ĐỨc tin ngưỜi công giáo the Catholic Vision Mark Link, sj. Lm. Trần Đình Nhi



tải về 1.67 Mb.
trang10/10
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.67 Mb.
#37886
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

NHỮNG CỘNG ĐỒNG TU SĨ
Các linh mục trong những cộng đồng tu sĩ thường giữ những lời khấn sống khó nghèo (không sở hữu tiền bạc của cải), khiết tịnh và vâng lời bề trên của cộng đoàn mình.
Giữ những lời khấn hoặc những lời hứa này không đưa người tu sĩ lên một địa vị cao cả và thánh thiện hơn những người khác trong Giáo Hội. Nó chỉ giúp cho họ sống một lối sống Ki-tô khác biệt, một cách cố gắng đạt tới sự hoàn thiện mà tất cả các Ki-tô hữu đều được kêu gọi tiến đến (Mt 5:48).
Tại sao có quá nhiều cộng đồng tu sĩ?

Mỗi cộng đồng tu sĩ có một tinh thần hoặc một linh đạo riêng. Tinh thần ấy được nắn đúc để giúp các phần tử của cộng đồng thi hành sứ vụ đặc biệt mà cộng đồng chủ trương dấn thân: thí dụ giáo dục thanh thiếu niên, phục vụ người nghèo, rao giảng Tin Mừng tại những nơi truyền giáo.


Ngoài những cộng đồng tu sĩ linh mục ra, cũng có những cộng đồng tu sĩ của nữ giới (các nữ tu hoặc các sơ). Họ cũng có một lối sống, một linh đạo và sứ vụ riêng trong Giáo Hội, giống như các tu sĩ linh mục vậy.

Sau hết, có những cộng đồng tu sĩ của các tu huynh (các thầy dòng). Tu huynh là người sống đời tu sĩ nhưng không làm linh mục. Những cộng đồng tu huynh cũng có một tinh thần hoặc linh đạo riêng biệt. Họ đáp ứng một nhu cầu đặc biệt nào đó của Giáo Hội.


Những cộng đồng tu sĩ được ví như những tấm biển chỉ dẫn. Lối sống của họ đưa họ ra ngoài dòng lưu của xã hội, nhưng lại vẫn phục vụ cho xã hội. Kết quả là họ chỉ đường cho người ta tới Thiên Chúa một cách sống động và rõ ràng hơn. Chứng từ và phục vụ của họ là một tiếng nói quan trọng của Đức Ki-tô cho thế giới.
THỪA TÁC VỤ PHÓ TẾ

Các phó tế được truyền chức thi hành việc mục vụ do việc truyền chức ấn định. Họ là những người độc thân hoặc lập gia đình, nhưng cảm nhận lời gọi của Chúa muốn họ phục vụ bất cứ nơi nào cần tới họ (Cv 6:1-6).


Ngày nay, các phó tế tham gia vào rất nhiều công tác phục vụ cộng đồng. Họ giảng trong Thánh lễ, rửa tội, chủ sự nghi thức hôn phối và an táng. Họ không cử hành Thánh Thể, Bí tích Giải tội, hoặc Bí tích Xức dầu bệnh nhân.
CƠ CẤU GIÁO HỘI
Thánh đô Vatican là một quốc gia biệt lập trong thành phố Rô-ma. Về phương diện chính trị, quốc gia nhỏ xíu này có địa vị như bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đầy đủ cơ quan ngoại giao. Về phương diện thiêng liêng, đó là trái tim và linh hồn của cộng đồng Công giáo toàn cầu. Đức Giáo hoàng và các nhân viên của ngài cư ngụ tại Vatican.
Như vị tổng thống Hoa-kỳ có một nội các để giúp ông điều hành quốc gia, thì cũng thế, Đức Giáo hoàng có một nội các được gọi là Giáo triều. Giáo triều có trách nhiệm phối trí và xem xét những hoạt động từng ngày của cộng đồng Công giáo trên toàn thế giới. Những bộ hoặc văn phòng thuộc Giáo triều thường được đứng đầu do một giám mục hay hồng y.
Hồng y là một tước hiệu danh dự thường dành cho một giám mục đặc biệt. Một trong những bổn phận của hồng y là bỏ phiếu bầu Giáo hoàng. Một tước hiệu danh dự khác, đó là đức ông (monsignor), được dành cho một linh mục đặc biệt.
Cơ cấu Giáo Hội được tổ chức như thế nào?

Một sơ đồ về cơ cấu Giáo Hội Công giáo có thể như sau đây:


* Giáo xứ: là cộng đồng Công giáo địa phương. Nó được quản trị do một linh mục chính xứ, cùng với một ban mục vụ gồm những phụ tá đã được truyền chức và một số giáo dân.
* Giáo phận: là một đơn vị gồm nhiều giáo xứ thuộc một ranh giới địa lý. Nó được điều hành do một giám mục, cùng với một ban mục vụ thuộc giáo phận gồm những phụ tá đã được truyền chức và những giáo dân.
* Hội đồng Giám mục quốc gia: là một cơ cấu tổ chức gồm những giám mục của một quốc gia. Nó xúc tiến những công việc của Giáo Hội trên bình diện quốc gia.
* Giáo Hội toàn cầu: gồm mọi người Công giáo thuộc Giáo Hội Đông phương cũng như Giáo Hội Tây phương. Giáo Hội toàn cầu được phục vụ do Đức Giáo hoàng và Giáo triều, để xúc tiến và phối trí những hoạt động của Giáo Hội trên bình diện thế giới.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Chúa Giê-su Linh Mục. Do-thái 4:14-5:10

2. Các giám mục và phó tế. 1 Ti-mô-thê 3:1-13

3. Truyền chức linh mục. 1 Ti-mô-thê 4:6-16

4. Phao-lô nói về bậc sống độc thân. 1Cô-rin-tô 7:32-35

5. Phê-rô, người lãnh đạo. Công Vụ Tông Đồ 1:15-26.



THẢO LUẬN

1. Trước những nhu cầu của Giáo Hội và hoàn cảnh xã hội hiện thời, bạn nghĩ việc huấn luyện và đào tạo linh mục phải dựa trên những tiêu chuẩn nào?


2. Đặc sủng bất khả ngộ là gì? Áp dụng đặc sủng ấy cho Đức Giáo hoàng và giám mục đoàn của toàn cầu như thế nào? Tìm hiểu căn bản Kinh Thánh nói về vấn đề này.
CHIA SẺ

1. Trong cuốn nhật ký về Nội chiến Hoa-kỳ, tổng thống Lincoln viết: “Trong tất cả những công cuộc từ thiện... trong những phòng bệnh nhân đầy người tại các bệnh viện, những nữ tu Công giáo là những người đắc lực nhất. Tôi chẳng biết họ từ đâu tới hoặc tên dòng tu của họ là gì... Nhưng dịu dàng và chu đáo, rồi với lòng can đảm của người lính chiến... họ thực là những thiên thần đầy lòng cảm thương.” Tại sao bạn nghĩ các dòng nữ thiếu ơn gọi ngày nay?


2. John Catoir viết trong cuốn That Your Joy May Be Full: “Khi còn là một thanh niên, tôi cảm thấy rất muốn làm linh mục, nhưng tôi đã không dám tiến tới... Phải mất bảy năm chiến đấu nội tâm, từ trung học lên tới đại học và thi hành nghĩa vụ quân sự xong, tôi mới thưa ‘xin vâng’ trước lời gọi của Chúa. Tôi chẳng bao giờ hối tiếc về quyết định này cả.” Bạn nghĩ tuổi nào thích hợp nhất để quyết định làm linh mục?
3. Hãy nhớ lại một “cảm nghiệm đẹp” bạn có với một linh mục. Một “cảm nghiệm xấu.” Bạn mong đợi điều gì nhất nơi một linh mục và tại sao? Nơi một phó tế?
Phần IV
Bài 27

CẦU NGUYỆN CÁ NHÂN

Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:


1. Nếu phải diễn tả đời sống cầu nguyện của tôi như thế nào, thì tôi sẽ diễn tả như sau: …
2. Một số lý do tại sao tôi muốn học hỏi thêm để biết cầu nguyện hơn, đó là…
CẦU NGUYỆN
Một cậu bé chăm chú nhìn vị huyền sĩ Ấn-độ cầu nguyện bên bờ sông. Chờ cho huyền sĩ cầu nguyện xong, cậu bé thưa: “Xin ngài dạy tôi cầu nguyện!” Huyền sĩ liền nắm đầu cậu bé gìm xuống nước khoảng một phút. Cậu bé vùng lên để thở và càu nhàu: “Ngài làm như thế có nghĩa gì?” Huyền sĩ trả lời: “Ta vừa dạy cậu bài học đầu tiên về cầu nguyện. Bao giờ cậu thực sự muốn cầu nguyện như là lúc cậu thực sự muốn thở ở dưới nước, thì lúc ấy tôi mới có thể dạy cậu.”
Vị huyền sĩ ấy thật chí lý. Bao lâu chúng ta chưa thực sự muốn cầu nguyện, thì chúng ta sẽ không kiên trì trong cầu nguyện. Cầu nguyện rất giống với việc kiêng ăn cho bớt mập. Chúng ta có thể biết tất cả lý thuyết về việc ấy, nhưng cái biết đó sẽ chẳng lợi ích gì cho chúng ta nếu chính chúng ta không muốn làm cho mình bớt mập.
Tại sao người ta cầu nguyện?

Người ta có rất nhiều lý do để cầu nguyện. Thí dụ, cầu nguyện khiến họ được bình an; cầu nguyện giúp họ đương đầu với cuộc sống; cầu nguyện giúp họ tìm thấy ý nghĩa. Thiên Chúa nghe lời người ta cầu nguyện. Những lý do trên đều đích đáng, nhưng không thể là những lý do chính để cầu nguyện. Trong cuốn sách Như bánh được bẻ ra (As Bread That Is Broken), Peter van Breemen giải thích tại sao người ta cầu nguyện. Ông ghi rằng không thể thẩm định cầu nguyện qua kết quả của nó. Bởi vì ngày nào đó có thể “kết quả” của cầu nguyện xem ra tan vỡ. Thí dụ cầu nguyện không đem lại bình an nữa. Hoặc hình như Thiên Chúa không nghe lời chúng ta cầu nguyện. Nếu xảy ra như vậy thì cầu nguyện có vẻ là vô dụng và chúng ta sẽ thôi không cầu nguyện nữa.


Lý do chính để cầu nguyện: cầu nguyện là cách biểu lộ tình yêu. Biểu lộ tình yêu đối với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để chúng ta được sống đời đời với các Ngài.
Như thế cầu nguyện có thể có nhiều mục đích. Nhưng lý do chính để cầu nguyện là để yêu mến. Cầu nguyện là một hành vi yêu mến để liên kết chúng ta gần gũi hơn với Chúa là tình yêu.
NHỮNG THỂ THỨC CẦU NGUYỆN
Một học sinh trung học viết như sau trong bài làm của em: “Một ngày kia, sau khi chơi bóng rổ ở ngoài công viên, tôi đi tới một vòi nước uống công cộng để uống nước. Nước mát thật là ngon và tôi cảm thấy khỏe khoắn, không còn mệt nữa. Bỗng nhiên tôi nghĩ: ‘Chúng ta cần nước để uống. Nhưng nước từ đâu tới?’ Tôi nghĩ là từ mây. ‘Nhưng mây từ đâu mà có?’ Là từ nước bốc thành hơi. Rồi câu hỏi cứ tiếp tục cho đến khi tôi không trả lời được nữa, hoặc nói đúng hơn, cho đến khi tôi chỉ còn một câu trả lời: Từ Thiên Chúa mà đến. Sau đó một ít phút, tôi nằm dài trên mặt cỏ, nhìn lên trời, thắc mắc không hiểu Thiên Chúa tựa như thế nào. Rồi tôi nói với Thiên Chúa một chút bằng ngôn từ của mình. Sau đó tôi về nhà.”
Cảm nghiệm tuyệt đẹp của cậu học sinh ấy cho thấy ba thể thức cầu nguyện: suy niệm, chiêm niệm và tâm sự.
Suy niệm là khám phá ý nghĩ về Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới cũng tựa như sự hiện diện của tín hiệu truyền hình trong không gian. Những tín hiệu này cần một máy TV để được đưa lên màn ảnh. Cũng thế, sự hiện diện của Thiên Chúa cần sự suy niệm như phương tiện để được đưa vào tụ điểm.
Chiêm niệm là vui hưởng sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta được khích động do ý nghĩ về sự hiện diện của Thiên Chúa đến nỗi nói không nên lời. Chúng ta chỉ còn biết thinh lặng và vui hưởng sự hiện diện ấy như vui hưởng một khúc nhạc hoặc cảnh hoàng hôn tuyệt vời.
Tâm sự là bày tỏ với Thiên Chúa cảm nghĩ của chúng ta. Chúng ta nói với Thiên Chúa từ con tim và bằng ngôn từ hoặc tư tưởng của chúng ta.
Tóm lại, cầu nguyện thường có ba thể thức:
- Suy niệm: khám phá bằng tâm trí,

- Chiêm niệm: vui hưởng trong tâm hồn, và

- Tâm sự: bày tỏ từ trái tim.
Thường những thể thức cầu nguyện này móc nối với nhau trong cùng một kinh nguyện, tựa như những sợi giây nhỏ trong một sợi giây thừng. Khó mà tách chúng ra được.
CHUẨN BỊ CẦU NGUYỆN

Trước khi cầu nguyện, chúng ta cần chuẩn bị. Việc chuẩn bị gồm bốn bước căn bản:


- Chọn một chỗ để cầu nguyện,

- Ấn định giờ giấc để cầu nguyện,

- Chọn lựa một thế để cầu nguyện, và

- Tạo một bầu khí để cầu nguyện.


Trước hết là nơi chốn. Có những người cầu nguyện đang khi ngồi trên xe buýt hoặc đi bộ đến nơi làm việc. Nhưng muốn cầu nguyện mà không bị ngắt quãng, chúng ta cần một chỗ riêng. Đức Giê-su đã làm như vậy. Sách Tin Mừng nói rằng Ngài “đi lên núi để cầu nguyện” (Lc 6:12). Sách cũng kể “Ngài đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1:35). Điều quan trọng về nơi chốn là nó giúp chúng ta cầu nguyện. Muốn biết đâu là chỗ thích hợp để cầu nguyện thì tốt nhất phải thử xem.
Thứ hai là giờ giấc. Với một số người cầu nguyện lúc ban sáng là thích hợp. Nhưng có người lại ưa cầu nguyện vào buổi tối. Chúa Giê-su cầu nguyện vào cả hai lúc. Sách Tin Mừng nói: “Sáng sớm Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1:35). Hoặc: “Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6:12). Cũng vậy, muốn biết giờ giấc nào tốt nhất cho mình để cầu nguyện, cần phải thử nghiệm.
Thứ ba là tư thế. Có người ngồi cầu nguyện là tư thế tốt nhất. Người khác lại thích quỳ cầu nguyện. Đức Giê-su cầu nguyện với nhiều tư thế. Sách Tin Mừng ghi lại: “Người quỳ gối, cầu nguyện…” (Lc 22:41). Hoặc: “Sấp mặt xuống, Người cầu nguyện” (Mt 26:39).
Bước cuối cùng là quan trọng nhất

Bước quan trọng nhất trong việc cầu nguyện là tạo một bầu khí hoặc khung cảnh thích hợp để cầu nguyện. Sách Tin Mừng không cho chúng ta biết Đức Giê-su đã làm điều này như thế nào, có lẽ vì khung cảnh cuộc sống của Ngài luôn luôn thích hợp để Ngài có thể cầu nguyện. Nhưng chúng ta thì không giống như vậy; chúng ta cần phải tạo một khung cảnh thích hợp. Đây là một cách.


Sau khi chọn tư thế cầu nguyện, bạn hãy để cho toàn thân thoải mái. Bắt đầu để cho những thớ thịt trên mặt giãn ra, dần dần xuống tới vai, ngực, bụng và chân.
Khi đã hoàn toàn thoải mái, bạn hãy nhắm mắt lại và thở theo một nhịp đều hòa. Vận động nhịp thở cho tới khi thấy thinh lặng bao trùm. Lúc bạn cảm thấy mình gặp được con người nội tậm của mình thì bạn cố gắng tiếp xúc với Chúa, Đấng đang ở trong bạn là đền thánh của Người (1 Cr 6:19). Cách đơn giản để thực hiện điều này là hãy chú tâm cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa ở gần với con còn hơn cả chính hơi thở của con. Ước gì mỗi hơi thở đều nhắc nhớ cho con biết Chúa đang hiện diện sâu thẳm nơi con người nội tâm của con.”
Cầu nguyện xong, bạn hãy dừng lại trong một tư thế mở lòng cho Chúa. Nếu Chúa cho bạn cảm nhận được sự hiện diện của Người, như thỉnh thoảng vẫn xảy ra, thì bạn hãy sống với sự hiện diện ấy. Đừng vội vã tiếp tục; nhưng hãy quên đi chương trình định sẵn của bạn, mà cứ mở lòng cho Chúa. Việc nghỉ ngơi trong sự hiện diện đầy yêu thương và có sức chữa lành của Chúa là một hình thức cầu nguyện tuy đơn sơ nhưng thật tuyệt diệu.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với chính việc cầu nguyện.
CÁCH THỨC CẦU NGUYỆN

Hầu hết người ta theo những cách thức để cầu nguyện. Một cách thức chỉ là một khuôn mẫu hoặc một đường lối để giúp cho việc cầu nguyện của chúng ta diễn tiến trôi chảy. Sau đây là một số cách thức người ta thấy rất hữu ích:


- cầu nguyện bằng cuộc sống,

- cầu nguyện bằng Kinh Thánh, và

- cầu nguyện bằng những kinh nguyện đã có từ lâu.
Cầu nguyện bằng cuộc sống gồm có ba bước
Cách thức cầu nguyện bằng cuộc sống thì đơn giản và thực tế. Cách này lý tưởng cho việc cầu nguyện vào buổi tối. Ba bước đó gồm: bước thứ nhất hướng về Chúa Cha; bước thứ hai hướng về Chúa Con; và bước thứ ba hướng về Chúa Thánh Thần. Mỗi bước đều có suy niệm, chiêm niệm và tâm sự. Mỗi bước khoảng hai hoặc ba phút.
Bước thứ nhất - Ôn lại ngày sống của bạn. Chọn một điểm cao nhất – một việc tốt bạn đã làm hoặc một điều tốt đã đến với bạn. Tâm sự với Chúa Cha về điểm đó. Rồi cảm tạ Người.
Bước thứ hai - Tiếp tục ôn lại ngày sống. Lần này chọn một điểm thấp nhất – một điều xấu bạn đã làm. Tâm sự với Chúa Con về điều ấy. Xin ơn tha thứ.
Bước thứ ba - Hướng về ngày mai, về một khó khăn bạn sẽ phải đương đầu. Tâm sự với Chúa Thánh Thần về điều này. Xin ơn trợ giúp.
Thí dụ sau đây cho thấy cách thức cầu nguyện diễn tiến thế nào.
Bước thứ nhất: “Lạy Cha, Cha biết con thiếu kiên nhẫn như thế nào. Nhưng hôm nay Cha đã giúp con biết kiên nhẫn. Con cảm tạ Cha.”
Bước thứ hai: “Lạy Chúa Giê-su, Chúa dạy chúng con phải yêu mến. Xin Chúa tha thứ cho con, vì con đã không tỏ lòng yêu thương đối với một người thực sự cần tình thương, một người đang sống trong hoàn cảnh gia đình không mấy tốt đẹp.”
Bước thứ ba: “Lạy Chúa Thánh Thần, con muốn làm điều gì là đúng. Nhưng con không biết rõ phải làm gì. Xin Chúa giúp con biết phải đối xử thế nào với một người đang bực bội và rượu say bí tỉ.”
Cầu nguyện bằng Kinh Thánh có bốn bước

Nếu cầu nguyện bằng cuộc sống thích hợp cho cầu nguyện buổi tối thì cầu nguyện bằng Kinh Thánh rất thích hợp vào ban sáng. Nó đòi hỏi nhiều cố gắng hơn và hữu hiệu hơn khi bạn còn đang khỏe khoắn. Bạn hãy lấy một đoạn Tin Mừng và dành chừng hai hoặc ba phút cho mỗi bước.


Bước 1 - Đọc đoạn Kinh Thánh chậm chậm. Hãy tưởng tượng bạn là một trong những nhân vật trong đoạn Kinh Thánh ấy. Thỉnh thoảng dừng lại để nhìn hoặc nghe những gì nhân vật ấy đã thấy hoặc đã nghe.
Bước 2 - Hãy suy nghĩ về đoạn Kinh Thánh. Tưởng tượng những gì đang xảy ra trong tâm trí nhân vật bạn chọn. Điểm nào đã được nói lên trong đoạn Kinh Thánh?
Bước 3 - Hãy nói với Chúa Giê-su. Tưởng tượng ra những gì nhân vật ấy nói với Chúa Giê-su, không kể những gì đã được ghi lại trong đoạn Kinh Thánh.
Bước 4 - Hãy lắng nghe Chúa Giê-su. Tưởng tượng những gì Chúa Giê-su có thể nói với nhân vật trong đoạn Tin Mừng, không kể những gì đã đọc thấy trong đoạn Kinh Thánh ấy.
Kết thúc bằng cách nói với Chúa Giê-su tất cả những điều ấy sẽ áp dụng như thế nào vào trường hợp cá nhân bạn.
Sau đây là một thí dụ cụ thể về cách thức cầu nguyện bằng Kinh Thánh, với đoạn Mt 9:9-12.
Bước 1 - (Tưởng tượng ra bạn là Mát-thêu đang khi đọc đoạn Tin Mừng này). “Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi ở đó. Người bảo ông: ‘Anh hãy theo tôi!’ Ông đứng dậy đi theo Người.” (Dừng để suy nghĩ: Gương mặt của Chúa Giê-su có nét nào đặc biệt lúc ấy khiến cho Mát-thêu đứng lên đi theo Chúa?) “Đức Giê-su đang dùng bữa trong nhà, thì kìa, nhiều người thu thuế và người tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ.” (Dừng để suy nghĩ: Thử nhận ra những nét biểu lộ nào trên mặt những người tội lỗi đang lắng nghe Chúa.) “Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: ‘Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?’ Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.’” (Dừng để suy nghĩ: Nói những lời này, giọng nói của Chúa Giê-su như thế nào? Ngài ám chỉ ai khi nói những lời này?)
Bước 2 - (Hãy tưởng tượng Mát-thêu nghĩ gì) “Bây giờ tôi biết tại sao Đức Giê-su đã gọi tôi rồi! Tôi cần thầy thuốc. Tôi đau ốm nhiều lắm. Nhưng tôi thiết nghĩ Đức Giê-su đã gọi tôi vì một lý do nào khác nữa. Tôi muốn biết lý do ấy là gì.”
Bước 3 - (Hãy tưởng tượng Mát-thêu nói gì với Chúa Giê-su) “Lạy Chúa, con biết Chúa đã gọi con vì con đau ốm. Nhưng còn lý do nào khác không? Có phải Chúa thấy ở nơi con một điều gì chính con không thấy được? Điều đó là gì?”
Bước 4 - (Hãy tưởng tượng Chúa Giê-su nói gì với Mát-thêu) “Mát-thêu, Thầy đã gọi anh vì một lý do đặc biệt. Thực sự Thầy nhận thấy một cái gì đặc biệt nơi anh. Hiện giờ thì cứ kiên nhẫn. Ngay bây giờ, anh cứ theo Thầy!”
Kết thúc - Cách tốt nhất để kết thúc cầu nguyện là hãy nói với Chúa Giê-su về đoạn Tin Mừng này áp dụng cho bạn như thế nào.
Cách thức cầu nguyện cổ truyền đơn giản nhất

Cách thức cầu nguyện cổ truyền là suy niệm về một kinh quen thuộc. Cách làm như sau: mỗi lần lấy một ý hay một câu. Dừng lại sau mỗi ý hay mỗi câu để tâm sự với Chúa. Thí dụ cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.


“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển.”
“Lạy Cha, xin giúp con ý thức Cha là Cha “của chúng con,” nên chúng con là anh chị em với nhau. Trước hết xin Cha giúp con biết đối xử với người khác như anh chị em.”
“Triều đại Cha mau đến.”
“Lạy Cha, xin ban cho con ơn can đảm để biết sử dụng tài năng mà xây dựng Nước Cha. Xin cho con đừng ích kỷ và bất xứng với Nước Cha, khi Con Cha trở lại trong ngày sau hết.”
“Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
“Lạy Cha, xin giúp con biết bắt chước Chúa Giê-su trong Vườn Dầu. Ngài nói: ‘Xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.’ Lạy Cha, điều ấy không phải dễ làm, nhưng thật là khó.”
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.”

“Lạy Cha, biết bao anh chị em hôm nay đang đói. Họ đói thể xác và phần hồn. Con có thể làm được gì để giúp họ?”


“Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.”
“Lạy Cha, Cha biết con không phải là một người dễ tha thứ cho anh chị em. Đó là điều con cần được chữa lành. Xin Cha đưa bàn tay chữa lành của Cha mà chạm tới con.”

“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. A-men.”


“Lạy Cha, thánh Phao-lô viết: ‘Thiên Chúa là Đâáng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng’ (1 Cr 10: 13). Xin Cha giúp con biết tin vào lời thánh Phao-lô – và tin vào tình yêu vô biên cùng lòng nhân từ của Cha.”
(Về các kinh nguyện quen đọc, xin xem bài 31, “Tiếp tục hành trình.”)
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

- Kẻ xấu nhưng lại biết cầu nguyện. Lu-ca 18:9-14

- Lời nguyện của hoàng đế 2. Sử biên niên 1:7-12

- Đừng lải nhải nhiều lời. Mát-thêu 6:5-15

- Đánh thức bạn dậy. Lu-ca 11:5-13

- Quấy rầy Thiên Chúa. Lu-ca 18:1-8


THẢO LUẬN

1. Tại sao khi cầu nguyện cần phải chọn thời giờ, nơi chỗ và tư thế thích hợp?


2. Thế nào là tạo một “trạng thái thích hợp” để cầu nguyện? Bạn thường làm thế nào để có sự chuẩn bị gần ấy?
3. Cách thức cầu nguyện là gì? Trong ba cách thức (bằng cuộc sống, Kinh Thánh và kinh nguyện đã có sẵn), bạn thường sử dụng cách nào nhiều nhất? Hoặc cả ba? Tại sao?
CHIA SẺ

1. Thảo luận những tư tưởng sau đây:


* “Cầu nguyện một đàng rồi sống một nẻo là không tốt.” (Henry Ward Beecher)
* “Tôi đã sống để cảm tạ Chúa vì mọi lời cầu nguyện của tôi đã không được nhậm lời.” (Jean Ingelow)
* “Kẻ nào không còn tiếp xúc với Chúa nữa thì cũng đang sống trong ngõ cụt cùng với kẻ chối bỏ Chúa.” (Milton A. Marcey)
* “Thiên Chúa nghe con tim chúng ta, chứ không nghe tiếng chúng ta nói.” (Thánh Cyprianô)
2. Đâu là tư tưởng của Max Handel khi ông nói: “Cầu nguyện giống như là bật nút điện. Nó không tạo nên dòng điện, mà chỉ cung cấp một mạch điện để qua đó dòng điện có thể lưu chuyển”?
3. Mẹ Tê-rê-xa có ý gì khi nói: “Cầu nguyện làm cho trái tim chúng ta lớn lên cho đến lúc nó có thể chứa đựng được cả chính Thiên Chúa”?
4. Trong cuốn The Seven Storey Mountain, Thomas Merton kể lại rằng hồi còn niên thiếu, có một đêm bất chợt tu sĩ cảm thấy “quá hãi sợ” trước mọi sự dữ trong cuộc đời. Merton viết: “Tôi khiếp sợ trước những gì tôi đã thấy… Và tôi nghĩ đó cũng là lần đầu tiên trong đời tôi thực sự bắt đầu cầu nguyện… bằng tất cả cuộc sống và con người của tôi… cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng tôi đã chẳng bao giờ biết, xin Người từ nơi bóng tối cúi xuống trên tôi và giúp tôi được giải phóng khỏi trăm ngàn điều khủng khiếp đang cột quấn ý chí tôi trong vòng nô lệ. Tôi đã khóc thật nhiều trong lần cầu nguyện này.” Cũng như Merton, bạn hãy kể lại lần nào đó bạn đã cầu nguyện “hết mình” với tất cả cuộc sống và con người bạn.
--------------------------------

Bài 28

LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO

Trước khi đọc tiếp, bạn hay suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:


1. Cảm tưởng chung chung của tôi về luân lý Ki-tô giáo là...
2. Có một cái gì tạo nên cảm tưởng ấy, đó là...
ĐỜI SỐNG LUÂN LÝ KI-TÔ GIÁO
Vũ trụ của chúng ta bắt đầu như thế nào? Nhiều khoa học gia đưa ra lý thuyết “vụ nổ vũ trụ” (the big bang theory), cho rằng trong không gian đã có một “trái cầu lửa” lơ lửng. Trái cầu lửa này đã nổ tung, văng các mảnh vỡ ra ngoài, cuối cùng tạo thành thái dương hệ của chúng ta. Rồi dần dần sự sống con người bắt đầu phát triển trên địa cầu. Thật là ngạc nhiên khi thánh Augustinô hơn một ngàn năm trăm năm trước đây cũng đưa ra một lý thuyết tương tự. Ngài cho rằng có thể Thiên Chúa đã tạo nên “những hạt giống” từ đó thế giới của chúng ta được phát triển dần dần do một chuỗi tiến bộ đột ngột. Thế giới đã tiến:
* từ không có sự sống tới sự sống thảo vật,

* từ sự sống thảo vật tới sự sống sinh vật,



* từ sự sống sinh vật tới sự sống con người.
Ở tiến bộ tới sự sống con người, tiến trình trở thành ý thức. Nói khác đi, con người đã có thể tự hỏi một câu hỏi hết sức khác thường: Đâu là “bước tiến” kế tiếp trong tiến trình sự sống, và nó sẽ xảy ra như thế nào?
Ki-tô hữu tin rằng Đức Giê-su đã trả lời cho câu hỏi ấy. Ngài nói: “Tôi đến... để họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Ngài cũng nói: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14:6). Như vậy, Đức Giê-su đã mặc khải hai sự thật khó mà chấp nhận:
* “bước tiến” kế tiếp trong tiến trình sự sống sẽ là từ sự sống con người tới sự sống của Thiên Chúa (sống vĩnh cửu), và
* trong Ngài và nhờ Ngài (Đức Giê-su) mà bước tiến kế tiếp đã và đang thể hiện.
Đức Giê-su còn mặc khải thêm nữa. Ngài cho biết Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta tự do và trách nhiệm để chúng ta quyết định có “tiến bộ” từ sự sống con người tới sự sống của Thiên Chúa (sống vĩnh cửu) hay không.
Luân lý Ki-tô giáo là gì?
Luân lý Ki-tô giáo là lối sống để “thực hiện bước tiến” đạt tới sự sống của Thiên Chúa (sống vĩnh cửu), mà Đức Giê-su đã mặc khải và cho thấy là có thể thực hiện được. Lấy một thí dụ để cho dễ hiểu.
Giả thiết việc suy thoái môi trường sinh sống đã đến độ chúng ta cần phải bỏ trái đất này để di chuyển tới một hành tinh khác. Vậy lập tức chúng ta phải bắt đầu vội vã khảo cứu để tìm kiếm một hành tinh khác có thể bảo toàn sự sống. Rồi giả thiết chúng ta đã kiếm ra được một hành tinh, nhưng lại rất khác biệt với trái đất. Tuy nhiên với những điều chỉnh to lớn trong cách sống, chúng ta có thể tự thích nghi để sống trên hành tinh mới này.
Các kỹ sư liền chế tạo ngay trên trái đất những điều kiện mà chúng ta sẽ gặp trên hành tinh mới. Trong những điều kiện giả này, chúng ta sẽ học làm thế nào sống được trong những điều kiện mới.
Cuộc tập luyện kỳ lạ này giúp chúng ta hiểu thế nào là luân lý Ki-tô giáo. Tuổi già và đau yếu khiến cho mỗi người không thể sống mãi trên trái đất này. Chúng ta có giới hạn một số năm để sống trên mặt đất. Tuy nhiên, Đức Giê-su đã mặc khải có một nơi khác bên kia thế giới này, tức là trên trời. Cuộc sống trên trời hoàn toàn khác với cuộc sống ở trần gian. Nhưng chính chúng ta lại có thể điều chỉnh để sống cuộc sống mới ấy và chuẩn bị cho cuộc sống ấy ngay lúc chúng ta còn đang ở đời này. Luân lý Ki-tô giáo là sống trên trần gian này làm sao để mở lòng đón nhận sự sống của Thiên Chúa (sống vĩnh cửu) mà Đức Giê-su đã đến chia sẻ với chúng ta. Phận sự của chúng ta trên thế gian này là “gieo hạt” để “gặt hái” đượcsự sống đời đời trong thế giới mai sau. Chúng ta hãy nghe thánh Phao-lô:
“Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịtl, là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt hái được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời” (Gl 6:7-8).
“Tính xác thịt ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí... Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén... Những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ... Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5:17.19-25).
Đó là luân lý Ki-tô giáo. Nó đem chúng ta vào sự kiểm soát của Thánh Thần. Nó có nghĩa là sống ở trần gian này để “gieo hạt” đưa chúng ta đến “mùa gặt sự sống đời đời” mai sau.
Luân lý Ki-tô giáo là sống như Đức Giê-su đã sống

Luân lý Ki-tô giáo được hiểu đúng nhất, đó là lời mời gọi hãy sống như Đức Giê-su đã sống. Ngài là “con đường.” Đức Giê-su nói: “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em... Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:15; 15:12).


Nhưng bắt chước Đức Giê-su không phải là dễ. Do tội nguyên tổ, bản tính con người chúng ta trở thành khiếm khuyết. Chúng ta không thể lúc nào cũng làm được những gì chúng ta muốn làm. Nơi chúng ta có xung khắc giữa xác thịt và tinh thần. Phao-lô nói về sự xung khắc này như sau: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15).
Sống và yêu mến như Đức Giê-su đã sống và đã yêu mến, đây là mục tiêu chúng ta cố gắng thực hiện nhưng chẳng bao giờ đạt tới. Đó là một tiến trình phát triển chúng ta đã bắt đầu từ tuổi thơ và còn tiếp tục suốt cuộc đời.
PHÁT TRIỂN LUÂN LÝ
Để cố gắng mô tả tiến trình phát triển luân lý, chúng ta sử dụng định thức của Soren Kierkegaard, một triết gia và thần học gia thế kỷ 19. Ông gọi việc mô tả tiến trình này là “Ba giai đoạn của lối sống”: thẩm mỹ, đạo đức và tôn giáo.

Giai đoạn thẩm mỹ quy hướng về chính cá nhân

Tiến trình phát triển luân lý bắt đầu với giai đoạn thẩm mỹ. Ở giai đoạn này, chúng ta sống hầu hết là dưới ảnh hưởng của cảm giác và xúc động. Mối quan tâm chính của chúng ta là làm sao được sống thoải mái và đáp ứng được những nhu cầu cụ thể.


Giai đoạn này chúng ta quả thực là ích kỷ. Chúng ta muốn được tự do để làm những gì mình muốn. Tuy chúng ta không ý thức được, nhưng thực ra chúng ta chẳng tự do chút nào cả, vì chúng ta đang làm nô lệ cho những đam mê và thành kiến của mình. Ở giai đoạn thẩm mỹ, chúng ta coi luật lệ (giáo huấn luân lý) như chẳng liên hệ với mình (impersonal), mà chỉ là một cái gì giới hạn tự do của mình. Chúng ta cũng coi tội lỗi (lỗi phạm luân lý) như chẳng liên hệ với mình, chỉ như là vi phạm một điều cấm cản. Đó là phạm một luật lệ, không hơn không kém.
Kierkegaard nói rằng bao lâu còn ở trong giai đoạn này chúng ta chỉ thấy là không được hạnh phúc. Nếu chúng ta cứ tiếp tục sống lối sống ích kỷ này thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ được bình an.
Chúng ta chỉ có thể giải quyết tình trạng đáng buồn này khi tiến sang một cấp độ có trách nhiệm hơn trong lối sống của mình.
Giai đoạn đạo đức quy hướng tới tha nhân

Chúng ta tiến sang giai đoạn đạo đức khi quyết định bước ra khỏi vòng thế giới quy hướng về chính mình để liên hệ với tha nhân. Chúng ta thực hiện điều này khi lãnh nhận những bổn phận xã hội, thí dụ như tình bạn và những dấn thân của chúng ta.


Lãnh nhận những trách nhiệm xã hội này là chúng ta đã làm một bước tiến vĩ đại để có được tự do cá nhân. Kierkegaard đã chủ trương rằng chúng ta chỉ có thể trở nên tự do đích thực khi chúng ta từ bỏ con người ích kỷ và biết sống trách nhiệm đối với tha nhân.
Ở giai đoạn này, chúng ta coi luật lệ (giáo huấn luân lý) là những gì liên hệ với mình (personal) – để hướng dẫn chúng ta lớn lên. Giai đoạn này chúng ta cũng coi tội lỗi (lỗi phạm luân lý) là điều liên hệ tới chính chúng ta, đó là bất trung với sự thăng tiến cá nhân. Tội lỗi là sống vô trách nhiệm.
Giai đoạn tôn giáo quy hướng về Thiên Chúa

Chúng ta tiến đến giai đoạn này khi khám phá ra quan hệ cá nhân giữa mình với Thiên Chúa. Khám phá này cũng giúp chúng ta ý thức căn tính đích thực của mình (= chúng ta là con cái Thiên Chúa) và thân phận thực sự của mình (= chúng ta được mời gọi kết hiệp với Thiên Chúa).


Tại giai đoạn này, chúng ta cũng khám phá ra sự thật được nhập thể, tức là Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa. Chúng ta hiểu được tại sao Đức Giê-su đã đến sống giữa chúng ta. Ngài đã đến để cứu độ chúng ta, vì nếu không có Ngài, chúng ta không làm gì được (Ga 15:5). Ngài đến để làm nhiều điều khác nữa. Ngài đến để truyền đạt cho chúng ta sự sống đầy đủ, tức là sự sống vĩnh cửu (Ga 14:10; 6:51).
Tới giai đoạn này, chúng ta sẽ trở nên trưởng thành về thể lý cũng như tinh thần. Chúng ta thấy hạnh phúc và chắc chắn được gắn bó với Đức Giê-su Ki-tô.
Ở giai đoạn này, chúng ta khám phá ra liên hệ đích thực giữa luật lệ với tình yêu. Đó là hai khía cạnh của cùng một thực tại. Chính Đức Giê-su đã nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy... Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy” (Ga 14:23-24).
Ở giai đoạn này, chúng ta coi luật lệ (giáo huấn luân lý) liên hệ mọi người với nhau (interpersonal), như lời mời gọi hãy yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta cũng coi tội lỗi (lỗi phạm luân lý) là điều liên hệ tới mọi người. Tội lỗi là từ chối yêu thương. Tội lỗi là trả lời không với Thiên Chúa.
TRƯỞNG THÀNH VÀ HÒA GIẢI

Chúng ta vừa xét đến luật lệ và tội lỗi theo giai đoạn trưởng thành luân lý, giờ đây chúng ta cũng xét đến Bí tích Hòa giải giống như vậy.


Trong giai đoạn thứ nhất, chúng ta coi luật lệ là hạn chế, và tội lỗi là vi phạm hạn chế ấy. Ở vị thế đó, Bí tích Hòa giải sẽ trở thành một thứ bổn phận đáng ghét là phải kể lể tội lỗi chúng ta cho một linh mục.
Trong giai đoạn thứ hai, chúng ta coi luật lệ là hướng dẫn tới trưởng thành và tội lỗi là bất trung với thăng tiến. Ở vị thế đó, Bí tích Hòa giải sẽ là phương thế quý giá giúp chúng ta trở nên con người tốt hơn.
Cuối cùng, trong giai đoạn thứ ba, chúng ta coi luật lệ là lời mời gọi yêu thương và tội lỗi là từ chối yêu thương. Ở vị thế đó, Bí tích Hòa giải trở thành việc cử hành sự tái lập tình bạn với Thiên Chúa và gia đình Người.
Sơ đồ sau đây tóm tắt cái nhìn của chúng ta về luật lệ, tội lỗi và Bí tích Hòa giải trong từng giai đoạn của tiến trình ba giai đoạn trưởng thành luân lý:

_________________________________________________


Luật lệ Tội lỗi Bí tích Hòa giải
_________________________________________________
Giai đoạn 1 hạn chế vi phạm một bổn phận đáng ghét
tự do sự hạn chế này
_______________________________________________
Giai đoạn 2 hướng dẫn bất trung với một phương thế quý giá
tới trưởng thành thăng tiến

_________________________________________________


Giai đoạn 3 lời mời gọi từ chối việc cử hành sự hòa giải
yêu thương yêu thương

________________________________________________

Giờ đây chúng ta hãy xét vấn đề được thánh Phao-lô nêu lên khi ngài nói: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15).
LỖI PHẠM LUÂN LÝ

Dù chúng ta có thiện ý hoặc hăng say dấn thân, nhưng chúng ta vẫn thường không theo Chúa được như chúng ta có bổn phận phải theo. Chúng ta gọi thất bại này là tội.


Truyền thống Công giáo phân biệt hai loại tội: tội trọng và tội nhẹ.
Tội trọng là lỗi phạm luân lý cách nặng

Tội trọng là một hành động tẩy chay hoặc đi ngược lại quan hệ và cam kết của chúng ta với Đức Giê-su. Nói khác đi, chúng ta không những tự ý làm một hành vi nào đó mà thôi, nhưng trong tiến trình phạm tội, chúng ta còn tự ý trở nên loại người mà hành vi ấy biến chúng ta thành như vậy. Như vậy hành vi ấy ảnh hưởng toàn diện con người chúng ta.


Truyền thống Công giáo dạy rằng để một tội là tội trọng, phải có ba điều kiện:
* điều lỗi phạm là nặng (điều chúng ta làm theo khách quan là điều nặng, thí dụ giết người);
* đã suy nghĩ đủ (chúng ta hoàn toàn ý thức điều mình làm);
* hoàn toàn ưng thuận (chúng ta tự ý quyết định làm điều ấy).
Tuy nhiên, ngoài ba điều kiện ấy, chúng ta vẫn phải thêm rằng đó chỉ là những hướng dẫn mà thôi. Là những hướng dẫn, chúng cần phải được hiểu cho đúng, nếu không chúng sẽ dẫn chúng ta đi lạc đường.
Hoàn cảnh làm biến đổi

Trong hoàn cành bình thường, ăn cắp một ổ bánh và một ly nước thường không phải là một điều nặng. Nhưng nếu chúng ta ăn cắp những thứ ấy của một người cần chúng để sống sót cho tới khi được cấp cứu, thì việc ăn cắp ấy có thể trở thành một điều nặng.


Nói cách khác, hoàn cảnh xung quanh một hành động có thể biến đổi bản chất luân lý của hành động ấy.
Chúng ta lấy một thí dụ khác.
Trong hoàn cảnh bình thường, giết người là một điều rất nặng. Tuy nhiên, nếu chúng ta giết người vì lý do tự vệ chính đáng, thì xét theo luân lý điều ấy không có gì là sai trái cả.
Nói khác đi, những lý do để làm một hành vi có thể biến đổi bản chất luân lý của hành vi ấy.
Tội nhẹ là lỗi phạm luân lý cách nhẹ

Tội nhẹ là một hành động chưa tới mức độ là một tội trọng. Tội nhẹ có thể có những cấp độ khác nhau về sự nặng nề.


Thí dụ, nếu chúng ta nói dối để làm cho ai phải mất mặt, thì điều này nặng hơn là nói một cách giận dữ với một người đang khi chúng ta thất vọng.
TÓM KẾT

Sống luân lý Ki-tô giáo là cố gắng yêu thương và sống như Đức Giê-su đã yêu thương và đã sống. Đó là sống mở lòng đón nhận sự sống tràn đầy và tình yêu mà Đức Giê-su đã đến chia sẻ với chúng ta.


Đường dẫn đến trưởng thành luân lý thường mở ra từ từ và theo từng giai đoạn. Người ta cố gắng mô tả những giai đoạn này như sau:
* thẩm mỹ: hướng về cá nhân,

* đạo đức: hướng về tha nhân,

* tôn giáo: hướng về Thiên Chúa.
Cái nhìn của chúng ta về luật lệ, tội lỗi và Bí tích Hòa giải thay đổi tùy theo giai đoạn thuộc tiến trình phát triển luân lý.
Khi không sống sự cam kết phải sống và yêu thương như Đức Giê-su đã làm, thì điều ấy gọi là tội. Tội trọng là hoàn toàn từ chối không muốn sống sự cam kết. Tội nhẹ là một lỗi phạm luân lý chưa tới mức độ hoàn toàn từ chối.
Để giúp hướng dẫn thực hành luân lý Ki-tô giáo, xin xem chương (bài) 31, “Tiếp tục hành trình” (Xét lương tâm).
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Đường đến với Chúa Cha. Gio-an 14:1-14

2. Cây nho và cành nho. Gio-an 15:1-11

3. Giáo huấn luân lý của Đức Giê-su. Mát-thêu 5

4. Sự sống mới trong Đức Ki-tô. Cô-lô-xê 3:1-17

5. Vinh hiển mai sau. Rô-ma 8:18-30



THẢO LUẬN

1. Đức Giê-su nói: “Tôi đến để (anh em) được sống và sống dồi dào.” Những lời này có thích hợp như thế nào với “tiến trình sự sống” mà nhiều khoa học gia cho là đang tiến hành trên trái đất chúng ta?


2. Giải thích luân lý Ki-tô giáo là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình sự sống ấy như thế nào?
3. Xem lại việc phân biệt tội trọng với tội nhẹ. Ba điều kiện để là một tội trọng thường thấy trong cuộc sống của chúng ta như thế nào, và bạn có xét đến khi xét mình xưng tội không?

CHIA SẺ

1. Thảo luận những tư tưởng sau đây:


* “Nếu đời sống luân lý chỉ là tuân theo luật lệ, thì chúng ta cũng có thể biến một cái máy vi tính thành máy luân lý.” (Samuel P. Ginder)
* “Nếu tâm hồn bạn không muốn có một thế giới có luân lý, thì tâm hồn bạn chắc chắn sẽ chẳng bao giờ giúp bạn tin vào một thế giới như vậy”
(William James)
* Luân lý Ki-tô giáo không bao giờ có thể là câu hỏi “Khi nào mới là phạm tội?” Nhưng luôn luôn là câu hỏi “Làm sao tôi có thể làm hơn nữa vì tôi yêu mến?”
2. Bạn sẽ làm gì nếu quả thực bạn nhận thấy mình chỉ coi luật lệ, tội lỗi và Bí tích Hòa giải như trong giai đoạn thứ nhất?
3. “Lori Magraw, một sinh viên đại học hai mươi tuổi, bị cho nghỉ việc làm bán thời gian tại một tiệm giày ở Seattle... Công việc của cô là gói lại những đôi giày không được chế tạo hoàn hảo để gửi trả lại hãng sản xuất. Tuy nhiên, người chủ bảo cô phải dùng dao cắt luôn cả những đôi giày hoàn toàn còn tốt mà khách hàng không thích đã đem trả... Cô đã nộp đơn khiếu nại lên một cơ quan thành phố, đã nhận được một khoản tiền nhỏ và cửa tiệm hứa là sẽ không bắt làm như thế nữa.” (Christopher News Notes). Bạn hãy nhớ lại có lần bạn đã giữ vững lập trường luân lý về một điều gì đó. Điều gì khiến bạn giữ vững lập trường chống lại những bất công khác trong xã hội?
-----------------------------

Bài 29

QUYẾT ĐỊNH LUÂN LÝ
Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:
1. Có một lần tôi đã bối rối không biết đâu là điều theo luân lý tôi phải làm, đó là khi...
2. Khi tôi không rõ một điều tôi định làm có đúng hay là sai, thì tôi thường giải quyết bằng cách...
LÀM QUYẾT ĐỊNH

Một ông chủ trại già cả mướn một em nhỏ để lựa khoai tây ra từng cỡ. Ông bảo em phải chia làm ba đống khác nhau theo từng cỡ: nhỏ, trung bình và lớn. Rồi ông già vào nhà kho làm việc khác.


Hai tiếng sau, thằng bé chạy vào kho. Trán nó đẫm mồ hôi và có vẻ bực bội. Ông chủ trại hỏi: “Gì vậy?” Thằng nhỏ lắp bắp: “Cháu không lựa được nữa.” Ông già hỏi: “Việc đó nặng quá à?” Thằng nhỏ trả lời: “Dạ không phải. Công việc chẳng có gì mệt, nhưng cháu không quyết định được củ khoai nào thuộc cỡ nào.”
Làm quyết định không phải dễ

Làm quyết định là việc khó. Lại đặc biệt khó khi những quyết định ấy là những quyết định luân lý, tức là quyết định điều gì là phải, điều gì là sai. Về việc này, trong luân lý Ki-tô giáo, chúng ta có thể phân biệt bốn loại quyết định. Nói cho đơn giản, chúng ta có thể dùng ngôn ngữ thường ngày để gọi chúng như sau:


* những quyết định luân lý rõ ràng,

* những quyết định luân lý không rõ ràng,

* những quyết định luân lý gây tranh luận, và

* những quyết định luân lý đối nghịch.


Mỗi thứ quyết định này đều khó. Muốn rõ, mỗi thứ đều có ba bước quan trọng để giúp chúng ta quyết định, đó là:
* tìm hiểu vấn đề luân lý ấy, đặc biệt theo giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề ấy.

* cân nhắc vấn đề dưới ánh sáng của lời Đức Giê-su mời gọi hãy sống và yêu thương như Ngài đã sống và yêu thương.

* xin Chúa Thánh Thần giúp đỡ chúng ta quyết định đúng.
NHỮNG QUYẾT ĐỊNH LUÂN LÝ RÕ RÀNG

Cuốn phim A Man for All Seasons được thực hiện dựa trên cuộc đời thánh Thomas More. Ngài nổi danh sau khi được vua Henry VIII bổ nhiệm làm thủ tướng Anh-quốc năm 1529. Nhưng thảm cảnh sắp xảy tới cho ngài.


Vua Henry ly dị hoàng hậu và tái hôn. Để quyết tâm bảo vệ cho việc tái hôn về phương diện luật đời cũng như luật đạo, vua Henry ra lệnh cho các viên chức cao cấp nhà nước phải ký vào một tài liệu thề rằng hôn nhân sau này là thành sự. Henry còn bắn tiếng với họ là nếu không chịu ký thì họ sẽ bị xử là phản bội.
Một cảnh rất cảm động là khi Huân tước Norfolk trình tài liệu cho Thomas More. Thomas từ chối không chịu ký. Norfolk nài nỉ Thomas hãy suy nghĩ lại, vì yêu thương gia đình và bạn bè.
Nhưng Thomas biết rằng có một tình yêu khác quan trọng hơn hết, đó là yêu mến Thiên Chúa. Ngài không thể nhân danh Chúa mà thề một điều ngài biết rõ là không đúng.
Ít lâu sau Thomas bị bắt, bị đưa ra tòa, bị buộc tội và bị hành quyết vì tội phản bội.
Những quyết định luân lý rõ ràng đòi chúng ta phải can đảm

Quyết định Thomas More phải đương đầu là rõ ràng và khó khăn. Ngài ý thức những dữ kiện của trường hợp. Ngài biết giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề ấy. Ngài biết những gì lòng yêu mến Chúa mời gọi ngài hãy làm. Điều thánh nhân cần nhất, đó là lòng can đảm để làm những gì lương tâm bảo ngài phải làm.


Cầu nguyện đóng vai trò quan trọng trong quyết định của thánh Thomas More và được biết qua bức thư ngài viết cho ái nữ là Meg. Khi nói về những gì người ta sẽ làm nếu chỉ vì sợ hãi, ngài viết:
“Cha sẽ nhớ lại thánh Phê-rô, vừa lúc có cơn gió mạnh ngài đã bắt đầu chìm xuống nước vì thiếu lòng tin, thì cha cũng sẽ làm như ngài, nghĩa là kêu Chúa Ki-tô và cầu xin Người giúp đỡ. Rồi cha tin Chúa sẽ đặt bàn tay thánh thiện của Người trên cha và giữa sóng gió biển cả Người sẽ giữ cho cha khỏi bị chìm. Cho nên, hỡi con gái yêu quý của cha, đừng để cho tâm hồn con bị xao động.”
Cho dù thánh nhân đã biết phải quyết định thế nào, ngài cũng vẫn cần đến lòng can đảm để làm quyết định ấy. Cầu nguyện đã đem lại can đảm cho ngài.
NHỮNG QUYẾT ĐỊNH KHÔNG RÕ RÀNG

Hãy tưởng tượng bạn là cha của ba đứa nhỏ, sáu, chín và mười một tuổi. Bà nội của bạn đã tám mươi tư tuổi đang sống với bạn. Bà cụ bị phong thấp nặng và cần được giúp đỡ. An-Mỹ, vợ của bạn, chăm sóc cho bà cụ.


Một ngày kia, sau khi cảm thấy quá vất vả, An-Mỹ ngần ngại đề nghị đưa bà nội vào viện dưỡng lão. Thế là bạn phải đối phó với một quyết định luân lý không rõ ràng. Bạn muốn làm điều gì là phải, nhưng bạn không chắc chắn được đó là điều nào.
Những vấn đề không rõ ràng thì chưa sáng tỏ tức khắc được

Một vấn đề luân lý chưa rõ ràng là vấn đề chưa thể cho chúng ta một quyết định đúng rõ rệt ngay lập tức được. Đó là vấn đề đòi phải cân nhắc cẩn thận giữa những lý do thuận và nghịch. Vấn đề ấy cần phải hội ý người khác thật kỹ lưỡng. Đó cũng là vấn đề thường phải tham vấn đặc biệt với những chuyên viên như bác sĩ hoặc linh mục.


Tuy nhiên, cuối cùng vẫn là một quyết định mà chính chúng ta phải làm sau khi đã (1) tham vấn những người cần phải hỏi họ, (2) tự hỏi tình yêu nào mời gọi chúng ta làm, và (3) cầu nguyện xin ơn soi sáng.
Nếu đã đi theo những bước này, chúng ta sẽ thẳng thắn chọn lựa với một lương tâm trong sáng bất cứ đường lối hành động nào Chúa Thánh Thần chỉ dạy cho chúng ta.
NHỮNG QUYẾT ĐỊNH GÂY TRANH LUẬN

Khi những đạo quân của Hitler bắt đầu tung hoành khắp Âu-châu thời thế chiến thứ hai, Franz Jagerstatter còn là một nông dân trẻ trung. Anh có vợ và hai con. Anh cũng được vinh dự là người duy nhất trong làng đi bầu chống lại việc sát nhập nước Áo với Đức- quốc-xã.


Tháng Hai 1943, Franz được lệnh phải trình diện làm nghĩa vụ quân sự trong quân đội Đức. Anh phải đối phó với một tình huống khó xử. Làm sao anh có thể chiến đấu trong một cuộc chiến anh đã coi như là vô luân khởi xướng do một chính quyền vô luân?
Franz hỏi ý linh mục giáo xứ và giám mục của anh. Cả hai đều khuyên anh hãy phục vụ trong đoàn y tế để anh khỏi phải cầm súng. Nhưng anh từ chối, nói rằng mang quân phục đã là dấu chỉ anh đồng lòng với chính phủ và chiến tranh rồi.
Khi một luật sư do chính phủ chỉ định hỏi Franz tại sao anh thấy trở ngại đối với nghĩa vụ quân sự trong khi hằng triệu Ki-tô hữu Đức-quốc không thấy, thì anh trả lời: “Tôi nghĩ là họ không có ơn sủng để nhìn thấy vấn đề. Còn tôi, tôi có ơn sủng ấy, nên tôi không thể phục vụ trong quân đội.”
Anh Jagerstatter quyết định

Cuối cùng, sau khi cân nhắc các sự kiện, suy nghĩ xem tình yêu nào mời gọi anh quyết định, và cầu nguyện xin ơn soi sáng, Franz đã làm một quyết định gây tranh luận. Anh theo lương tâm mình hơn là theo lời khuyên của những Ki-tô hữu tốt và những vị lãnh đạo trong Giáo Hội.


Ngày 9 tháng 8 năm 1943, Franz bị hành quyết. Lịch sử đã tôn vinh anh như là ngôn sứ và anh hùng.
Tóm lại, một quyết định luân lý gây tranh luận là sau khi đã theo từng bước của việc quyết định, chúng ta cảm thấy phải theo lương tâm mình thay vì theo những đề nghị của những Ki-tô hữu tốt khác.
NHỮNG QUYẾT ĐỊNH ĐỐI NGHỊCH

Sau hết là quyết định luân lý đối nghịch. Đó là quyết định đi ngược lại giáo huấn chính thức của Giáo Hội. Đây là quyết định luân lý trầm trọng nhất một Ki-tô hữu có thể làm.


Để thấy được tính cách trầm trọng ấy, chúng ta hãy lắng nghe Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ..., dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20).

Chúng ta cũng lắng nghe những lời Đức Giê-su nói với Phê-rô: “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy... Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16:18-19).


Sau cùng, chúng ta hãy nghe những lời Đức Giê-su nói với môn đệ ngay trước khi Ngài về với Chúa Cha: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16:12-13).

Ba giáo huấn này của Đức Giê-su đưa ra hai chân lý quan trọng:


* Đức Giê-su ban quyền cho Giáo Hội được dạy dỗ nhân danh Ngài;
* Đức Giê-su bảo đảm với Giáo Hội là Chúa Thánh Thần sẽ dẫn dắt Giáo Hội trong vai trò giảng dạy.
Tuy nói như thế, nhưng chúng ta phải hiểu rằng Giáo Hội gồm những con người phàm trần, nên việc Chúa Thánh Thần dẫn dắt cũng còn tùy nghi. Điều này có nghĩa là Chúa Thánh Thần không qua mặt trí khôn, suy nghĩ và kiến thức của con người.
Như vậy, Giáo Hội thường được ơn nhìn thấy rõ ràng những vấn đề luân lý và đức tin một cách từ từ và theo từng giai đoạn, đó là nhờ (1) mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần và (2) tùy mức độ phức tạp của vấn đề.
Giáo Hội giảng dạy ở hai cấp độ

Vì không thấy được chắc chắn về một số vấn đề thuộc luân lý và đức tin, nên Giáo Hội giảng dạy ở hai cấp độ khác nhau:


Ở cấp độ thứ nhất, Giáo Hội dạy về một vấn đề như là chắc chắn tuyệt đối. Thí dụ, khi dạy rằng Bí tích Thánh Thể thực sự là Mình Thánh Chúa Ki-tô, Giáo Hội dạy với sự chắc chắn tuyệt đối. Do đó, đối với giáo huấn này chúng ta phải hoàn toàn “chấp nhận vì đức tin”. Nếu không chấp nhận, chúng ta sẽ không còn là người Công giáo nữa.
Ở cấp độ thứ hai, Giáo Hội dạy về một vấn đề như là không chắn chắn tuyệt đối.
Một thí dụ trích dẫn từ Thư 1 Cô-rin-tô cho thấy việc giảng dạy ở cấp độ thứ hai khi thánh Phao-lô viết: “Về vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ anh em tới tư cách là người – nhờ Chúa thương – đáng được anh em tín nhiệm” (1 Cr 7:25).
Hoặc một thí dụ ngày nay cho thấy việc giảng dạy ở cấp độ thứ hai khi Giáo Hội hiện thời dạy về việc ngừa thai nhân tạo, đó là thông điệp Humanae vitae (Sự sống con người).
Dù không nói lên sự chắc chắn rõ ràng về vấn đề gây nhức nhối này, Giáo Hội vẫn cảm thấy có bổn phận phải hướng dẫn về vấn đề ấy, cũng như thánh Phao-lô đã cảm thấy có bổn phận hướng dẫn tín hữu Cô-rin-tô về một vấn đề làm cho họ khó chịu.
Rồi khi đã nghiên cứu và cầu nguyện, huấn quyền của Giáo Hội (quyền Giáo Hội hành xử việc giảng dạy) theo truyền thống đã dạy và còn tiếp tục dạy rằng việc ngừa thai nhân tạo là trái luân lý cách nặng.
Tuy nhiên, vì Giáo Hội chưa chắc chắn hoàn toàn về vấn đề nên đòi chúng ta phải “chấp nhận vì lòng đạo đức” thay vì “chấp nhận vì đức tin.”
Điều ấy có nghĩa là gì?
Có nghĩa là chúng ta chấp nhận tư thế đáng tin cậy của giáo huấn do Giáo Hội về vấn đề ấy là vì (1) Đức Giê-su đã ban quyền cho Giáo Hội giảng dạy nhân danh Ngài, và (2) Đức Giê-su đã bảo đảm với chúng ta rằng Thánh Thần sẽ dẫn dắt Giáo Hội trong vai trò giảng dạy. Vì hai lý do đạo đức này nên chúng ta chấp nhận tính cách đáng tin cậy của giáo huấn ấy. Bởi đó mới có từ ngữ “chấp nhận vì lòng đạo đức.”
Làm quyết định đối nghịch như thế nào?
Đi ngược lại giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề ngừa thai nhân tạo là một điều nặng, vì nó có nghĩa là chúng ta hành động ngược lại những người Đức Giê-su đã ủy thác và ban quyền giảng dạy nhân danh Ngài.
Đó cũng là một điều nặng vì thực quá dễ dàng để chúng ta bị đánh lừa, chỉ tin những gì chúng ta muốn tin mà thôi. Thánh Augustinô đã nghĩ về điều này khi ngài viết:
“Nếu bạn chỉ tin những gì bạn muốn tin và từ chối những gì bạn không thích, thì không phải là bạn tin vào Tin Mừng đâu, mà là tin vào chính bạn đó.”
Nhưng ở thời điểm hiện tại, vì không dạy về vấn đề này theo cách không thể sai lầm, Giáo Hội để cho người Công giáo cơ hội xét vấn đề theo lương tâm của mình, miễn là họ:
* có một lý do xứng đáng để làm như vậy,

* đã suy xét giáo huấn của Giáo Hội và những lý do để làm,

* đã cố gắng tìm mọi cách giải quyết vấn đề mà không thành công,

* đã chuyên cần cầu nguyện xin ơn soi sáng.


Vậy có thể sau khi đã theo những bước tiến này một cách trung thành, đôi vợ chồng Công giáo thành thực nhận thấy mình đang ở trong một tình trạng xung đột về bổn phận (thí dụ, dung hòa tình yêu vợ chồng với trách vụ làm cha mẹ, với việc cho con cái học hành, hoặc với sức khỏe của người mẹ). Lo lắng cho đôi vợ chồng như thế, các giám mục Gia-nã-đại đã viết:
“Để cho phù hợp với những nguyên tắc thần học luân lý đã được chấp nhận, nếu những người này đã chân thành cố gắng sống theo những tiêu chuẩn hướng dẫn được đưa ra [tức là giáo huấn của Giáo Hội] nhưng không thành công, thì họ có thể chắc chắn rằng khi một người thành thực chọn phương thức hành động xem ra đúng cho họ thì người ấy đã làm theo lương tâm ngay lành rồi.”
Sau khi Đức Giáo Hoàng đọc lại tuyên ngôn của các giám mục Gia-nã-đại, thì phát ngôn viên của ngài cho các giám mục biết là Đức Thánh Cha hài lòng với cách giải thích ấy.
TÓM TẮT

Quyết định luân lý là quyết đinh những gì là đúng theo luân lý trong một tình huống. Chúng ta có thể phân biệt bốn loại quyết định luân lý:


* những quyết định rõ ràng, thí dụ quyết định của thánh Thomas More;
* những quyết định không rõ ràng, thí dụ mọât gia đình với bà nội có vấn đề;
* những quyết định gây tranh luận, như anh Franz Jagerstatter đã làm;
* những quyết định đối nghịch, như một cặp vợ chồng Công giáo phải đối phó.
Mỗi quyết định ấy đều nhức nhối và khó khăn. Để làm mỗi quyết định ấy, chúng ta cần học hỏi, sống tình yêu Ki-tô và cầu nguyện để biết nhận định.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Quyết định rõ ràng. 1 Cô-rin-tô 5

2. Quyết định không rõ ràng. 2 Cô-rin-tô 9

3. Quyết định gây tranh luận. Rô-ma 14

4. Hoãn lại việc quyết định. Công vụ Tông Đồ 5:27-39

5. Diễn tiến việc quyết định. Công vụ Tông Đồ 15:1-31


THẢO LUẬN
1. Bốn loại quyết định luân lý thường gặp trong đời sống Ki-tô hữu luôn được xét dưới ánh sáng giáo huấn Giáo Hội, lời Đức Ki-tô và dẫn dắt của Thánh Thần. Điều này Ki-tô hữu có thường làm không? Họ gặp khó khăn nào? Giải đáp những khó khăn ấy ra sao?
2. Ki-tô hữu hôm nay gặp khó khăn nhiều nhất, đó là khi phải quyết định luân lý gây tranh luận. Hoàn cảnh xã hội ngày nay đã nảy sinh những vấn đề luân lý mới nào đáng kể? Ki-tô hữu phải được chuẩn bị như thế nào để quyết định đúng?
3. Tại sao một quyết định luân lý đi ngược với giáo huấn Giáo Hội lại là một điều nặng?

CHIA SẺ

1. Thảo luận những tư tưởng sau đây:


* “Lý trí thường sai lầm, nhưng lương tâm thì không bao giờ.”

(Josh Billings)



* “Đó là một cuộc chiến cả đời người – một bên là đám đông ồn ào và một bên là tiếng lương tâm của bạn.” (Đại tướng Douglas MacArthur, trong dịp mừng thượng thọ 84 tuổi)
* “Chúng ta là chính những lựa chọn của mình.” (Jean-Paul Sartre)
2. Nhớ lại bốn loại quyết định luân lý, bạn hãy xếp những sự kiện sau đây vào loại quyết định luân lý nào: (a) án tử hình, (b) phá thai, (c) vũ khí hạch nhân, (d) ăn cắp ở siêu thị, (e) nạn đói tại Phi-châu, (f) sử dụng kích thích tố để tranh đua thể thao.
3. Bạn có ba con nhỏ, năm, bảy và chín tuổi. Đứa lớn nhất quá nhút nhát và cần được nâng đỡ. Chồng bạn phải làm việc mười tiếng mỗi ngày tại văn phòng và lương cũng chỉ vừa đủ chi dụng gia đình. Người ta cho bạn việc làm bốn mươi tiếng một tuần và lương cũng khá. Bạn phải quyết định thế nào?
4. Bạn sống trong một thành phố nhỏ. Trường tiểu học tại đó có chương trình định nhận vào học ba em nhỏ nhiễm bệnh AIDS. Vì một số lý do nào đó, phụ huynh học sinh cực lực chống lại chương trình này. Một ủy ban gồm năm người, trong đó có vợ của ông chủ sở làm của bạn đến nhà bạn để xin bạn ký vào đơn khiếu nại chống lại chương trình ấy. Bạn sẽ làm gì?





tải về 1.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương