ĐỨc tin ngưỜi công giáo the Catholic Vision Mark Link, sj. Lm. Trần Đình Nhi



tải về 1.67 Mb.
trang2/10
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích1.67 Mb.
#37886
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

THÁNH TRUYỀN

Vở kịch danh tiếng Fiddler on the Roof của Broadway được soạn vào lúc người Do-thái vẫn còn tuân giữ nhiều truyền thống cổ xưa. Trong vở kịch này, một thanh niên đến gặp người láng giềng Do-thái tên là Tevye để xin cầu hôn với con gái của ông.


Ban đầu Tevye từ chối, vì theo truyền thống Do-thái chỉ có ông bà mai mới có thể thu xếp chuyện hôn nhân. Nhưng rồi Tevye cũng bằng lòng và để cho đôi trẻ lấy nhau. Màn kịch này nêu lên một vài câu hỏi về truyền thống. Vậy truyền thống là gì và truyền thống ảnh hưởng như thế nào?
Từ ngữ Thánh Truyền theo nguyên ngữ La-tinh nghĩa là "truyền tay cho người khác." Nó có thể được sử dụng theo hai ý nghĩa.
Thứ nhất, Thánh Truyền chỉ về một tiến trình theo đó một niềm tin và lối thực hành niềm tin ấy được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ kia. Như vậy chúng ta đang nói về Thánh Truyền truyền khẩu và Thánh Truyền thành văn.
Thứ nhì, từ ngữ Thánh Truyền có thể dùng để chỉ về nội dung của những gì được truyền lại. Như thế chúng ta lại phân biệt Thánh Truyền thiết yếu và Thánh Truyền không thiết yếu. Thí dụ, truyền thống về việc linh mục Công giáo không lập gia đình là một truyền thống không thiết yếu. Do đó truyền thống ấy có thể được thay đổi. Ngược lại, truyền thống tin Đức Ki-tô thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể là truyền thống thiết yếu. Thánh Truyền này không thể thay đổi được. Hội Thánh dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần sẽ xác định truyền thống nào là thiết yếu hay không thiết yếu.
Thánh Truyền là một tiến trình toàn diện
Thánh Truyền được truyền đạt không chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng nhân chứng và việc thờ phượng. Chúng ta có đức tin không phải vì chúng ta được dạy dỗ, mà là vì chúng ta được trao ban. Do đó, Thánh Truyền là một tiến trình toàn diện bao gồm cả lời nói lẫn nhân chứng và việc thờ phượng.
Cách mô tả tuyệt hảo nhất về tiến trình "toàn diện" này gặp thấy trong sách Công Vụ Tông Đồ. Trong đó, thánh Lu-ca đã tường thuật những hoạt động của các Ki-tô hữu tân tòng như sau:
"Họ chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy (lời nói), hiệp thông với nhau (nhân chứng), tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện" (thờ phượng). (Cv 2:42).

Tất cả những hoạt động này - lời nói, nhân chứng và việc thờ phượng - giữ vai trò rất quan trọng trong việc "truyền lại" đức tin.


KINH THÁNH

Nhiều người ngạc nhiên khi biết rằng một số lớn các đoạn Kinh Thánh đều khởi đầu từ khẩu truyền. Nó cách khác, những đoạn Kinh Thánh này đã được truyền miệng cho nhau qua nhiều năm trước khi được ghi chép lại.


Lấy sách Tin Mừng làm ví dụ. Nhiều đoạn trong chính văn bản cho thấy là văn bản đã được truyền miệng qua một thời gian khá lâu trước khi được ghi chép lại. Thí dụ, Tin Mừng Mát-thêu nói rằng sau khi Đức Giê-su sống lại, lính canh mồ đã được mua chuộc để phao tin là các môn đệ Chúa đã trộm xác Người khi họ đang ngủ. Rồi thánh Mát-thêu ghi thêm: “Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay" (Mt 28:15). Những từ ngữ "cho đến ngày nay" nói lên một quá trình thời gian đáng kể từ khi biến cố ấy xảy ra cho đến lúc được ghi lại trong sách Tin Mừng. Trở lại sách Tin Mừng một lần nữa, thánh Gio-an kết thúc sách của ngài như sau: “Chúa Giê-su còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, nhưng không ghi chép hết trong sách này” (Ga 20:30).
Điểm này quan trọng, vì nó chứng tỏ khẩu truyền về Đức Giê-su vẫn còn được tiếp tục trong Hội Thánh sau khi sách Tin Mừng được viết.
Tất cả Kinh Thánh đều do linh hứng

Trong tiến trình của Thánh Truyền, vai trò của Chúa Thánh Thần là quan trọng trên hết. Đề cập đến vấn đề này, chính Đức Giê-su đã nói: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16:13). Nói cách khác, Đức Giê-su khẳng định với chúng ta rằng Chúa Thánh Thần sẽ dẫn dắt và bảo vệ Hội Thánh của Người khỏi những lỗi lầm trong tiến trình truyền lại đức tin.

Đôi khi chúng ta gọi sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần là linh hứng. Từ ngữ này được thánh Phao-lô sử dụng, như trong Thư thứ hai gửi Ti-mô-thê: "Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng" (2 Tm 3:16). Nghĩa là Chúa Thánh Thần đã dẫn dắt và bảo vệ các tác giả viết Kinh Thánh khỏi những sai lầm trong những vấn đề liên hệ đến việc cứu rỗi. Điều này không có nghĩa là Thánh Thần bảo vệ các tác giả viết Kinh Thánh khỏi những sai lầm về lịch sử và khoa học. Thiên Chúa không bao giờ có ý định linh hứng cho họ để viết sách khoa học và lịch sử. Vì thế, Kinh Thánh không thể không có những sai lầm khoa học và lịch sử.
Thí dụ sách Đệ Nhị Luật 14:7 liệt kê loài thỏ rừng là một trong những thú vật nhai lại, đó là điều không đúng khoa học chút nào. Về lịch sử, chúng ta có thể lấy thí dụ sách 1 Sa-mu-en 31:4 ghi lại rằng vua Sau-lê tự vận, trong khi sách 2 Sa-mu-en 1:9-10 lại viết là một người khác đã giết nhà vua.

Những sách nào thuộc Kinh bộ?

Công giáo và Tin lành không đồng nhất với nhau về Kinh bộ Kinh Thánh Do-thái (Cựu Ước). Từ ngữ "Kinh bộ" có nghĩa là bản danh sách chính thức về những sách được Thiên Chúa linh hứng và do đó được dùng như là khuôn vàng thước ngọc cho đức tin. Giáo Hội giữ lại nguyên trong Kinh bộ bảy cuốn sách mà Tin lành không thừa nhận. Những sách này là Ma-ca-bê 1 và 2, Giu-đi-tha, Tô-bi-a, Ba-rúc, Huấn ca và Khôn Ngoan.


Sự bất đồng này bắt nguồn từ xưa khi chính người Do-thái cũng đã không nhất trí về Kinh bộ của họ. Nhiều người Do-thái trở lại Ki-tô giáo lúc đó đã sử dụng Kinh bộ gọi là bản Bảy Mươi. Kinh bộ này được phiên dịch từ tiếng Do-thái sang tiếng Hy-lạp vào khoảng 250 năm trước Chúa Giê-su. Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca, Gio-an và các tác giả Tân Ước khác đã dùng Kinh bộ này để trích dẫn hơn 300 lần khi họ viết Kinh Thánh Tân Ước. Cuối cùng, vào khoảng 100 năm sau Chúa Giê-su, khi xác định lại Kinh bộ của họ, người Do-thái đã đồng ý loại bỏ bảy sách kể trên. Hội Thánh Tin Lành thế kỷ 16 đã theo Kinh bộ này. Ngày nay, nhiều người Tin Lành cũng sử dụng Kinh bộ gồm cả bảy sách này, nhưng được sắp ở một phần riêng biệt.
Dù không thống nhất về Kinh bộ Cựu Ước, nhưng cả Công giáo lẫn Tin Lành đều nhận cùng một Kinh bộ Tân Ước.
Những sách Kinh Thánh khó xếp loại

Bài hát "Maria" trong phim "The Sound of Music" có một câu như sau: "Giữ sao được ánh trăng thanh, trong bàn tay nhỏ của anh suốt đời." Câu hát này diễn tả bản chất độc đáo của Maria, không thể xếp nàng vào loại người nào. Nhiều sách trong Kinh Thánh Do-thái cũng giống như trường hợp Maria vậy, không thể xếp vào loại nào được. Tìm cách để xếp loại những sách này chẳng khác gì tìm cách giữ ánh trăng trong lòng bàn tay. Nhưng để tạm có một cái nhìn tổng quát về Kinh Thánh, chúng ta cũng cố gắng xếp loại Kinh bộ Công giáo như sau:


KINH THÁNH DO THÁI (46 cuốn)
Ngũ thư: Những sách Khôn Ngoan:
Sáng Thế Gióp
Xuất Hành Thánh Vịnh
Lê-vi Châm Ngôn
Dân Số Giảng Viên
Đệ Nhị Luật Diễm Ca
Khôn Ngoan
Huấn Ca
Những sách Lịch sử:Những sách Ngôn sứ:
Gio-suêCác Đại Ngôn sứ:
Thủ Lãnh I-sai-a
1 & 2 Sa-mu-en Giê-rê-mi-a
1 & 2 Các Vua Ai Ca

1 & 2 Biên Niên SửBa-rúc


Ét-ra Ê-dê-ki-en
Nơ-khe-mi-aĐa-ni-en
1 & 2 Ma-ca-bê Các Tiểu Ngôn sứ:
Đặc biệt: Hô-sê Khác-gai
Rút A-mốt Da-ca-ri-a
Tô-bi-aMi-kha Ô-va-đi-a
Giu-đi-tha Na-khum Giô-en
Ét-te Kha-ba-cúc Giô-na
Xô-phô-ni-a Ma-la-khi


KINH THÁNH KI-TÔ (27 cuốn)
Tin Mừng (4)
Mát-thêu

Mác-cô


Lu-ca

Gio-an
Công Vụ Tông Đồ (1)


Thư (21)
Thánh Phao-lô:
Những thư đầu tiên: 1 & 2 Thê-xa-lô-ni-ca
Những thư viết trong tù: Phi-líp-phê, Cô-lô-xê, Ê-phê-xô, Phi-lê-môn
Những thư lớn: Ga-lát, 1&2 Cô-rin-tô, Rô-ma
Những thư về mục vụ: 1 & 2 Ti-mô-thê, Ti-tô
Những thư khác:
1, 2 & 3 Gio-an, 1 & 2 Phê-rô, Gia-cô-bê, Giu-đa
Đặc biệt:
Do-thái
Khải Huyền (1)
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH
1. Rô-ma 1:20-25 Lý trí dẫn tới Thiên Chúa
2. 2 Thê-xa-lô-ni-ca 2:13-17 Thánh Truyền
3. Ga-lát 1:6-9 Tin Mừng được rao giảng
4. Lu-ca 1:1-4 Tin Mừng được ghi chép lại
5. 2 Ti-mô-thê 3:14-4: Kinh Thánh được linh hứng


THẢO LUẬN

1. Có ba cách để chúng ta có thể đến với Chúa. Bạn hãy suy nghĩ và chia sẻ cách bạn đến với Chúa.


2. Bạn nghĩ gì về giá trị của Thánh Truyền nói chung? Và cách riêng đối với đời sống đức tin của bạn?
CHIA SẺ

1. "Bạn chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khi bạn quì gối xuống." (Maurice Zundel). Dựa trên kinh nghiệm của bạn, câu nói này có đúng không?


2. Giả thiết bạn có thể vượt thời gian trở về thời Chúa Giê-su để chứng kiến những biến cố đời Ngài, bạn sẽ chọn biến cố nào? Tại sao chọn biến cố ấy?

Bài 3
ĐẤNG TẠO DỰNG - CHÚA CHA

Trước khi đọc bài này, bạn hãy suy nghĩ và trả lời hai câu hỏi sau:


1. Một câu hỏi tôi muốn hỏi Chúa là...

2. Lý do tôi muốn dặt câu hỏi này là vì...


THIÊN CHÚA

Có một cuốn phim rất nổi tiếng là Laura. Phim nói về một thiếu nữ bị giết một cách mờ ám ngay tại nhà cô ta.


Một thám tử tên là Mark MacPherson được chỉ định điều tra vụ án này.Vài ngày sau, anh bỏ hằng giờ ở lại trong căn phòng của Laura, tìm kiếm chứng tích. Anh lục soát mọi vật trong nhà, ghi chép tỉ mỉ và rắc bụi đen đủ chỗ để lấy dấu tay. Anh nghiên cứu những vật dụng cá nhân của Laura, đọc cả thư từ lẫn nhật ký của cô ta. Không một viên gạch nào mà anh không lật lên.
Ít lâu sau, một điều bất thường xảy ra. Mark hoàn toàn bị ám ảnh do hình ảnh Laura. Anh bị cô ta thu hút. Anh thấy mình đang yêu một người đã chết.
Một đêm khuya đang lúc ngồi trong căn nhà Laura để suy tính mọi sự, ánh đèn mờ mờ và anh đã mệt, chẳng mấy chốc anh gục đầu ngủ thiếp đi.
Bỗng nhiên có cái gì đánh thức anh dậy. Anh mở mắt ra, và kìa, đứng trước cửa là một thiếu nữ trẻ đẹp. Anh không tin được chính mắt mình. Chính Laura!
Một câu truyện hứng thú đã được sáng tỏ. Laura đã về miền quê trong một dịp cuối tuần để tìm yên tĩnh suy tính công chuyện. Cô đã ở lại đó trọn cuối tuần, không nghe radio hoặc đọc báo chí. Cô không hay gì về tin tức cái chết của chính mình.
Thì ra người đàn bà bị giết là một người quen của Laura đã sử dụng căn nhà trong khi nàng đi vắng.
Cuốn phim kết thúc như thế nào chắc bạn đã đoán được. Laura và Mark bắt đầu hẹn hò, yêu nhau và kết hôn, chung sống hạnh phúc suốt đời.
Lý trí dẫn đến Thiên Chúa

Phim Laura là một thí dụ nói về Thiên Chúa và chúng ta. Tựa như người thám tử trẻ tuổi, chúng ta thấy chính mình đang ở trong "nhà" của Thiên Chúa là thế giới này.


Khi nghiên cứu về vũ trụ, chúng ta bắt đầu có ý niệm là Tạo Hóa phải như thế nào. Bầu trời xanh, núi non cao ngất, những bãi biển dài cát trắng, những hình ảnh rạng ngời của cây cỏ và muông thú... tất cả những sự vật này giúp chúng ta nhìn thấy sự vĩ đại và vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Cuối cùng, chúng ta cũng trở nên bận tâm với Đấng mà chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy hay gặp gỡ. Chúng ta trở nên bận tâm với Thiên Chúa. Còn Ngài, Ngài muốn câu truyện của chúng ta sẽ kết thúc như cuốn phim Laura. Thiên Chúa muốn chúng ta yêu mến Ngài, gặp Ngài mặt đối mặt, kết hiệp với Ngài và sống hạnh phúc đến muôn đời.
Nhưng lý trí chỉ có thể hiểu lờ mờ Thiên Chúa như thế nào thôi, chứ không thể họa rõ dung mạo về Ngài. Mortimer Adler, một trong những triết gia nổi tiếng thời chúng ta, nêu lên một điểm trong cuộc phỏng vấn thực hiện do Bill Moyers của đài truyền hình. Adler nói:
"Nếu lý trí giúp tôi biết mọi sự về Thiên Chúa, thì Ngài đâu cần phải mạc khải cho tôi biết... Lý trí tự nó không thể liên kết một hiện thể tối cao vô hạn với một hiện thể công chính, nhân từ, quan phòng, lo lắng, chăm sóc."
Khoảng cách biệt đó chỉ có thể được nối lại do sự mạc khải của Thiên Chúa về chính Ngài trong Kinh Thánh. Và như vậy, chúng ta hãy đến với Kinh Thánh để "vẽ một khuôn mặt của Thiên Chúa."
Kinh Thánh vẽ dung mạo Thiên Chúa

Một trong những điều trước tiên đánh động chúng ta khi đọc Kinh Thánh là những hình ảnh muôn vẻ được sử dụng để mô tả Thiên Chúa. Hãy thử xem một vài hình ảnh đó.


Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng. Ngài "sắp đặt trái đất từ khi được dựng nên" và trang hoàng cho nó bằng sông ngòi, núi non và thung lũng (Tv 104:5-8).
Thiên Chúa là Vua uy quyền. Trước nhan thánh Ngài, muôn nước khắp trái đất khiếp run (Tv 24:10).
Thiên Chúa là Thẩm Phán nhìn thấu suốt mọi sự. Ngài không nhìn những gì biểu lộ bên ngoài, nhưng thấy những gì ẩn giấu trong tim (1 Sm 16:7).
Thiên Chúa là Người Thợ Gốm. Ngài nắn đúc chúng ta bằng chính tay Ngài (Is 64:7).
Thiên Chúa là Người Chăn Chiên. Ngài tìm kiếm chúng ta khi chúng ta lạc lối, băng bó khi chúng ta bị thương và bồi dưỡng khi chúng ta yếu đau (Ed 34:16).
Thiên Chúa là Gia Chủ lịch thiệp. Ngài dọn bàn cho chúng ta, xức dầu thơm cho chúng ta và dọn mâm cỗ trước mặt chúng ta (Tv 23:5).
Thiên Chúa là gà mẹ. Ngài ấp ủ chúng ta dưới bóng cánh Ngài và trấn an chúng ta khi cô đơn hay lo sợ (Tv 36:8).
Thiên Chúa là người Cha. Ngài dạy chúng ta biết đi, bồng chúng ta dậy khi chúng ta té ngã và áp chúng ta vào má Ngài (Hs 11:1-4).
Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện. Trước nhan Ngài, các quản thần che mặt và kêu lên "Thánh, Thánh, Thánh!" (Is 6:3).
Như thế, Kinh Thánh dùng rất nhiều hình ảnh để mô tả Thiên Chúa.
Hãy xét kỹ hơn về hai hình ảnh: Đấng Tạo Dựng và Cha.
THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG TẠO DỰNG
Bốn ngày trước Giáng Sinh 1968, phi thuyền Apollo 8 được phóng lên từ Cape Kennedy. Phi hành đoàn gồm có Frank Borman, Bill Anders và Jim Lovell. Ba ngày sau, vào đêm Giáng Sinh, Apollo 8 hoàn toàn mất liên lạc với mặt đất khi khuất sau mặt trăng. Hàng triệu người dán mắt vào máy truyền hình, chờ đợi và cầu nguyện cho phi thuyền trở về bình yên.
Khi ấy xảy ra một quang cảnh ngoạn mục. Phi thuyền Apollo 8 xoay quanh mặt trăng và hiện thấy rõ. Phi hành đoàn đang thay nhau đọc lại câu truyện tạo dựng trái đất như được mô tả trong sách Sáng Thế.
Thiên Chúa tạo dựng muôn loài
Câu truyện mô tả Thiên Chúa tạo dựng muôn loài: mặt trời, mặt trăng, tinh tú, trái đất, chim, cá và muông thú.
Câu truyện còn mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng muôn loài một cách trật tự trong thời gian sáu ngày, như một người thủ công làm việc. Chủ đích của hình ảnh tuyệt diệu này là để dạy chúng ta rằng việc tạo dựng không xảy ra do ngẫu nhiên, nhưng được thực hiện do hành động yêu thương của một Thiên Chúa đầy yêu thương.
Cuối cùng, sách Sáng Thế kể lại Thiên Chúa tạo dựng con người theo "hình ảnh" Ngài (St 1:27) và Ngài thở hơi vào con người "hơi thở của sự sống" (St 2:27). Thiên Chúa chia sẻ với loài người một phần mật thiết của chính Ngài.
Câu truyện Kinh Thánh về việc tạo dựng cho thấy một điều không thể tin được. Những tôn giáo cổ xưa khác nhấn mạnh đến sự xa cách giữa các thần linh và loài người. Còn câu truyện Kinh Thánh lại nhấn mạnh đến sự gần gũi. Thiên Chúa gần gũi với loài người hơn một người mẹ với con mình. Điều này giải thích tại sao Thiên Chúa nói qua ngôn sứ I-sai-a:
"Mẹ nào lại quên con đẻ của mình,

Cạn lòng thương đối với con dạ nó mang?

Cho dù chúng quên được nữa,

Thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi!

Này Ta đã khắc tên ngươi trên bàn tay Ta."

(Is 49:15-16)
Đây là một tình yêu dành cho nhân loại đã khiến tác giả Thánh Vịnh nhìn lên bầu trời đêm khuya mà thưa với Chúa rằng:
"Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,

Muôn trăng sao Chúa đã an bài;

Thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,

Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?

Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,

Ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên."

(Tv 8:4-6)
Và như vậy Kinh Thánh mô tả lúc Thiên Chúa tạo dựng muôn loài, thì cao điểm tạo dựng là loài người. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta theo chính hình ảnh Ngài. Nhưng ngoài việc tạo dựng muôn loài ra, Ngài còn làm hơn thế nữa: Ngài tiếp tục ở lại trong tạo vật, giữ cho chúng được tồn tại. Chúng ta hãy thử xét kỹ hơn về sự kiện huyền diệu này.
Thiên Chúa ở trong muôn loài
Một người con có thể hiện diện bên cạnh người mẹ đau ốm trong bệnh viện bằng nhiều cách: một tấm hình trên bàn, một lá thư trong tay bà, hay chính người con ngồi bên giường bà. Nói cách khác, người con ấy có thể hiện diện bằng nhiều phương thức và mức độ khác nhau.
Thiên Chúa cũng hiện diện trong thế giới chúng ta qua những đường lối tương tự. Thí dụ, Thiên Chúa ở trong những vì sao mà Ngài đã tạo nên, trong con người mang hình ảnh Ngài, trong Kinh Thánh là Lời của Ngài, và trong cộng đồng Hội Thánh là Nhiệm Thể của Con Một Ngài (Ep 1:22-23).
Giữa tất cả những đường lối Thiên Chúa hiện diện trong thế giới chúng ta, một khía cạnh chúng ta thường hay quên lãng, đó là Ngài hiện diện ngay trong tạo vật. Những ai nhận ra được sự hiện diện này đều cảm nghiệm được sức mạnh vô biên từ đó. Thí dụ thuyền trưởng Eddie Rickenbacker và đoàn thủy thủ của ông bị đắm tàu trên Thái Bình dương. Suốt 21 ngày lênh đênh trên những chiếc phao cao-su, ngày nào họ cũng cầu nguyện bằng Kinh Thánh. Sau này họ kể rằng một trong những đoạn có ý nghĩa nhất chính là Thánh Vịnh 139, đã trấn an họ rằng Thiên Chúa ở cùng họ.
"Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,

Lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?

Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,

Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.

Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện,

Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây,

Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn,

Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con."

(Tv 139:7-10)
Trong màn đêm trăng sao, những người đàn ông trên những chiếc phao cấp cứu đã cảm nhận sâu xa sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi sự Ngài tạo dựng.
Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tạo vật có thể so sánh với một cái máy chiếu phim rọi lại hình ảnh trên một tấm màn. Sự hiện hữu của hình ảnh là do ánh đèn từ cái máy chiếu tạo nên và giữ cho nó hiện hữu. Hình ảnh chỉ có thể tồn tại bao lâu cái máy chiếu cứ tiếp tục giữ nó ở đó.
Sự tạo dựng cũng vậy. Thiên Chúa ban cho tạo vật sự hiện hữu và giữ nó hiện hữu. Nếu Thiên Chúa chấm dứt sự hiện hữu của nó bằng cách tách nó ra khỏi sự hiện hữu của Ngài, thì hỗn độn và bóng tối sẽ bao phủ chúng ta ngay.
Và như thế, hình ảnh Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng cho thấy Thiên Chúa:
* đã tạo dựng chúng ta vì yêu thương

* chia sẻ với chúng ta một phần mật thiết của chính Ngài

* gần gũi với chúng ta hơn một người mẹ với con mình, và

* giữ gìn sự tồn tại của chúng ta trong mọi ngày.


THIÊN CHÚA LÀ CHA CHÚNG TA

Nhiều năm trước, Lois Olson mắc bệnh tê liệt lúc lên 10 tuổi. Phần thân phía dưới của em phải bó trong một khung sắt. Một đêm giông bão kéo đến. Cảm giác hoàn toàn bất lực tràn ngập em. Ngay khi ấy cha em xuất hiện trước cửa và bồng em bước xuống những bậc thang xuống hầm. Trong lúc ông ráng đỡ sức nặng của em, Lois nhìn thấy mồ hôi lấm tấm trên trán ông và những gân máu nổi lên hai bên thái dương.


Thiên Chúa giống như thế. Ngài là một người Cha nhân từ.
Đức Giê-su dùng hình ảnh người Cha tới 177 lần để mô tả Thiên Chúa. Đúng ra, lời đầu tiên cho đến cuối cùng trong sách Tin Mừng Lu-ca nói đến Thiên Chúa là Cha. Lúc Đức Giê-su 12 tuổi, Ngài nói với cha mẹ: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (Lc 2:49).
Tiếng Cha mà Đức Giê-su dùng là Abba. Trẻ em Pha-lét-tin vẫn còn dùng tiếng này để gọi cha của chúng. Nguyên văn có nghĩa là "bố" hoặc "ba". Như vậy Đức Giê-su dạy chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa như một đứa trẻ đối với cha mình.
Nhưng Thiên Chúa khác những người cha thông thường rất nhiều. Thiên Chúa không có giới hạn như những người cha thông thường.
Thiên Chúa hết lòng yêu thương

Thánh Au-gút-tin nói: "Một người bạn là một người biết mọi sự về chúng ta mà vẫn chấp nhận chúng ta như chúng ta là chúng ta." Tìm một người như thế chẳng khác đi tìm người trong mộng. Nhưng Thiên Chúa là một người như vậy. Ngài có thể thỏa mãn giấc mơ này hơn cả mức độ chúng ta mong đợi.


Thiên Chúa là Cha, nhưng một cách hoàn toàn khác với những người cha phàm trần. Thiên Chúa hết lòng yêu thương. Peter van Breemen giải thích sự khác biệt này trong cuốn As Bread That Is Broken của ông:
"Chúng ta bị phân chia trong tình yêu. Chúng ta thích một người thật nhiều (90%), hoặc vừa vừa (50%), hoặc rất ít (20%). Nhưng nơi Thiên Chúa tình yêu không đo lường được. Thiên Chúa chỉ có thể yêu hoàn toàn - 100%. Nếu chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa phân chia tình yêu của Ngài, thì không phải là chúng ta đang nghĩ về Thiên Chúa mà là về chính chúng ta... Chúng ta có tình yêu, còn Thiên Chúa là tình yêu."
Ý là thế này: Thiên Chúa là Cha yêu thương với tình yêu vô điều kiện. Ngài yêu chúng ta vô hạn hơn chính chúng ta yêu mình. Thiên Chúa yêu chúng ta đến độ chúng ta không thể nắm được "chiều cao" và "chiều sâu" tuyệt diệu của tình yêu Ngài (Rm 8:39).

Nhưng hơn thế nữa, Thiên Chúa khác một người cha phàm trần trong nhiều cách.


Thiên Chúa hết lòng tha thứ

Có người nói rằng: Khi chúng ta ăn năn hối lỗi mình, thì Thiên Chúa ném tội lỗi chúng ta xuống chỗ sâu nhất ngoài biển cả. Rồi Ngài cắm tấm bảng "Cấm câu cá!" Đó là cách nói rất ý nhị rằng Thiên Chúa hết lòng tha thứ.


Đức Giê-su lập đi lập lại nhiều lần rằng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ. Thử suy gẫm một vài thí dụ:
Đức Giê-su bảo Phê-rô phải tha thứ cho tha nhân như Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta. Không phải bảy lần, nhưng "bảy mươi lần bảy" (Mt 18:22).
Trong kinh Lạy Cha, Đức Giê-su dạy chúng ta phải tin tưởng tìm kiếm ơn tha thứ của Thiên Chúa tựa như trẻ nhỏ tìm kiếm một người cha thương yêu (Mt 6:12).
Sau cùng, trong dụ ngôn Đứa con hoang đàng, Đức Giê-su mô tả Thiên Chúa không chỉ tha thứ, mà Người còn hành động với những vòng tay và nụ hôn âu yếm (Lc 15:20).
Đức Giê-su không chỉ nói về tha thứ, nhưng Ngài còn thực thi điều ấy. Chúng ta thử suy nghĩ về một vài thí dụ.
Đức Giê-su tha tội cho người đàn ông tê liệt (Lc 5:20). Ngài tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình (Ga 8:11). Ngài tha thứ cho người trộm lành (Lc 23:43). Ngài tha thứ cho những kẻ xử hình Ngài (Lc 23:34).
Sách Tin Mừng đầy những thí dụ về sự tha thứ của Thiên Chúa. Theo lời của Dag Hammarskjold, ơn tha thứ của Thiên Chúa là "một phép lạ làm cho những gì đổ vỡ được lành lặn" và "những gì nhơ bẩn lại được trong sạch."

Hình ảnh Thiên Chúa như người Cha trong Kinh Thánh cho thấy những sự thật rất cảm động:


* Thiên Chúa hết lòng yêu thương, yêu thương chúng ta hơn chính chúng ta yêu mình.
* Thiên Chúa hết lòng tha thứ, luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta hơn chúng ta tha thứ cho chính mình.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Thánh Vịnh 23 Chúa Chiên Lành

2. I-sai-a 40:12-31 Thiên Chúa lịch sử

3. I-sai-a 43:1-7 Chúa biết tên tôi

4. Thánh Vịnh 139:1-16 Không nơi ẩn giấu

5. Gio-an 8:1-11 Viết trên mặt đất.


THẢO LUẬN
1. Gợi lại mấy hình ảnh bạn đã gặp trong Kinh Thánh nói về Thiên Chúa.

2. Tác giả Kinh Thánh có ý gì khi mô tả Thiên Chúa:

- tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày, và

- thở "hơi thở của sự sống" vào con người?

3. Thiên Chúa trong Kinh Thánh khác những thần linh của các tôn giáo cổ xưa như thế nào?

4. Bạn cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện bên cạnh bạn bằng những cách nào?


CHIA SẺ

1. Thảo luận một vài tư tưởng sau đây:


- “Tôi đã lên trời và đã gặp Thiên Chúa. Ối chao, bạn biết không? Bà ấy dân da đen!" (đọc được trên một bức tường tại Nữu Ước)
- “Thiên Chúa là Vũ công, tạo vật của Ngài là Vũ điệu... Khi Vũ công dừng lại thì Vũ điệu cũng chấm dứt." (Anthony de Mello)
- “Thiên Chúa là Vũ công, tạo vật của Ngài là Vũ điệu... Hãy yên lặng mà coi Vũ điệu. Cứ nhìn đi: một vì sao, một bông hoa, một chiếc lá vàng rơi... Và hy vọng chẳng mấy chốc nữa bạn sẽ thấy Ngài là Vũ công." (Antholy de Mello)
2. Ngoài hình ảnh Thiên Chúa là Cha và Đấng Tạo Dựng, bạn còn thấy hình ảnh nào trong Kinh Thánh về Thiên Chúa làm bạn thích thú không?
-----------------------------------------


Bài 4
ĐẤNG CỨU CHUỘC - CHÚA CON

Trước khi đọc bài này, bạn hãy suy nghĩ và trả lời tiếp hai câu hỏi sau:


1. Có một điều tôi nhận thấy Đức Giê-su đặc biệt lôi cuốn, đó là...
2. Điều làm tôi dễ nhận biết Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, đó là...
GIÊ-SU

Ít năm trước đây, báo Reader's Digest có nhờ sử gia H. G. Wells lựa ra sáu nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhân loại. Mặc dù Wells không phải là Ki-tô hữu, ông vẫn chọn Đức Giê-su đứng hàng đầu. Sự lựa chọn này của ông không căn cứ vào số đông người tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, nhưng đúng hơn, như Wells giải thích thế này:


"Một sử gia phải coi Đức Giê-su là một con người, tựa như một họa sĩ phải vẽ Ngài như một người bình thường... Sử gia đó phải sẵn sàng nói lên một sự thật hiển nhiên không thể thay đổi, cho dù sách của ông ta được người ta đọc ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Đó mới là chỗ đứng của người viết sử qua những tư tưởng thâm sâu họ trình bày."
Vậy Wells đã có những tư tưởng nào? Ông ta đã đề ra hai tư tưởng tiêu biểu:
Tư tưởng thứ nhất về đặc tính là Cha của Thiên Chúa. Điểm này dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ này đang chăm lo cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Ngài ban sự sống cho chúng ta và chúng ta là con cái Ngài. Điều này có nghĩa tất cảø chúng ta đều là anh chị em. Wells nói nếu chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su, thì chúng ta và cả thế giới sẽ thay đổi không thể tưởng tượng nổi.
Tư tưởng thứ hai là lời dạy của Đức Giê-su về nước Thiên Chúa. Nếu như nhân loại có cùng một nguồn gốc, thì họ cũng có cùng một thân phận. Lịch sử có hướng đi, đang tiến về một nơi nào đó. Thiên Chúa có kế hoạch riêng biệt cho nhân loại. Không ai sẽ bị loại ra ngoài kế hoạch đó. Mỗi người là một phần của kế hoạch đó và mỗi người đều tiếp tay với kế hoạch đó. Một lần nữa, nếu chúng ta thực thi lời dạy của Đức Giê-su, bộ mặt của trái đất sẽ thay đổi.
Như vậy, Đức Giê-su hiện diện trong lịch sử nhân loại như một người vô song. Sứ điệp của Ngài không những hợp thời trong những ngày đầu cuộc đời rao giảng của Ngài mà vẫn còn hợp thời cho ngày hôm nay.
Những điều nói trên đưa chúng ta đến một câu hỏi quan trọng nhất cần nêu lên và tìm câu trả lời:
Đức Giê-su là ai?
Tại một khu đậu xe ở Dallas, có một chủng sinh lái xe vào đậu trong đó. Đằng sau xe có hàng chữ ICHTHYS xếp thành hình con cá. Một bà hỏi anh chữ đó nghĩa là gì. Anh chủng sinh trả lời đó là chữ Hy-lạp, viết tắt do những chữ Iesous Christos, Theou Yios, Soter ("Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế"). Từ ngữ này gồm tóm hai chân lý quan trọng nhất mà các Ki-tô hữu thời Hội Thánh sơ khai hằng tin tưởng:
* Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.

* Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế.


Vì những chữ tắt làm thành từ Hy-lạp có nghĩa là cá, nên những tín hữu đầu tiên đã chọn hình con cá như một biểu tượng về Đức Giê-su.
CON THIÊN CHÚA

Vào tối Chúa Nhật Phục Sinh, Đức Giê-su đã hiện ra với các Tông đồ. Ông Tô-ma vắng mặt trong buổi gặp gỡ đó. Kết quả là Tô-ma đã phủ nhận việc Đức Giê-su đã sống lại và hiện ra.


Một tuần sau, Đức Giê-su lại hiện ra cùng các Tông đồ. Thấy Tô-ma có mặt, Đức Giê-su quay về phía ông và nói: “Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Lập tức Tô-ma quỳ sụp xuống và nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20:27-28).
Đức Giê-su là Chúa

Kể từ giây phút đó cho đến nay, từ ngữ Chúa trở thành một danh hiệu dành riêng để gọi Đức Giê-su. Trong bài giảng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Phê-rô nói về Đức Giê-su như sau: “Thiên Chúa đã đặt Người (Đức Giê-su) làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô" (Cv 2:36). Thánh Phao-lô viết cho tín hữu Rô-ma: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ" (Rm 10:9).

Cho nên một trong những danh hiệu mà các tín hữu đầu tiên xưng tụng Đức Giê-su, đó là danh hiệu Chúa. Điều ấy chứng tỏ họ tin tưởng Đức Giê-su là Thiên Chúa.
Danh hiệu thứ hai họ gọi Đức Giê-su để biểu lộ đức tin vào thiên tính của Ngài, đó là danh hiệu Con Thiên Chúa.
Đức Giê-su là Chúa Con

Các tác giả Kinh Thánh Cựu Ước đã dùng từ ngữ con Thiên Chúa để chỉ về những vị ở trên trời (G 2:1), về các vua Do-thái (2 Sm 7:14) hoặc về chính dân Ít-ra-en (Hs 11:1).


Các tác giả Kinh Thánh Tân Ước dùng danh hiệu này cho Đức Giê-su. Thí dụ, Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng câu: "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa." Để kết thúc sách Tin Mừng, Mác-cô ghi lại việc viên đội trưởng Rô-ma sau khi chứng kiến cuộc tử hình của Đức Giê-su đã phải thốt lên: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15:39).
Học hỏi kỹ những sách Tin Mừng, chúng ta thấy các tác giả dùng danh hiệu Con Thiên Chúa với ý nghĩa khác hẳn các tác giả Cựu Ước. Danh hiệu Con Thiên Chúa được dùng để gọi Đức Giê-su hiểu theo nghĩa rõ ràng chứ không phải theo nghĩa ám chỉ như thời Cựu Ước.
Đức Giê-su là Ngôi Lời
Sách Tin Mừng Gio-an mở đầu với lời tựa giới thiệu Ngôi Lời:

"Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.

Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,

và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm

và cư ngụ giữa chúng ta.

Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người."

(Ga 1:1,14)

Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác con người và sống giữa chúng ta. Ngôi Lời chào đón, mời gọi, thông đạt và mạc khải. Điều này cho chúng ta thấy một điểm rất quan trọng: Ngài mạc khải không những qua những gì Ngài nói, mà còn qua những gì Ngài thể hiện.
Charles Schulz, tác giả hoạt họa Peanuts đã nói: “Điều tôi nhận thấy Đức Giê-su có ý nghĩa với tôi, đó là qua Ngài chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa và hiểu được những cảm nghĩ của Thiên Chúa về chúng ta."
Thư gửi tín hữu Do-thái nói về Đức Giê-su như sau: “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa" (Dt 1:3). Chính Đức Giê-su cũng nói: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha" (Ga 14:9).
Đối với một người có đức tin, Đức Giê-su quả là vô song trong lịch sử nhân loại, vì Ngài đã làm cho Thiên Chúa hiện diện trong thân xác con người. Qua Đức Giê-su, chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa trở nên con người như chúng ta, sống giữa chúng ta, sống động đến độ như chúng ta có thể sờ được Ngài và nhìn thấy Ngài, đúng như Gio-an đã viết:
"Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,

điều chúng tôi đã nghe,

điều chúng tôi đã thấy tận mắt,

điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,

và tay chúng tôi đã chạm đến,

đó là Lời sự sống.

Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày,

chúng tôi đã thấy và làm chứng...

để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi,

mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha
và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.

Những điều này, chúng tôi viết ra

để niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn." (Ga 1:1-4)

Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa vì Ngài mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta.


Tuy nhiên, Ngài còn làm cho chúng ta nhận thức được chính chúng ta một cách rõ ràng hơn. Ngài là hình ảnh toàn hảo của một con người mà mỗi người chúng ta phải cố gắng đạt tới. Qua Ngài, chúng ta thấy rằng với bản năng của một con người, chúng ta có thể vượt thắng nọi khó khăn để trở nên hoàn hảo. Nhân tính của Đức Giê-su đã chứng minh điều đó. Tất cả những gì Ngài đã làm, chúng ta đều có thể làm được, chẳng hạn như yêu thương kẻ thù, tha thứ cho kẻ bách hại ta, làm bạn với kẻ bị ruồng bỏ, và có khả năng thay đổi người khác bằng ánh mắt hay lời nói.
Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa theo hai ý nghĩa. Qua bản tính Thiên Chúa, Ngài hé mở cho chúng ta hiểu được Thiên Chúa. Qua bản tính loài người, Ngài thể hiện mức độ hoàn hảo của con người mà chúng ta đều có thể trở thành - nếu chúng ta mở lòng đón nhận lời giảng và Thánh Thần của Ngài trong cuộc sống mỗi ngày.
Đức Giê-su là vô song
Đức Giê-su được gọi là "vô song" trong lịch sử nhân loại vì một sự kiện thật đơn giản: Ngài không những là "con người" vì sinh ra do một người nữ, nhưng còn là Con Thiên Chúa vì được sinh ra bởi Thiên Chúa. Trong một ngôi vị duy nhất, Đức Giê-su mang hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại. Ngài liên kết tất cả những gì là con người với tất cả những gì là Thiên Chúa.
Để cố gắng diễn tả sự huyền nhiệm này, thi sĩ Richard Crashaw đã nói về Đức Giê-su:
Muôn lạ lùng tụ về trong một vẻ uy nghi

Là vĩnh cửu giam mình trong hạn hữu!

Chúa là mùa hạ giữa mùa đông lạnh lẽo

Là ngày bừng sáng trong đêm tối âm u

Là thiên đàng nơi trần gian tội lỗi sa mù

Là Thiên Chúa trong con người dương thế."

Như vậy, để tuyên xưng đức tin vào thiên tính của Chúa Ki-tô, các tín hữu đầu tiên đã gọi Đức Giê-su bằng những danh hiệu:


* Chúa

* Con Thiên Chúa

* Lời Thiên Chúa.
ĐẤNG CỨU CHUỘC NHÂN LOẠI

Ngoài việc tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, các tín hữu sơ khai còn tin Ngài là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Họ đã tuyên xưng niềm tin này khi gọi Ngài bằng:


* tên Giê-su

* danh hiệu Ki-tô

* danh hiệu Đấng Cứu Thế.
Chúng ta cùng tìm hiểu kỹ hơn về những tên và danh hiệu này.
Giê-su nghĩa là "Thiên Chúa cứu rỗi"

Trong Kinh Thánh, tên gọi thường liên hệ với lai lịch của một người.


Sự kiện đầu tiên nói về lai lịch của Đức Giê-su đó là tên gọi mà thiên sứ bảo ông Giu-se phải đặt cho Ngài: “Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ" (Mt 1:21). Như vậy thiên sứ đã cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Điều này đưa chúng ta tới danh hiệu Ki-tô.
Ki-tô nghĩa là "Đấng được xức dầu"

Một thời điểm quan trong nhất trong toàn bộ Tin Mừng đó là biến cố tại Xê-da-rê Phi-líp-phê khi Đức Giê-su hỏi Phê-rô "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" và Phê-rô trả lời "Thầy là Đấng Ki-tô" (Mc 8:29). Từ ngữ Mê-si-a là tiếng Do-thái, dịch sang tiếng Hy-lạp là Christos, nghĩa là Đấng được xức dầu.


Từ ngữ này dùng để chỉ về một người được Thiên Chúa tuyển chọn và giao phó cho một sứ mệnh. Lần đầu tiên Đức Giê-su nói về chính Ngài là Đấng được xức dầu là khi Ngài ở trong hội đường Na-da-rét. Ngài đọc đoạn Kinh Thánh trích sách ngôn sứ I-sai-a:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi,

vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,

để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.

Người đã sai tôi đi công bố

cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,

cho người mù biết họ được sáng mắt,

trả lại tự do cho người bị áp bức,

công bố một năm hồng ân của Chúa."

(Lc 4:18-19)


Rồi Đức Giê-su đã thốt lên những lời đáng nhớ sau đây: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe" (Lc 4:21). Đức Giê-su đã coi mình như người được Thiên Chúa trao cho sứ vụ "cứu chuộc" đặc biệt.
Việc Đức Giê-su được "xức dầu" đã xảy ra trong dịp Ngài chịu phép rửa, khi ấy tầng trời mở ra, rồi Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3:22). Sau này, khi nói với dân chúng về biến cố ấy, ông Phê-rô giảng rằng: “Quý vị biết rõ... Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:36-38).
Danh hiệu Mê-si-a chỉ về Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa hứa ban cho nhân loại để thi hành sứ vụ cứu chuộc họ.
Đức Giê-su được gọi là Đấng Cứu Thế

Ngày nọ Đức Giê-su gặp một phụ nữ cạnh bờ giếng bên ngoài một ngôi làng. Ngài đã làm cho bà hết sức ngạc nhiên đến nỗi bà chạy về làng và nói với dân làng: “Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?" (Ga 4:29). Họ kéo đến và xin Ngài dạy dỗ họ. Sau khi nghe giảng xong, dân làng nói với nhau: “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian" (Ga 4:42).


Đức Giê-su đã chinh phục nhiều người khác cũng một phương thức như vậy. Thí dụ sau khi Đức Giê-su trở về với Chúa Cha, thánh Gio-an viết cho các Ki-tô hữu sơ khai như sau: “Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa... Đó là Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian" (1 Ga 1:3, 4:14).
Từ ngữ Đấng Cứu Thế mang ý nghĩa dưới hai khía cạnh: Đức Giê-su cứu thoát chúng ta khỏi điều gì và để làm gì.
Để hiểu rõ hơn về khía cạnh thứ nhất, bạn hãy nhớ lại sau khi được Thiên Chúa dựng nên, ông A-đam đã phạm tội. Lập tức tội lỗi bắt đầu lan tràn khắp thế gian. Thảm cảnh này đã được mô tả trong sách Sáng-thế. Sự kiện trên đưa chúng ta đến một kết luận khủng khiếp: tội lỗi đã bao trùm nhân loại đến độ đem lại sự chết. Nhân loại sẽ đi đến hủy diệt nếu Thiên Chúa không can thiệp để cứu vớt họ. Chính trong bối cảnh tội lỗi hủy diệt công cuộc tạo dựng mà chúng ta thấy rõ Đức Giê-su cứu thoát chúng ta khỏi điều gì. Ngài cứu chúng ta khỏi họa bị hủy diệt. Ngài cứu chúng ta khỏi sự chết. Thánh Phao-lô diễn tả sứ mệnh của Đức Giê-su như sau:
"Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết... Cho nên, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống." (Rm 5:12,18)
Đức Giê-su được gọi là Đấng Cứu Thế vì Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Được rửa tội trong Đức Ki-tô, chúng ta trở nên chi thể của Nhiệm Thể Ngài và được ban sự sống mới trong Ngài. Điều này đưa chúng ta sang khía cạnh thứ hai của sứ mệnh cứu chuộc của Đức Giê-su: Ngài đã cứu chuộc chúng ta để làm gì?
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta được củng cố để tiếp tục công cuộc cứu chuộc mà Đức Giê-su đã khởi sự. Chúng ta đã được cứu khỏi tội lỗi để làm công việc tái tạo trần gian mà tội lỗi đã phá hủy. Chúng ta được cứu chuộc để làm công việc hoàn tất triều đại của Thiên Chúa. Những ai nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế thì đều trở nên một phần tử trong công cuộc làm thay đổi trần gian. Trách nhiệm của chúng ta lúc này là hãy đem Nước Chúa đến cho mọi người.
Như vậy, những Ki-tô hữu đầu tiên đã tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế khi gọi Ngài bằng tên Giê-su và bằng các danh hiệu Ki-tô và Đấng Cứu Thế.
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

1. Gio-an 20:24-31 Đừng nghi ngờ nữa!


2. Gio-an 4:1-41 Phải chăng Ngài là Đấng Ki-tô?
3. Phi-líp-phê 2:1-11 Hãy nên giống như Ngài!
4. 1 Gio-an 4:7-14 Chúa Con - Đấng Cứu Thế
5. Rô-ma 8:31-39 Tình yêu của Thiên Chúa qua Đức Giê-su.
THẢO LUẬN

1. Theo hai ý nghĩa nào để hiểu Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa?


2. Suy nghĩ về tương quan giữa những từ ngữ Mê-si-a, Ki-tô và Đấng được xức dầu.
3. Đức Giê-su đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi để chúng ta cùng với Ngài tái tạo thế giới. Vậy vai trò của chúng ta trong công cuộc này như thế nào?
CHIA SẺ

1. Thảo luận tư tưởng sau: “Ngay lúc này nếu Chúa Giê-su đến, người ta đâu cần đóng đinh Ngài. Người ta sẽ mời Ngài đi ăn tối, lắng nghe xem Ngài giảng điều gì, rồi sẽ diễu cợt những lời giảng dạy ấy" (Thomas Carlyle). Bạn có đồng ý không?


2. Nếu hôm nay Chúa Giê-su đến, Ngài sẽ chọn 12 tông đồ từ những nhóm nào: doanh thương, công nhân, thể tháo gia nhà nghề, sinh viên, ca sĩ...?
3. Văn hào Mark Twain viết: “Nếu hôm nay Chúa Giê-su đến, có một điều chắc Ngài sẽ không làm: đó là làm một Ki-tô hữu." Bạn nghĩ sao?
4. Khi nghi ngờ như thánh Tô-ma, bạn sẽ làm gì?
----------------------------------

Bài 5

ĐẤNG THÁNH HÓA -

THÁNH THẦN

Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:

1. Bây giờ trong đời tôi, Chúa Thánh Thần là...
2. Một điều về Chúa Thánh Thần làm cho tôi thắc mắc, là...
THIÊN CHÚA LÀ BA NGÔI
Công viên Hyde ở Luân-đôn là nơi cho những diễn giả đến để nói lên ý kiến của mình. Trưa mỗi Chúa Nhật bạn có thể tới đó để nghe diễn thuyết, từ chính trị cho tới tôn giáo.
Ông Frank Sheed, một cây bút nổi tiếng của Anh-quốc, thường đến đó để nói về tôn giáo. Ông nói ông có thể giữ thính giả lại hai tiếng đồng hồ trong mưa gió để nói về Chúa Ba Ngôi. Sheed nhận thấy dân chúng rất thích nghe về Thiên Chúa Ba Ngôi. Họ muốn học hỏi về Thiên Chúa Ba Ngôi. Họ muốn làm mầu nhiệm này trở nên sống động trong cuộc sống hằng ngày.
Một cách đơn giản, mầu nhiệm Ba Ngôi được hiểu là trong Chúa có ba ngôi vị riêng biệt: Cha, Con và Thánh Thần. Cha là Thiên Chúa, Con là Thiên Chúa và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa. Tuy nhiên chỉ có một Thiên Chúa duy nhất.
Thiên nhiên phản ảnh Chúa Ba Ngôi

Thánh Patrick lấy thí dụ lá chụm ba để giúp Ki-tô hữu xưa kia có một ý niệm về Chúa Ba Ngôi. Trong lá chụm ba có ba lá nhỏ ghép lại thành một lá. Thánh I-Nhã Loyola dùng ví dụ Chúa Ba Ngôi như ba nốt nhạc rung cùng một lúc. Ba nốt, nhưng chỉ có một âm. Một nhà thần học thời nay dùng nước làm ví dụ: nước có thể ở thể hơi, thể đặc (đông đá) hoặc thể lỏng. Nhưng về cấu chất, cả ba cùng như nhau.


Đó là những so sánh lờ mờ, nhưng cũng có thể giúp chúng ta hiểu hơn về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Kinh Thánh mạc khải về Chúa Ba Ngôi

Trích dẫn Kinh Thánh quen thuộc nhất về Chúa Ba Ngôi gặp thấy ở cuối sách Tin Mừng Mát-thêu. Trước khi về trời, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28:19).


Trích dẫn mô tả mầu nhiệm Ba Ngôi một cách sống động nhất, đó là khi Đức Giê-su chịu phép rửa. Ở cuối biến cố đáng nhớ này, "Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha" (Lc 3:22). Tiếng nói, chim bồ câu và Đức Giê-su, cả ba hình ảnh này tạo nên một hình ảnh về Chúa Ba Ngôi.
Thánh Lu-ca cũng trình bày lịch sử trong viễn tượng Chúa Ba Ngôi. Qua cách trình bày sách Tin Mừng và Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca muốn nói lên tư tưởng sau: thời Cựu Ước là thời đại của Chúa Cha, Tân Ước là của Chúa Con và sau Tân Ước (từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống) là của Chúa Thánh Thần.
Trích dẫn về Chúa Ba Ngôi thường gặp nhất, đó là trong Tin Mừng Gio-an là sách ghi lại Chúa Giê-su nói rất nhiều về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Thí dụ Đức Giê-su nói: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy" (Ga 15:26).
Và như thế, ý niệm Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần được phản ảnh qua thiên nhiên và được mạc khải qua Kinh Thánh. Những trích dẫn về Chúa Ba Ngôi gặp trong những sách Tin Mừng Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và Gio-an.
THIÊN CHÚA LÀ THẦN LINH
Trong sách Meditations, cha Anthony Bloom kể lại rằng: Có một lần một người Nhật-bản nói với tôi: “Trong Ki-tô giáo, tôi nghĩ là tôi hiểu được Chúa Cha và Chúa con, nhưng chẳng bao giờ tôi khám phá được ý nghĩa của hình chim câu đáng kính kia."
Không phải chỉ một mình người Nhật-bản ấy, mà nhiều Ki-tô hữu cũng thấy khó mà hiểu được ý nghĩa về Thánh Thần.
Khi nghĩ về Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ tới lúc Chúa Thánh Thần hiện xuống với các môn đệ. Tuy nhiên, theo một ý nghĩa nào đó, cũng không nên nói "Thánh Thần hiện đến," vì như thế có thể hiểu lầm là trước khi hiện xuống với các môn đệ, Thánh Thần đã không hiện hữu. Không phải vậy. Nhưng Chúa Thánh Thần đã có từ muôn thuở như Chúa Cha và Chúa Con.
Chúa Thánh Thần hoạt động trong thời Cựu Ước
Sách Công Vụ Tông Đồ không những cho chúng ta thấy rằng thánh Thần đã có từ đời đời, mà còn cho chúng ta thấy Ngài hoạt động trên trần gian trước khi hiện xuống với các môn đệ.
Thí dụ, sách Công Vụ Tông Đồ viết rằng Chúa Thánh Thần "đã dùng miệng vua Đa-vít để nói" một ngàn năm trước Đức Giê-su (Cv 1:16). Và thêm nữa, Chúa Thánh Thần cũng "dùng ngôn sứ I-sai-a mà phán" bảy trăm năm trước Đức Giê-su (Cv 28:25). Sau hết, sách kể lại thánh Tê-pha-nô tố cáo dân chúng đã chống lại Thánh Thần, giống như cha ông họ đã làm trong thời Cựu Ước (Cv 7:51).
Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời Đức Giê-su

Sách Tin Mừng mô tả hoạt động của Thánh Thần trong đời sống Đức Giê-su.


Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su khi Ngài chịu phép rửa (Lc 3:22). Thánh Thần đã dẫn Đức Giê-su "vào hoang địa bốn mươi ngày" (Lc 4:1-2). Rồi chính Đức Giê-su đã nói về sự hiện diện của Thánh Thần trong đời Ngài. Thí dụ sau khi đọc xong lời ngôn sứ I-sai-a "Thần Khí Chúa ngự trên tôi," Đức Giê-su quay về phía dân chúng và nói với họ rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe" (Lc 4:18,21).
Những đoạn này cũng như nhiều đoạn khác trong sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ Thánh Thần hoạt động trong đời Đức Giê-su như thế nào. Đó là Thánh Thần đã:
* hướng dẫn Đức Giê-su,

* khuyến khích Ngài,

* hoạt động qua Ngài.

Dù Thánh Thần đã hoạt động nhiều trong thời Cựu Ước và thời rao giảng Tin Mừng thì một biến cố duy nhất và vĩ đại đã xảy ra, đó là ngày lễ Hiện Xuống. Chúng ta hãy xem biến cố đó là gì.


Thánh Thần hiện xuống trên các Tông Đồ

Trong ngày mừng sinh nhật, một em nhỏ nhận được món quà là chiếc thuyền buồm. Mừng quá, nó không thể ngồi yên, chạy vòng vòng để khoe với mọi người quà của nó. Sau cùng, nó chạy lại bên cửa sổ, nhìn lên trời và nói: “Chúa ơi! Chúa có thấy chiếc thuyền của con không?"


Im lặng hồi lâu, dường như nó đợi Chúa trả lời. Sau đó, quay lại phía mẹ, nó hỏi: “Chúa là như thế nào?" Nhưng trước khi mẹ nó trả lời, nó đã la lên: “Con biết rồi! Chúa như là gió đưa chiếc thuyền của con đi!"
Cổ nhân Do-thái chắc cũng phải khen ngợi sự thông minh của đứa bé này. Họ cũng đã nhận ra sự tương tự giữa Thiên Chúa và gió. Gió nhẹ như hơi thở và mạnh như bão tố, tuy không trông thấy được, nhưng nói cho người ta biết sự hiện diện vô hình và uy lực của Thiên Chúa. Quả thật, từ "gió" trong tiếng Do-thái là ruah cũng có thể dịch ra là "thần khí" của Thiên Chúa.
Một hình ảnh khác người Do-thái có về Thiên Chúa, đó là lửa. Hình ảnh này có lẽ lấy từ kinh nghiệm Mô-sê thấy Chúa trong bụi gai bừng cháy và dân chúng thấy Chúa hiển dung "trong lửa" trên núi Si-nai.
Chúng ta nên đọc về việc hiện xuống của Chúa Thánh Thần, dựa trên những tư tưởng như trên.
Hãy nhớ lại câu truyện. Các môn đệ đang tụ họp trong một căn nhà tại Giê-ru-sa-lem.
"Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho" (Cv 2:2-4).
Tiếng động của cơn gió lớn đến nỗi làm cho dân chúng tuốn đến căn nhà ấy. Nghe tiếng dân chúng, ông Phê-rô và các Tông Đồ đi ra để giảng cho họ nghe.

tải về 1.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương