các môn đệ của Đức Giê-su một cơn sững sờ. Thế là giấc mơ Đức Giê-su được Thiên Chúa sai đến để làm cho thế giới này nên tốt đẹp hơn bỗng tan vỡ trong cơn mộng kinh hoàng. Tất cả đều hết, hết rồi. Thế là chấm dứt.
Nhưng rồi Chúa Nhật Phục Sinh đến.
Đức Giê-su sống lại

“Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ… Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ… Kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Ngài không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi…” Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy… Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin. Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.” (Lc 24:1-12)


Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ

Cùng ngày hôm ấy, hai môn đệ thất vọng trở về Em-mau, bàn luận về những biến cố đau thương ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Bất chợt một người khách lạ (Đức Giê-su) nhập bọn với họ. Khi người ấy hỏi tại sao họ chán nản như thế, họ liền nói cho người khách lạ biết về những gì xảy ra ngày Thứ Sáu. Họ cũng giải thích rằng có một số môn đệ Đức Giê-su đã đến mộ vào ngày Chúa Nhật, rồi về nhà với thái độ hoảng hốt, nói là Đức Giê-su đã sống lại, nhưng chính họ cũng không tin được.


Rồi người khách lạ ấy bắt đầu ôn lại Kinh Thánh cùng với hai môn đệ. Ngài cắt nghĩa làm sao Kinh Thánh đã chứng tỏ việc Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ trước khi được vinh hiển.
Khi tới Em-mau, hai môn đệ mời người khách lạ vào ăn tối với họ. “Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài, nhưng Ngài lại biến mất” (Lc 24:30-31).
Các môn đệ không nhận ra Đức Giê-su

Một đặc điểm của những lần Đức Giê-su hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại là họ không nhận ra Ngài.


Khi Đức Giê-su hiện ra với Ma-ri-a Mác-đa-la, bà tưởng Ngài là “người làm vườn” (Ga 20:15). Khi Ngài hiện ra với các tông đồ tại Giê-ru-sa-lem, họ nghĩ Ngài là “ma” (Lc 24:37). Khi hiện ra với các môn đệ bên bờ hồ, họ “không nhận ra đó chính là Đức Giê-su” (Ga 21:4).
Việc không thể nhận ra Đức Giê-su nói lên một điều gì đó về sự sống lại và thân xác sau phục sinh.
Việc sống lại của Đức Giê-su không phải là phục hồi sự sống cũ của Ngài, như trường hợp con gái ông Giai-a, con trai bà góa thành Na-in và anh La-da-rô. Trường hợp Đức Giê-su không chỉ là phục hồi sự sống mới cho một thân xác đã chết, nhưng còn là một điều gì vô cùng hơn thế nữa.
Đức Giê-su được vinh hiển

Từ ngữ phục sinh nói về một điều mà không một ai trước Đức Giê-su đã làm. Đó không phải là trở lại với sự sống, nhưng là một bước nhảy vọt đi vào một sự sống cao cả hơn. Thân xác Đức Giê-su sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh hoàn toàn khác với thân xác của Ngài được mai táng buổi chiều Thứ Sáu.


Thánh Phao-lô so sánh thân xác trước khi phục sinh như hạt lúa gieo xuống đất. Còn thân xác sau phục sinh khác với thân xác trước phục sinh tự căn bản, giống như hạt lúa khác với cây lúa. Phao-lô viết:

“Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. Rồi Thiên Chúa cho nó một hình thể như ý Người muốn: giống nào hình thể nấy…


Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí.” (1 Cr 15:36-38,42-44).
SAI THÁNH THẦN XUỐNG

Giờ đây Đức Giê-su đã sống lại nên Ngài có một quan hệ hoàn toàn mới đối với các anh chị em của Ngài trên trần gian. Giờ đây Ngài được vinh hiển. Giờ đây Ngài có thể sai xuôáng trên họ Thánh Thần đã được hứa ban (Ga 7:37-39; 15:26).


Đức Giê-su bắt đầu thi hành điều này ngay. Vào tối Phục Sinh, Ngài đã thổi hơi trên các tông đồ và nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20:22). Rồi năm mươi ngày sau vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã được đổ tràn trên toàn thể Giáo Hội.

CHỨNG NHÂN TRƯỚC TRẦN GIAN

Cùng với việc Thánh Thần đến cũng là lúc bắt đầu trách nhiệm tiếp nối công việc của Đức Giê-su. Đây là một sứ điệp trọng đại mà Mát-thêu dùng để kết thúc sách Tin Mừng:


“Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28:16-20)

MỜI GỌI TỪNG NGƯỜI

Sự phục sinh của Đức Giê-su bao hàm một lời mời gọi từng người chúng ta hãy mở lòng đón nhận sự hiện diện của Đức Giê-su Phục Sinh trong thế giới hôm nay. Sự phục sinh của Ngài mời gọi chúng ta hãy để Ngài làm cho chúng ta những gì Ngài đã làm cho bao nhiêu người trước chúng ta.


Mời gọi chúng ta hãy yêu thương hơn nữa, dù tình yêu của chúng ta có bị chối từ và chúng ta đang bị cám dỗ hãy ghen ghét người khác.
Mời gọi chúng ta hãy hy vọng hơn nữa, dù niềm hy vọng của chúng ta đã tan nát và chúng ta đang thất vọng ê chề.
Mời gọi chúng ta hãy tin thêm, dù đức tin của chúng ta đã lung lay và chúng ta đang bị cám dỗ nghi ngờ.
Mời gọi chúng ta hãy nhặt lại từng mảnh vỡ mà tái thiết, dù thất vọng đã đè bẹp chúng ta và chúng ta sắp sửa bỏ cuộc.
Sự phục sinh của Đức Giê-su là tin mừng vì Ngài đã đánh bại sự chết và ma quỷ, cùng chia sẻ với chúng ta quyền năng để chúng ta cũng làm được như Ngài. Khát vọng được sống đời đời không còn là một điều viển vông nữa. Sự phục sinh là tin mừng vì không gì có thể hủy diệt chúng ta được, dù là đau khổ, dù là ưu phiền, dù là chối bỏ, dù là tội lỗi, và ngay cả đến cái chết.
Sự phục sinh là tin mừng vì Đức Giê-su đang sống và thực sự hiện diện trong thế giới chúng ta, sẵn sàng thực hiện những phép lạ của sự sống mới giữa chúng ta, qua chúng ta và cho chúng ta – nếu chúng ta tin vào Ngài.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Gio-an 18-19 Đức Giê-su bị bắt và chết

2. I-sai-a 52:13-53:8 Đấng chữa lành mang thương tích

3. 1 Cô-rin-tô 15:1-12 Hơn năm trăm người đã thấy Ngài

4. 1 Cô-rin-tô 15:35-58 Hạt giống và sao trời

5. Mác-cô 12:18-37 Bà ấy là vợ của người nào?


THẢO LUẬN

1. Phản ứng của các môn đệ khi thoạt trông thấy Đức Giê-su phục sinh. Giải thích phản ứng của họ.

2. Giải thích quan hệ mới của Đức Giê-su với môn đệ sau khi Ngài sống lại.
3. Sự phục sinh của Đức Giê-su mời gọi bạn làm gì?
CHIA SẺ

1. Thảo luận những tư tưởng sau đây:


* “Ai chưa từng ăn bánh trong sầu muộn, chưa từng trải qua những giờ phút đen tối, chưa từng khóc lóc và mong chờ ngày mai, thì họ chưa biết các ngài, hỡi các vị quyền năng trên trời.” (Johann Wolfang von Goethe)
* “Sách Tin Mừng không giải thích sự phục sinh, nhưng sự phục sinh giải thích sách Tin Mừng.” (J. S. Whale)
* “Chẳng bao lâu nữa bạn sẽ đọc trên báo loan tin Moody đã chết. Nhưng bạn đừng tin, vì tôi sẽ sống nhiều hơn là tôi đang sống bây giờ.” (Dwight L. Moody)
2. Môn đệ Đức Giê-su mai táng Ngài (Lc 23:52-53). Họ ăn thịt Ngài (Lc 22:19). Họ là thân thể Đức Ki-tô (1 Cr 12:27). Ba thứ thân thể của Đức Giê-su nói về những điều gì? Bạn gọi tên của từng thân thể ấy thế nào? Khi nào mỗi thân thể ấy đã hiện diện?
3. Sau khi tổng thống Kennedy bị ám sát, một em lớp mẫu giáo nói với cô giáo: “Tổng thống chết rồi. Người ta chôn ông. Ông thực sự đã chết.” Cô giáo đưa em ra bên cửa sổ, chỗ các em để những chậu nhỏ đã gieo hạt giống tuần trước. Bới ở dưới đất lên một hạt giống đang nảy mầm, cô giáo nói với các em: “Tổng thống chỉ tựa như là đã chết; những gì đang xảy ra ra cho ông thì cũng tựa như những gì đang xảy ra cho hạt giống này.” Cô giáo muốn nói gì? Làm sao ý tưởng về hạt giống có thể giúp diễn tả ý tưởng về sự sống lại được nói đến trong Kinh Thánh?
4. Bạn hãy tả lại một lần nào đó bạn đã “chết đi và sống lại” theo ý nghĩa được nói đến trong bài về lời mời gọi từng người chúng ta.
----------------------------
Bài 16

CÔNG VỤ TÔNG ĐỒ

Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và điền tiếp vào hai câu sau đây:


1. Biến cố đã khiến tôi chú tâm hơn đến Giáo Hội Công Giáo là…
2. Lý do chính cản trở tôi làm chứng nhân cho đức tin Công Giáo trong đời sống hằng ngày là…
MỘT CUỐN SÁCH VỀ CÁC KỲ CÔNG
Một ngọn tháp TV vĩ đại nổi bật trên nền trời Đông Đức. Ngay bên dưới đỉnh ngọn tháp là một nhà hàng quay tròn. Ý định của chính phủ Cộng Sản là muốn phô trương với Tây Đức. Nhưng rủi thay, một khuyết điểm trong khi thiết kế đã khiến họ bối rối. Lý do là bất cứ khi nào mặt trời rọi vào ngọn tháp, thì dưới một góc độ nào đó, ngọn tháp biến thành một cây thánh giá rực rỡ và to lớn. Chính phủ cho sơn lại ngọn tháp để làm mất đi hình ảnh thánh giá, nhưng cũng hoài công.
Những nhà lãnh đạo Do-thái cũng có cùng bài học như vậy sau khi họ đóng đinh Đức Giê-su. Họ tin là phong trào Ki-tô sẽ chết theo cái chết của Ngài. Nhưng thực tế lại trái ngược. Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại và Ki-tô giáo đã lan mạnh như ngọn lửa ào ạt. Vào khoảng năm 64, Ki-tô giáo đã đâm rễ vững chắc tại kinh thành Rô-ma xa xôi đến nỗi hoàng đế Nê-rô đã lấy làm đích để dồn mọi bách hại vào đó.
Làm sao Ki-tô giáo đã lớn mạnh từ một hạt giống nhỏ bé trở thành cây cao lớn trong một thời gian thật vắn vỏi như vậy? Chúng ta hãy dựa vào sách Công Vụ Tông Đồ để tìm ra câu trả lời ấy.
Công Vụ Tông Đồ là sách lịch sử Giáo Hội sơ khai

Các văn sĩ thời xưa thường dùng từ ngữ Chiến công để nói về những kỳ công của các vĩ nhân. Thí dụ chúng ta có những Chiến công của thần Hercules, những Chiến công của đại tướng Hannibal, và những Chiến công của Đại vương Alexander. Những Chiến công của các Tông đồ cũng dựa theo những tác phẩm trên.


Lu-ca đã viết sách Công Vụ Tông Đồ như những tiếp diễn của sách Tin Mừng (Lc 1:1, Cv 1:1). Ý định của ngài là kể lại câu truyện những gì đã xảy ra trong vòng ba mươi năm sau khi Đức Giê-su lên trời. Ngài muốn sách này là câu truyện về Giáo Hội sơ khai.
Trước khi về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8).
CHÚA THÁNH THẦN NGỰ XUỐNG

Vào ngày lễ Ngũ Tuần, năm mươi ngày sau khi Đức Giê-su về trời, các Tông đồ đang cầu nguyện trong một căn nhà tại Giê-ru-sa-lem, thì:


“Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:2-4).
Kinh nghiệm này đã biến đổi các Tông đồ từ một nhóm người sợ sệt thành một nhóm người rao giảng đầy lòng nhiệt thành. Đầy ắp quyền lực Thánh Thần, họ đã hăng say làm chứng cho Đức Giê-su
* bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem,

* lan rộng đến các vùng Giu-đê và Sa-ma-ri, và

* tiếp tục đến tận cùng trái đất.
CHỨNG NHÂN TẠI GIÊ-RU-SA-LEM

Ngay sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, ông Phê-rô đã lên tiếng với đám đông đang tụ tập bàn tán với nhau về “tiếng động như tiếng gió mạnh.” Phê-rô giải thích mọi việc đã xảy ra. Họ bị khích động sâu xa do quyền lực của Thánh Thần nơi các Tông đồ. “Khoảng ba ngàn người” đã tin và được rửa tội ngày hôm ấy (Cv 2:41).


Các Tông đồ chữa lành dân chúng

Ít ngày sau, Phê-rô và Gio-an lên Đền Thờ cầu nguyện. Một người ăn xin tàn tật trông thấy các ngài liền đưa tay ra xin tiền. “Phê-rô nói với anh ta: ‘Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!… Anh đứng phắt dậy, đi lại được; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa’” (Cv 3:6,8).


Những ai thấy và nghe phép lạ này đều nhận ra rằng quyền lực chữa lành của Đức Giê-su đã truyền sang các môn đệ Ngài. Vì thế, dân chúng đã “khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó” (Cv 5:15). Và nhiều người đã được chữa lành.
Các tông đồ bị bách hại

Phản ứng của các nhà lãnh đạo Giê-ru-sa-lem trước những phép lạ chữa lành này thật dễ dàng đoán được. Họ ra lệnh cho các Tông đồ phải ngưng ngay hoạt động. “Nhưng ông Phê-rô và các Tông đồ khác đáp lại rằng: ‘Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm!’” (Cv 5:29).


Tiếp đến là một cuộc bách hại Ki-tô hữu dữ dội hơn, cống hiến cho Giáo Hội vị tử đạo tiên khởi là một thầy phó tế trẻ tên là Tê-pha-nô (Cv 7).
Cuộc bách hại đã đưa đến kết quả thuận theo ý Chúa quan phòng. Một số đông Ki-tô hữu đã trốn sang Giu-đê và Sa-ma-ri. Tại đó họ đã rao giảng Tin Mừng về Đức Giê-su và đã có nhiều kẻ tin theo (Cv 8:4). Như vậy dường như là ngẫu nhiên giai đoạn thứ nhì của sứ mệnh Đức Giê-su trao cho các Tông đồ được khởi phát: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy… trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri”…

CHỨNG NHÂN TẠI GIU-ĐÊ VÀ SA-MA-RI

Một thầy phó tế trẻ tên là Phi-líp-phê đã thành chứng nhân nổi bật tại Sa-ma-ri (Cv 6:5). Sự hiện diện của Thánh Thần nơi ngài đã tỏa ra mạnh mẽ đến nỗi “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng” (Cv 8:7-8).


Tin tức về sứ vụ đắc lực của Phi-líp-phê đã khiến Phê-rô và Gio-an tới Sa-ma-ri. Khi đến, các ngài đặt tay trên những kẻ mới trở lại và cầu nguyện trên họ. Lập tức Thánh Thần ngự xuống trên những Ki-tô hữu mới trong một “lễ Hiện Xuống tại Sa-ma-ri” (x. Cv 8:17).

Phê-rô rao giảng tại Giu-đê
Cảm động do thành công của Phi-líp-phê, Phê-rô bắt đầu rao giảng Tin Mừng trong các thành phố khắp vùng Giu-đê. Một ngày kia đang khi giảng tại Xê-da-rê, trong nhà một viên đại đội trưởng Rô-ma tên là Co-nê-li-ô, Thánh Thần đã xuống trên vị sĩ quan này và cả gia đình ngoại giáo của ông.
Biến cố đáng kể ấy đã làm thay đổi quan niệm của Giáo Hội trẻ trung về chính mình. Thánh Thần đã xuống trên những người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem trong lễ “Hiện Xuống trên Do-thái” (Cv 2:4) và trên những người nửa gốc Do-thái trong lễ “Hiện Xuống trên Sa-ma-ri” (Cv 8:17), thì giờ đây cũng xuống trên gia đình viên sĩ quan trong lễ “Hiện Xuống trên Dân ngoại” (Cv 10:44).
Giáo Hội trẻ trung đã lan rộng từ cộng đồng Do-thái tới các dân tộc khác. Điều rất ý nghĩa, đó là chính Phê-rô đã đích thân chủ tọa trong mỗi biến cố Hiện Xuống mới này.

Phê-rô bị bắt

Khi Phê-rô trở lại Giê-ru-sa-lem, các nhà lãnh đạo Giê-ru-sa-lem đang chờ đợi ngài. Họ bắt ngài và tống ngài vào ngục. Nhưng ngục tù không giữ nổi Phê-rô. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, ngài đã thoát ngục một cách lạ lùng (Cv 12:1-17).


Sau khi bí mật gặp gỡ các Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem, Phê-rô quyết định rời thánh đô. Ngài thấy rõ sự hiện diện của mình sẽ gây khó khăn không ít cho cộng đoàn Giê-ru-sa-lem. Theo Êu-sê-bi-ô, một giáo sử gia vào thế kỷ IV, Phê-rô đã lên đường sang Rô-ma. Việc Phê-rô đến Rô-ma khởi sự cho giai đoạn thứ ba của sứ vụ Đức Giê-su trao cho các môn đệ Ngài: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất.”
CHỨNG NHÂN GIỮA MUÔN DÂN

Một đối thủ hàng đầu của Ki-tô giáo sơ khai là một chàng thanh niên tên Sao-lô. Một ngày kia, Sao-lô lên đường đi Đa-mát. Bỗng một luồng sáng làm anh lóa mắt và ngã xuống đất. Có tiếng nói cất lên: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Anh ta hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng đáp lại: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (Cv 9:4-5).


Sao-lô quờ quạng đứng dậy. Bạn bè đưa tay dắt anh vào trong thành. Tại đó có một Ki-tô hữu tên là Kha-na-ni-a đã chữa lành cho anh. Rồi Sao-lô tin và được rửa tội.
Việc trở lại đạo của Sao-lô khiến các bạn bè Do-thái của anh phải ngạc nhiên. Từ sửng sốt đó, họ trở nên giận dữ khi Sao-lô bắt đầu rao giảng Đức Giê-su “là con Thiên Chúa” (Cv 9:20). Rồi Sao-lô phải trốn đi để bảo toàn tính mạng. Anh đến Tác-xô và ở lại đó một thời gian dài (Cv 9:30).
Ba-na-ba rao giảng tại An-ti-ô-khi-a
Ba-na-ba là một trong những người đầu tiên trở lại Ki-tô giáo. Ông bắt đầu rao giảng tại An-ti-ô-khi-a. Sau một thời gian ông nhận thấy thành phố này chính là nơi lý tưởng cho Sao-lô chia sẻ sứ mệnh với ông. Vì thế, Ba-na-ba sang Tác-xô đón Sao-lô về (Cv 11:25-26).
Chính tại An-ti-ô-khi-a là nơi “lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu” (Cv 11:26). Và cũng chính tại đây mà Sao-lô đã đổi cái tên Do-thái của mình để mang cái tên Dân ngoại là Phao-lô.
Cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất của Phao-lô

Một ngày nọ Thánh Thần đã linh hứng cho cộng đoàn An-ti-ô-khi-a hãy sai Phao-lô và Ba-na-ba đi rao giảng một vòng tại Tiểu Á (ngày nay là Thổ-nhĩ-kỳ). “Họ đặt tay trên hai ông và tiễn đi” (Cv 13:3).


Hải cảng đầu tiên các ngài đặt chân đến là đảo Sýp. Tại đây các ngài rao giảng trong các hội đường và ngay trước mặt viên tổng trấn. Từ Sýp các ngài đi sang Tiểu Á và ở đó các ngài rao giảng trong các thành phố như I-cô-ni-ô và Lýt-ra.
Tại Lýt-ra, một câu truyện bất ngờ đã xảy ra. Người Do-thái nổi giận ném đá Phao-lô và bỏ mặc ngài cho chết luôn (Cv 14:19). Sau khi Phao-lô bình phục, ngài cùng với Ba-na-ba trở về An-ti-ô-khi-a. Tính tới lúc ấy, các ngài đã rong ruổi trên đường truyền giáo bốn năm trời và đã mệt mỏi.
Phao-lô và Ba-na-ba đi Giê-ru-sa-lem

Sau khi trở về An-ti-ô-khi-a một thời gian ngắn, Phao-lô và Ba-na-ba lại đi Giê-ru-sa-lem để tham dự cuộc họp mà người ta gọi là Công Đồng thứ nhất của Giáo Hội: một cuộc họp của toàn thể các vị lãnh đạo trong Giáo Hội để bàn về những vấn đề của Giáo Hội. Cuộc họp được triệu tập vì một số Ki-tô hữu gốc Do-thái đã chủ trương rằng những người Dân ngoại phải chịu phép cắt bì trước khi họ muốn thành Ki-tô hữu.


Các vị lãnh đạo đã cầu nguyện và quyết định chống lại chủ trương trên. Trong văn kiện của Công Đồng, có một câu như sau: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác” (Cv 15:28). Câu này rõ ràng nói lên việc các ngài xác tín rằng chính Thánh Thần đã dẫn dắt Công Đồng đi tới quyết định trên.
Cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của Phao-lô

Vài tháng sau khi trở về nhà, Phao-lô nóng lòng muốn đi thăm các cộng đoàn ngài đã giảng dạy trước kia. Do đó ngài đã thu xếp để lên đường lần thứ hai.


Ngoài việc đến với các cộng đoàn ngài đã thăm viếng, Phao-lô cũng đã lưu lại một số nơi trong vùng Ga-lát và những thành phố như Phi-líp-phê và Thê-xa-lô-ni-ca. Tại những nơi này, ngài thành lập những cộng đoàn Ki-tô mới.
Có hai Ki-tô hữu trẻ – Xi-la (Cv 15:36-41) và Ti-mô-thê (Cv 16:1-5) – đã tháp tùng Phao-lô. Họ đã cùng nhau đem Tin Mừng đến tận lục địa Âu-châu, tới cả những thành phố như A-then và Cô-rin-tô.
Phao-lô rao giảng tại Cô-rin-tô

Cô-rin-tô là một trung tâm thương mại chính vào thời Phao-lô. Nhưng thành phố cũng có lắm vấn đề vì những dân cư nơi đó. Dân tứ xứ từ các nơi trên thế giới đổ về đầy các đường phố, đủ hạng người: cờ bạc, đĩ điếm và phạm pháp. Rao giảng cho những người này, Phao-lô lập lại: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch” (Mt 5:8).


Thật là bất ngờ, lời giảng của ngài đã có hiệu quả. Khi Phao-lô từ giã thành phố vào năm 54, thì cộng đoàn Ki-tô hữu đông đảo tại đây đang lớn mạnh.
Cuộc hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô

Chẳng bao lâu sau khi trở về nhà, Phao-lô lại khăn gói lên đường truyền giáo lần thứ ba. Lần này ngài lại đến thăm những thành phố có các cộng đoàn Ki-tô hữu ngài đã thành lập trước đây. Rồi ngài đến các thành phố khác và thành lập những cộng đoàn mới.


Đáng kể nhất là thành công của Phao-lô tại Ê-phê-xô. Trước khi ngài đến đó, những tay thợ bạc của thành phố đã làm giầu nhờ bán tượng ảnh cho những người ngoại giáo. Một khi việc rao giảng của Phao-lô kết quả hơn thì cũng là lúc các tay thợ bạc bị lỗ lã trong việc làm ăn. Do đó tình trạng này đã đưa đến cuộc tranh chấp giữa họ và Phao-lô (Cv 19:23-40).
Vì muốn lợi cho Ki-tô hữu tại Ê-phê-xô, Phao-lô quyết định tốt hơn ngài nên rời khỏi Ê-phê-xô. Ngài “mời các môn đệ tới, khuyên nhủ họ, rồi chào biệt và lên đường” (Cv 20:1).
Phao-lô đã dừng lại một vài nơi, rồi trở về Giê-ru-sa-lem vào năm 58.

Nhưng những khó khăn của Phao-lô chưa hết đâu, mà thực sự mới chỉ là bắt đầu thôi.


Phao-lô bị bắt

Việc Phao-lô trở lại Ki-tô giáo và việc ngài rao giảng cho Dân ngoại đã khiến ngài gặp rất nhiều khó khăn đối với người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem. Tình trạng này đã đưa tới việc ngài bị bắt sau khi trở lại thánh đô một thời gian ngắn.


Nhận thấy mình sẽ không khi nào được xét xử công bằng tại Giê-ru-sa-lem, Phao-lô đã sử dụng quyền công dân Rô-ma của mình và xin các giới chức cho mình được đưa về Rô-ma xét xử. Lời yêu cầu này đã được thỏa mãn.
Phao-lô đi Rô-ma

Sách Công Vụ Tông Đồ diễn tả rất tỉ mỉ cuộc hành trình đi Rô-ma này. Đoạn trình thuật đầy thú vị. Một thí dụ điển hình là trong thời gian còn lênh đênh trên biển cả, một cơn bão lớn nổi lên, khốc liệt đến nỗi thuyền trưởng “đã ra lệnh cho những ai biết bơi thì nhảy xuống trước bơi vào bờ; còn những người khác thì bám vào ván hoặc mảnh tàu vỡ mà vào. Thế là mọi người vào được bờ và được cứu” (Cv 27:43-44).


Sau những phiêu lưu như thế, Phao-lô đã đến Rô-ma. Khi ổn định xong xuôi (khoảng năm 61), ngài mời những vị lãnh đạo Do-thái địa phương đến họp. Họ nóng lòng muốn nói chuyện với ngài: “Chúng tôi muốn được nghe ông trình bày ý nghĩ của ông, vì chúng tôi biết là phái của ông đến đâu cũng gặp chống đối” (Cv 28:22).
Phao-lô giải thích Ki-tô giáo cho họ, nhưng họ giả điếc làm ngơ.
Sách Công Vụ Tông Đồ kết thúc với những lời lẽ sau: “Suốt hai năm tròn, ông Phao-lô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su Ki-tô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (Cv 28:30-31).
CÂU TRUYỆN KHÔNG ĐOẠN KẾT

Sách Công Vụ Tông Đồ đã kết thúc một cách đột ngột mà không cho chúng ta biết chuyện gì đã xảy ra cho Phao-lô sau này. Truyền thống kể lại rằng Phao-lô bị chém đầu vì đức tin vào khoảng năm 67.


Tại sao Lu-ca đã không nói cho chúng ta biết điều gì đã xảy tới cho Phao-lô? Tại sao Lu-ca đã bỏ lửng câu truyện trong Công Vụ Tông Đồ?
Một trong những giả thuyết thỏa đáng nhất, đó là Lu-ca đã bỏ lửng sách Công Vụ Tông Đồ bởi vì câu truyện thực sự chưa kết thúc. Việc rao giảng Tin Mừng chưa chấm dứt. Chính chúng ta phải hoàn tất công cuộc rao giảng Tin Mừng. Nước Thiên Chúa đã được khởi sự do Đức Giê-su và tiếp tục do Giáo Hội sơ khai, và giờ đây tới phần chúng ta.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Công Vụ Tông Đồ 4:1-21 Khuyến cáo

2. Công Vụ Tông Đồ 9:32-43 Phép lạ

3. Công Vụ Tông Đồ 15:1-35 Quyết định

4. Công Vụ Tông Đồ 19:23-40 Nổi loạn

5. Công Vụ Tông Đồ 27 Đắm tàu


THẢO LUẬN

1. Bạn hãy suy nghĩ về ý nghĩa của việc Thiên Chúa quan phòng trong những cuộc bách hại Giáo Hội sơ khai.


2. Thế nào là những chiều kích khác nhau của biến cố “Hiện Xuống?”
3. Tại sao thành công tại Cô-rin-tô lại là một bất ngờ?
CHIA SẺ

1. Trong bức thư gửi từ nhà giam Birmingham, Tiến sĩ Martin Luther King viết: “Nếu Giáo Hội hôm nay không có được tinh thần hy sinh của Giáo Hội sơ khai…, thì nó sẽ bị giải tán tựa như một nhóm người ái mộ không còn hợp thời nữa.” Ông ta muốn nói gì và tại sao bạn đồng ý hoặc bất đồng với ông? Nếu một vị giám mục xin bạn đề hãy đề nghị làm những gì giúp cho Giáo Hội hợp thời hơn, thì bạn sẽ đề nghị điều gì?


2. Phao-lô có một trở ngại về thể xác mà ngài không nói ra là điều gì. Ngài chỉ nói: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: ‘Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2 Cr 12:8-9). Bạn hãy giải thích lời Chúa nói với Phao-lô. “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:10). Bạn hãy nhớ lại và chia sẻ về một lần nào đó bạn cảm nghiệm được quyền lực Thiên Chúa khi bạn yếu đuối.

3. Đâu là trở ngại khiến bạn không cố gắng “hoàn tất” câu truyện sách Công Vụ Tông Đồ bỏ dở? Bạn có thể đóng góp những gì?


-----------------------------
Bài 17

CÁC THƯ VÀ SÁCH KHẢI HUYỀN

Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:


1. Một trong những lá thư yêu quý nhất tôi đã nhận được trong đời là…
2. Một câu hỏi tôi có về sách Khải Huyền là…
CÁC THƯ

Có lần một nhà truyền giáo kia đã nói: “Người dễ trở lại đạo nhất giữa một bộ lạc ngoại giáo, đó chính là ông thầy lang chữa bệnh bằng bùa phép.” Lý do tại sao? Vì ông thầy lang đã có cái nhìn về thực tại rất sâu xa theo khía cạnh thiêng liêng. Bạn chỉ cần thay đổi lại hướng nhìn ấy thôi.


Lý luận trên cũng có thể giải thích tại sao chỉ trong sáu tuần lễ, Phao-lô đã có thể dạy đạo cho một nhóm người và giúp họ trở lại Công giáo. Người ngày xưa có một cái nhìn về thực tại rất thiêng liêng. Phao-lô chỉ cần đổi lại lối nhìn của họ.
Khi Phao-lô rời bỏ một cộng đoàn để đi rao giảng Tin Mừng cho một nơi khác, ngài vẫn giữ liên lạc với cộng đoàn ấy qua những sứ giả (Pl 2:19). Nếu cộng đoàn có vấn đề rắc rối, Phao-lô sẽ viết một lá thư để bàn về điều ấy.
Người thời xưa thường dùng thư ký để viết thư. Phao-lô cũng vậy. Điều này rõ ràng trong những thư của ngài. Thí dụ, ngài kết thúc thư thứ hai gửi giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca như sau: “Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này. Đó là chữ ký trong tất cả các thư của tôi. Tôi viết như thế đó.” Nói khác đi, từ đầu thư cho tới khúc này đều là do thư ký của ngài viết. Còn bây giờ, Phao-lô cầm lấy cây viết từ tay thư ký và tự tay viết những lời chào hỏi anh chị em tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.

tải về 1.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương