BÁo cáo chính sách b̀nh ổn giá


PHẦN II CÁC BIỆN PHÁP B̀NH ỔN GIÁ MỘT SỐ MẶT HÀNG TIÊU DÙNG THIẾT YẾU CỦA CHÍNH PHỦ



tải về 2.32 Mb.
trang3/12
Chuyển đổi dữ liệu27.09.2016
Kích2.32 Mb.
#32463
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

PHẦN II

  • CÁC BIỆN PHÁP B̀NH ỔN GIÁ MỘT SỐ MẶT HÀNG TIÊU DÙNG THIẾT YẾU CỦA CHÍNH PHỦ


    Có thể nói, trong những năm qua, Việt Nam được quốc tế đánh giá khá cao trong công tác kiểm soát lạm phát để tạo một sự b́nh ổn nhất định đối với mặt bằng giá cả nói chung trên b́nh diện toàn nền kinh tế bằng một hệ thống các giải pháp và chính sách kinh tế vĩ mô kết hợp với nhau trong tổng thể hài ḥa với các mục tiêu phát triển kinh tế - xă hội khác. Đặc biệt đối với những giai đoạn lạm phát tăng cao, đột biến và có nhiều dấu hiệu căng thẳng, gây bất ổn vĩ mô, sự phản ứng khá chủ động và quyết liệt từ Chính phủ đă nhanh chóng đưa lạm phát về ngưỡng an toàn. Theo đó, mặt bằng giá cả nói chung cũng ổn định và giảm bớt tâm lư hoang mang, lo lắng cho người dân và cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, việc phối hợp điều hành của các cơ quan quản lư Nhà nước nhằm b́nh ổn một số mặt hàng thiết yếu trong thời gian qua, cụ thể là từ năm 2000 đến nay cũng luôn được chú ư và có những bước tiến đáng kể.



    1. Khuôn khổ pháp lư về b́nh ổn giá

    Khuôn khổ pháp lư đối với hoạt động này cũng đă có những dấu mốc quan trọng. Để góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xă hội chủ nghĩa, b́nh ổn giá, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, của ngườitiêu dùng và lợi ích của Nhà nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X đă ban hành Pháp lệnh Giá số 40/2002/PL-UBTVQH10 ngày 26 tháng 4 năm 2002. Mục tiêu chung của Pháp lệnh Giá chính là thực hiện kiểm soát Nhà nước trong lĩnh vực giá cả đối với tất cả các hàng hóa trên thị trường nhằm tránh những biến động bất thường có thể xảy ra. Bên cạnh đó, Pháp lệnh Giá đă có phần quy định cụ thể về b́nh ổn giá với mục tiêu thực hiện các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào quan hệ cung cầu để b́nh ổn giá thị trường đối với những hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu. Các biện pháp này bao gồm: (a) Điều chỉnh cung cầu hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; hàng hóa giữa các vùng, các địa phương trong nước; (b) Mua vào hoặc bán ra hàng hóa dự trữ; (c) Kiểm soát hàng hóa tồn kho; (d) Quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá; (đ) Kiểm soát các yếu tố h́nh thành giá; (e) Trợ giá nông sản khi giá thị trường xuống quá thấp gây thiệt hại cho người sản xuất; trợ giá hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu khác.

    Gần đây, Luật Giá đă được thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012 thay thế cho Pháp lệnh Giá. Luật Giá đă có những quy định chi tiết, cụ thể và chặt chẽ hơn về quản lư nhà nước đối với giá cả hàng hóa nói chung trên thị trường và cũng chi tiết hơn cả nội dung b́nh ổn giá so với Pháp lệnh Giá trước đây. Điều 4, Luật Giá đưa khái niệm: “B́nh ổn giá là việc Nhà nước áp dng biện pháp thích hợp về điều ḥa cung cầu, tài chính, tiền tệ và biện pháp kinh tế, hành chính cần thiết khác để tác động vào sự h́nh thành và vận động ca giá, không để giá hàng hóa, dch v tăng quá cao hoặc gim quá thấp bất hợp lư”. Luật Giá cũng đưa ra danh mục hàng hóa thuộc diện b́nh ổn1 với 7 biện pháp b́nh ổn khác nhau. Sau đó, Nghị định số 177/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ ban hành đă quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá, trong đó có những quy định về b́nh ổn giá.

    Bên cạnh đó, tùy từng mặt hàng trong danh mục b́nh ổn giá, Chính phủ, các Bộ, ban, ngành đă ban hành những quy định riêng nhằm quản lư thị trường cũng như giá cả trong từng thời điểm nhằm thực hiện mục tiêu chung đưa ra trong Pháp lệnh Giá trước đây và Luật Giá sau này.


    1. T́nh h́nh thực hiện b́nh ổn giá các mặt hàng thiết yếu

    Thực hiện chủ trương b́nh ổn giá, Chính phủ đă có nhiều biện pháp chỉ đạo phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành cũng như phân cấp tự chủ trong thực hiện b́nh ổn giá xuống các địa phương. Trong thời gian từ khi Pháp lệnh Giá được ban hành, những biện pháp b́nh ổn đă có những tác dụng nhất định trong việc kiểm soát giá cả hàng hóa thiết yếu và có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống nhân dân. Tuy nhiên, có thể nói việc kiểm soát để đạt được một mức độ b́nh ổn thực sự đối với từng mặt hàng và trong từng thời điểm nhất định có sự khác biệt rất lớn. Nhiều khi đă không có sự kiểm soát chặt chẽ hoặc có trường hợp những biện pháp b́nh ổn giá không có tác dụng. Dưới đây là những mặt hàng điển h́nh nhất trong đối tượng thực hiện chính sách b́nh ổn giá trực tiếp của Chính phủ.

      1. Xăng dầu

    Lĩnh vực xăng dầu là lĩnh vực thuộc diện b́nh ổn giá. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận ra đặc điểm nổi bật của lĩnh vực này là: (i) xăng dầu tiêu thụ trong nước là nhập khẩu, giá xăng dầu phụ thuộc vào giá cả thế giới; (ii) cơ chế định giá bán xăng dầu của Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây vẫn gây nhiều tranh luận khi mức tăng, giảm của giá bán xăng dầu trong nước chưa theo cùng với mức tăng, giảm của giá thế giới; (iii) thị trường xăng dầu hiện nay đă là thị trường cạnh tranh nhưng sự cạnh tranh chưa hoàn hảo, thực chất là độc quyền nhóm khi chỉ có một số đầu mối cung cấp xăng dầu nhất định và Tập đoàn dầu khí Việt Nam - Petrolimex là nhà cung cấp lớn nhất. Mặc dù đă có sự khác biệt về giá bán xăng dầu giữa các doanh nghiệp đầu mối nhưng sự chênh lệch không lớn. Chính v́ vậy, cơ chế này lại càng tạo ra những ảnh hưởng tới việc h́nh thành giá bán xăng, dầu trong nước.

    Từ năm 2000 đến nay, giá xăng dầu thế giới có nhiều biến động, lập những mặt bằng giá mới và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Chính phủ thực hiện chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu nhằm cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp. Tuy nhiên, trước nguy cơ không cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đă ban hành Quyết định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu với những thay đổi lớn như:

    - Nhà nước xác định giá định hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu).

    - H́nh thành 2 vùng giá bán; giá bán tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu.

    - Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước không c̣n công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng, Nhà nước và doanh nghiệp.

    Sau đó, Chính phủ đă ban hành Nghị định định số 55/2007/NĐ-TTG năm 2007 đă tạo ra một hệ thống phân phối rộng khắp với gần 10.000 cửa hàng xăng dầu trên cả nước, góp phần ổn định, lành mạnh hóa thị trường trước đây khá lộn xộn. Tuy nhiên, v́ nhiều lư do, nội dung quản lư giá xăng dầu theo Quyết định 187 và Nghị định 55 không được thực hiện trên thực tế, Chính phủ vẫn điều hành và can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm và các cơ quan quản lư tỏ ra lúng túng khi thực hiện những mục tiêu khá mâu thuẫn nhau là đảm bảo tính ổn định của giá và phải thực hiện thị trường hóa giá cả dựa vào giá xăng dầu thế giới. Một mặt, do thực hiện b́nh ổn giá bằng cách bù giá từ ngân sách trong một thời gian dài đă ảnh hưởng lớn tới ngân sách Nhà nước cũng như các doanh nghiệp kinh doanh (mức bù giá đă tăng từ 1000 tỷ đồng năm 2000 lên 22 ngh́n tỷ đồng năm 2008). Mặt khác, v́ ḱm giá lâu và có sự điều chỉnh sốc sau đó, giá xăng dầu mới đă có những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, người dân thường có những phản ứng tiêu cực trước những đợt điều chỉnh giá. Cách điều hành tăng, giảm giá xăng dầu trong nước không theo sự tăng, giảm của giá thế giới cũng như việc công bố thông tin không đầy đủ và kịp thời tạo sự chủ động cho người dân đă gây ra sự bức xúc trước mỗi đợt điều chỉnh giá. Ngoài ra, cơ chế quản lư giá xăng dầu trong những năm qua đă góp phần gây ra hiện tượng đầu cơ tích trữ chờ giá lên, thẩm lậu xăng dầu, gian lận trong phân phối và bán lẻ xăng dầu hay tạo lư do điều chỉnh giá cho các ngành kinh doanh liên quan (như vận tải) v.v…

    Một dấu mốc đáng chú ư là tới tháng 9/2008, Chính phủ tuyên bố chấm dứt cơ chế bù giá xăng dầu, vận hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn không có thực quyền về xác định giá bán như các văn bản quy định. Các văn bản mới tiếp tục ra đời song cũng không đi vào thực tế (barem thuế nhập khẩu, quỹ b́nh ổn giá); cơ chế đăng kư giá kéo dài mang nặng tính xin cho (phê duyệt). Cơ chế quản lư, điều hành thực hiện b́nh ổn giá vẫn chưa có sự cải thiện nào đáng kể trên thực tế. Đă có những đợt điều chỉnh tăng liên tiếp trong một thời gian ngắn với lư do giá xăng thế giới tăng và sau đó, việc điều chỉnh giảm không đáng kể (ví dụ trong năm 2011, 2012).
    H́nh 7: Diễn biến giá dầu thế giới và giá xăng của Việt Nam năm 2011-2012

    Nguồn: Theo Oilprice.net và tổng hợp giá dầu Việt Nam


    Một khía cạnh khác của quản lư b́nh ổn giá xăng dầu là việc Chính phủ yêu cầu doanh nghiệp trích lập Quỹ b́nh ổn. Quỹ b́nh ổn đă có từ rất sớm, trước những năm 2000 và do Ban vật giá Chính phủ quản lư. Sau đó, v́ hoạt động không hiệu quả nên Quỹ bị hủy bỏ. Hiện nay, việc h́nh thành Quỹ được tái thực hiện theo quy định tại Nghị định 84/2009/NĐ-CP và Thông tư 234/2009/TT-BTC. Mức trích lập và thời điểm trích lập đều được Bộ Tài chính tính toán dựa trên những biến động của thị trường và có thông báo đến các doanh nghiệp đầu mối thực hiện. Thực chất, nguồn trích lập vào Quỹ b́nh ổn cấu thành nên giá bán xăng dầu. Do đó, điều này cũng giống như người mua mất thêm tiền để b́nh ổn giá cho ḿnh trong tương lai. Hay chính xác hơn là việc kéo sự tăng giá trong tương lai về hiện tại. Cho tới thời điểm hiện nay, Quỹ b́nh ổn xăng dầu vẫn được cho là hoạt động thiếu công khai, minh bạch và việc h́nh thành và duy tŕ Quỹ này không có mấy tác dụng đối với mục tiêu chính là b́nh ổn giá.

    Bên cạnh đó, trong diễn biến giá xăng dầu thế giới giảm mạnh năm 2014, giá xăng dầu trong nước sau đó cũng điều chỉnh giảm theo trong nhiều đợt từ 25.640 đồng/lít xuống 17.880 đồng/lít2 – điều này đă góp phần ổn định đáng kể giá cả thị trường xăng dầu nói riêng, các mặt hàng và dịch vụ khác và thị trường nói chung. Tuy nhiên, vào đầu năm 2015, Bộ Tài chính có một động thái khác là tăng thuế nhập khẩu (và sau đó là tăng thuế bảo vệ môi trường từ 1000 đồng/lít lên 3000 đồng/lít từ 1/5/2015) đối với mặt hàng này với lư do giảm mức thâm hụt ngân sách nhà nước do giá xăng dầu thế giới giảm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chặn sự lan tỏa do giá xăng dầu thế giới giảm đến nền kinh tế, v́ xăng dầu giảm sẽ lan tỏa đến ngành vận tải và các ngành khác trong nền kinh tế, từ đó dẫn tới tổng giá trị gia tăng (GDP) của nền kinh tế tăng lên và có thể nói động thái này có thể đă đi ngược lại mục tiêu b́nh ổn giá không chỉ của mặt hàng này mà c̣n tất cả các mặt hàng được sản xuất trong nước. Nguy hiểm hơn nữa là nó có thể chặn đà tăng trưởng của nền kinh tế.

    Ngoài ra, những câu chuyện “giá xăng giảm nhưng cước vận tải không giảm” như thời gian qua cũng cho thấy không chỉ là vấn đề điều hành mà c̣n cho thấy các doanh nhân Việt Nam có cái nh́n rất ngắn và mang tính chộp giật, một bức tranh phản ánh t́nh trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” thiếu nhất quán và thiếu sự phối hợp để tạo thành một mặt bằng giá cả chung có lợi cho người sản xuất và tiêu dùng. Chỉ sau khi dư luận thực sự lên tiếng bày tỏ bức xúc với những t́nh trạng bất hợp lư của giá cả một cách hiển nhiên, các cơ quan chức năng mới họp bàn và lại buộc “vào cuộc” áp chế bằng các biện pháp hành chính. Biện pháp này thực tế không mang lại hiệu quả, ví dụ như các tuyến xe Hải Pḥng – Hà Nội chỉ giảm giá khoảng 6% trong ṿng 5 tiếng lúc có đoàn kiểm tra, sau 5 tiếng đồng hồ th́ đâu lại hoàn đó. Đây không chỉ là vấn đề điều hành mà sâu sa hơn, đó là vấn đề văn hóa kinh doanh và đạo đức kinh doanh.
    Sau 14 lần xăng dầu liên tiếp giảm giá: Cước vận tải không giảm

    Khi nhiên liệu giảm giá liên tiếp th́ một trong các ngành sử dụng mặt hàng này nhiều nhất là ngành vận tải vẫn “vô tư” giữ nguyên mức cước, trong khi trước đó, với những lần xăng dầu tăng giá, cước này cũng nhanh chóng tăng theo.

    Theo niêm yết của Bến xe Miền Đông (thành phố Hồ Chí Minh), đơn vị hiện có 175 tuyến xe đi các tỉnh trong cả nước, gồm 207 doanh nghiệp (DN) đăng kư hoạt động. Trong số này mới có khoảng 100 DN thông báo giảm giá cước vận tải hành khách (HK), mức dao động từ 5-10% (tính tới ngày 13/1/2015).

    Tại Hà Nội, theo đại diện Công ty CP bến xe Hà Nội, tính đến nay (27/1/2015), sau 15 lần xăng dầu giảm giá với mức giảm gần 10.000 đồng, nhưng mới chỉ có 38 đơn vị trong tổng số hơn 100 đơn vị vận tải tiến hành giảm giá cước vận tải.



    (Nguồn: Tổng hợp từ các báo)


      1. Điện

    Điện là mặt hàng thuộc diện b́nh ổn giá nhưng cách quản lư giá điện của Nhà nước trong những năm qua vẫn theo cơ chế quan liêu và độc quyền với những vấn đề tương tự hoặc thậm chí nghiêm trọng hơn mặt hàng xăng dầu.

    Theo Luật Điện lực năm 2004, biểu giá bán lẻ điện cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cơ quan điều tiết điện lực giúp Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) xây dựng biểu giá bán lẻ. Sau này, Luật Điện lực sửa đổi, bổ sung được Quốc hội thông qua 20/11/2012, có hiệu lực 1/7/2013 đă có những thay đổi trong quy định về giá điện. Cụ thể, giá bán l điện do đơn v bán l điện xây dựng căn cứ khung giá ca mức giá bán l điện b́nh quân, cơ chế điều chnh giá và cơ cấu biểu giá bán l điện do Th tướng Chính ph quy đnh phù hợp với cấp độ phát triển ca th trường điện lực (trừ giá bán điện ở nông thôn, miền núi, biên giới, hi đo có những ưu đăi riêng). Bộ Công thương ch tŕ, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng khung giá ca mức giá bán l điện b́nh quân, cơ chế điều chnh giá và cơ cấu biểu giá bán l điện tŕnh Th tướng Chính ph quyết đnh. Việc điều chnh giá bán l điện phi được thực hiện công khai, minh bch về sự biến đổi ca các yếu tố cấu thành liên quan đến việc điều chnh giá. Nhà nước sử dng các biện pháp để b́nh ổn giá bán điện phù hợp với quy đnh ca pháp luật về giá.

    Bên cạnh đó, Luật Giá đă đưa ra một số nguyên tắc cụ thể định giá bán điện trong Chương I, Điều 4 như sau:



    - Mức giá bán lẻ điện b́nh quân là giá bán điện được xác định theo nguyên tắc tính tổng chi phí sản xuất, kinh doanh và mức lợi nhuận hợp lư b́nh quân cho 01 kWh điện thương phẩm trong từng thời kỳ, được sử dụng cùng với cơ cấu biểu giá bán lẻ điện để tính giá bán lẻ điện cụ thể cho từng đối tượng khách hàng sử dụng điện.

    - Khung giá của mức giá bán lẻ điện b́nh quân là khoảng cách giữa mức giá tối thiểu và mức giá tối đa của mức giá bán lẻ điện b́nh quân.

    - Cơ cấu biểu giá bán lẻ điện là bảng kê các mức giá cụ thể hoặc tỷ lệ phần trăm (%) của mức giá bán lẻ điện b́nh quân để tính giá bán lẻ điện cụ thể cho từng đối tượng khách hàng sử dụng điện.

    Tuy nhiên, có thể thấy việc cung cấp điện qua nhiều năm vẫn hoàn toàn độc quyền thuộc về Tập đoàn Điện lực Việt Nam – EVN. Chính v́ vậy, phương pháp xây dựng biểu giá điện hiện nay chủ yếu dựa trên chi phí thống kê hoạch toán giá thành của EVN. Hàng năm căn cứ kết quả kiểm tra, tính toán giá thành SXKD điện năm tài chính, t́nh h́nh sản xuất kinh doanh của EVN và t́nh h́nh kinh tế - xă hội, Bộ Công Thương chủ tŕ phối hợp với Bộ Tài chính xem xét điều chỉnh giá bán điện b́nh quân. Như vậy, giá bán điện vẫn chưa thực sự vận hành và tự điều chỉnh theo cơ chế thị trường mặc dù đă có những thay đổi trong khuôn khổ pháp lư. Chính v́ vậy, đă có câu chuyện EVN tính cả các chi phí phát sinh vô lư vào giá điện3.


    H́nh 8: Giá điện qua các lần điều chỉnh, giai đoạn 2009-2015


    Nguồn: Tổng hợp qua các lần điều chỉnh

    Giá điện ở Việt Nam, từ năm 2000 đến nay đă qua nhiều lần tăng giá. Chỉ tính từ năm 2009, giá điện có những lần tăng giá liên tiếp và sau mỗi lần điều chỉnh chỉ có tăng, chưa hề giảm (tuy có thời điểm chi phí đầu vào giảm đáng kể). Đặc biệt, năm 2011, giá được điều chỉnh tăng 2 lần: ngày 01/3/2011 tăng 15,28% so với năm 2010, ngày 20/12/2011 tăng 5%, ngày 01/7/2012 tăng tiếp 5%. Năm 2012, giá cũng được điều chỉnh tăng 2 lần vào 1/7/2012 và 22/12/2012, mỗi lần tăng trung b́nh 5%, đưa giá bán điện b́nh quân từ mức 1.369 đồng/KWh lên 1.437 đồng/KWh (chưa tính thuế VAT).

    Năm 2013, giá được điều chỉnh tăng ngày 1/8/2013 thêm 5%, đưa giá b́nh quân lên 1509 đồng/KWh. Đặc biệt, Quyết định số 69/2013 của Thủ tướng về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện b́nh quân ngay sau đó c̣n cho phép EVN không c̣n những lần tăng giá 5% mà sẽ tăng tối thiếu 7%. Trong năm 2014, mặc dù giá điện bán lẻ b́nh quân không tăng nhưng từ ngày 1/6/2014, có một số thay đổi đối với các đối tượng được hưởng ưu đăi giá bán điện như: mức giá bán lẻ điện sinh hoạt cho hộ nghèo và thu nhập thấp bị băi bỏ; mức giá bán lẻ điện cho kinh doanh và khối hành chính sự nghiệp giảm nhẹ. Mới đây nhất, giá điện đă được điều chỉnh tăng thêm 7,5% lên mức b́nh quân 1622 đồng/kw. Có thể thấy Giá bán điện ban hành qua các kỳ điều chỉnh c̣n chưa thuyết phục, mang nặng cơ chế hành chính, thiếu cơ sở khoa học, thiếu minh bạch và thuyết phục.

    Bên cạnh đó, cách tính lũy kế đặc thù của giá điện cũng cho thấy cơ chế giá có lợi nhiều hơn cho người sản xuất và kinh doanh điện chứ lợi ích không thuộc về người tiêu thụ. Theo đó, tính từ ngày 01/06/2014, giá bán lẻ điện sinh hoạt có 6 bậc với mức giá tương ứng với từng bậc từ bậc 1 - bậc 6 lần lượt là 1.388 đồng/kWh; 1.433 đồng/kWh; 1.660 đồng/kWh; 2.082 đồng/kWh; 2.324 đồng/kWh và 2.399 đồng/kWh. Thông thường, điện tiêu thụ trong các gia đ́nh sẽ tính tới bậc 3 hoặc 4.

    Và cũng theo nhiều nghiên cứu, trong điều kiện KT-XH, hoạt động của các doanh nghiệp, thu nhập người dân hiện tại và nguồn tài nguyên đa dạng cho sản xuất điện, giá bán điện hiện nay ở Việt nam không phải là thấp. Tính chất b́nh ổn của giá điện trong những năm vừa qua không cao, làm tăng gánh nặng chi tiêu cho người dân và chi phí sản xuất cho các doanh nghiệp. Đặc biệt đáng chú ư là những tuyên bố điều chỉnh tăng giá điện luôn được đưa ra vào thời điểm cuối tháng 12 mỗi năm (và thường trong bối cảnh chỉ số lạm phát của năm được công bố không quá căng thẳng). Đây có thể là một chủ đích nhằm giảm sự chú ư và bức xúc của người dân trước nỗi lo tăng giá sắp tới.


      1. Sữa trẻ em dưới 6 tuổi

    Việt Nam được đánh giá là thị trường tiêu thụ sữa tiềm năng. Mặt hàng sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi thuộc diện b́nh ổn giá nhưng trong cơ chế quản lư lỏng lẻo, sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi cũng đă là mặt hàng có những đợt tăng giá sốc. Thấm chí, nhiều đánh giá năm 2009 đă cho rằng giá sữa tại Việt Nam đắt nhất thế giới (theo một báo cáo của Chương tŕnh giảng dạy Fulbright). Điều đó cho thấy sự yếu kém trong quản lư giá của nhà nước đối với những mặt hàng thuộc diện b́nh ổn giá trong những năm qua.

    Có một đặc điểm là cho dù một số nhà sản xuất sữa trong nước như Vinamilk, Nutifood có thị phần sữa bột và sữa nước lớn nhưng nguyên liệu và công nghệ sản xuất chủ yếu là nhập khẩu. Chính v́ vậy, giá sữa bán ra thị trường phụ thuộc nhiều vào giá sữa nguyên liệu của thế giới. Thị trường sữa cho trẻ dưới 6 tuổi bao gồm sữa bột và sữa nước trong những năm gần đây gần như bị cạnh tranh gay gắt bởi các hăng sữa ngoại lớn như Mead Jonhson, Abbott, Dutch Lady (Freisland Campina), Dumex, Nestlé, các nhăn hiệu Gallia, Nutriben của Pháp, Aptamin của Anh, Đức, Meiji của Nhật v.v… Riêng đối với sữa bột, thị phần của các hăng sữa ngoại khoảng 75%4 nên các hăng sữa ngoại đă có nhiều “chiêu thức” nâng giá sữa một cách thiếu kiểm soát, thao túng kéo các mặt hàng sữa bột trong nước tăng theo và có thời điểm các cơ quan quản lư đă không thể kiểm soát để b́nh ổn giá được mặt hàng này.

    Khi giá sữa bột thế giới tăng đột biến năm 2006, 2007, 2008, giá sữa bột trong nước theo đó có nhiều đợt tăng năm 2008 và 2009. Các đợt tăng giá đặc biệt nổi bật vào các năm gần đây như 2012, 2013 và đầu năm 2014. Ví dụ như năm 2013 có 6 đợt tăng giá sữa. Mỗi đợt 7-9%, cá biệt có hăng đă tăng giá đến 15%. Giá sữa đă trở thành nỗi ám ảnh “choáng váng” của người dân. Những đánh giá sau mỗi đợt tăng giá là: giá sữa tăng phi mă, giá sữa tăng “vô tội vạ”, quản lư giá sữa buông xuôi, người tiêu dùng “đốt” tiền mua sữa v.v… Đặc biệt, có sự chênh lệch rất lớn giữa giá nhập khẩu và giá bán lẻ của chính mặt hàng sữa đó trên thị trường.

    H́nh 9: So sánh giá sữa khai báo với các cơ quan hải quan và giá bán lẻ

    Về khía cạnh quản lư nhà nước đối với thị trường sữa cho trẻ em dưới 6 tuổi, đă có nhiều văn bản pháp lư được ban hành quy định quản lư giá mặt hàng này cũng như nhà nước đưa mặt hàng này vào Danh mục thuộc diện b́nh ổn giá. Đặc biệt, quyết định về việc đăng kư và quy định giá, bao gồm cả mặt hàng sữa được Bộ Tài chính đưa ra tại Thông tư 122/2010/TT-BTC ngày 12 tháng 8, năm 2010 cho phép: (i) cơ quan quản lư có thể đặt những mức giá tối đa và tối thiểu hoặc những khung giá; (ii) các nhà sản xuất, các nhà phân phối và các cửa hàng bán lẻ phải đăng kư giá khi đưa hàng ra thị trường và bất kỳ khi nào giá thay đổi; (iii) các doanh nghiệp sản xuất, các đại lư bán sỉ và cửa hàng bán lẻ được yêu cầu phải cung cấp thông tin về chi phí sản xuất cho Bộ Tài chính; (iv) chi phí quảng cáo và khuyến măi không được vượt quá 10% tổng chi phí. Sau đó, nhiều Thông tư, Chỉ thị của các cơ quan quản lư như Bộ Tài chính, Bộ Y tế được ban hảnh nhưng có vẻ, kẽ hở trong quản lư giá sữa vẫn quá lớn và các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này dường như có nhiều biện pháp để đối phó khá dễ dàng với các quy định này.

    Kẽ hở ở đây có thể kể đến như: doanh nghiệp được yêu cầu đăng kư giá với các cơ quan quản lư chứ chưa đưa ra yêu cầu bắt buộc phải báo cáo cơ chế h́nh thành giá, kiểm toán giá và thông báo giá kiểm toán đó cho Nhà nước mỗi khi muốn tăng giá. Như vậy, Nhà nước không thể quản lư được chính xác mức độ tăng giá của doanh nghiệp có hợp lư hay không. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu sữa phần lớn là doanh nghiệp tư nhân không chịu sự quản lư trực tiếp của nhà nước nên giá kê khai, đăng kư chỉ là giá bán buôn, rất khó kiểm soát giá bán lẻ tới người tiêu dùng. Sự phối hợp giữa Bộ Tài chính, Bộ Công thương và Bộ Y tế c̣n quá yếu kém, nhiều khi là “đùn đẩy” trách nhiệm cho nhau. Những quy định chưa rơ ràng và chặt chẽ của Luật Giá và Luật Cạnh tranh đối với mặt hàng sữa5. Hoặc để đối phó với những quy định của nhà nước, các hăng sữa đă thay tên sản phầm (từ sữa bột thành “sản phẩm dinh dưỡng”), thay đổi trọng lượng hàng hóa v.v…

    Giá sữa thực sự chỉ ngừng tăng và điều chỉnh giảm khi các cơ quan quản lư có biện pháp quyết liệt và mạnh tay từ Quyết định số 1079/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ngày 20 tháng 05 năm 2014. Theo đó, Bộ Tài chính áp mức giá tối đa (áp trần) bán buôn và bán lẻ cho 25 sản phẩm sữa điển h́nh. Các sản phẩm khác phải được định giá căn cứ vào mức giá tối đa của sản phẩm cùng loại trong danh mục. Tiếp theo, Nghị định số 100/2014/NĐ-CP ngày 6/11/2014 của Chính phủ quy định về kinh doanh và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, b́nh bú và vú ngậm nhân tạo đă quy định "Nghiêm cấm quảng cáo sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ em dưới 24 tháng tuổi, thức ăn bổ sung cho trẻ em dưới 06 tuổi...". Thị trường sữa có vẻ lắng dịu.

    Tuy nhiên, sau đó, với nhiều h́nh thức lách Luật và các quy định dưới Luật, các hăng sữa vẫn “ngang nhiên” tăng giá và giá c̣n tăng rất mạnh vào đầu năm 2015 mặc dù giá nguyên liệu giảm. H́nh thức điển h́nh nhất là việc thay đổi tên và nhăn mác sản phẩm để sản phẩm nằm ngoài danh mục áp giá. Dường như, mọi biện pháp quản lư đều đang trở nên bất lực.


      1. Phân bón

    Phân bón là một trong 14 mặt hàng quan trọng thuộc danh mục nhà nước b́nh ổn giá theo Nghị định số 170/2003/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Giá và được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 75/2008/NĐ-CP ngày 9/6/2008. Phân bón c̣n được xếp là mặt hàng kinh doanh có điều kiện theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện.

    Trên thực tế, năng lực sản xuất phân bón trong nước cũng khá tốt (năng lực sản xuất phân vô cơ là 80% nhu cầu sử dụng và đáp ứng đủ cho thị trường trong nước và c̣n hướng tới xuất khẩu). Giá phân bón được quản lư theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Doanh nghiệp tự định giá, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, thực hiện đăng kư giá theo quy định. Nhà nước sử dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để b́nh ổn giá. Chính v́ vậy, nh́n chung giá phân bón của các nhà sản xuất trong nước tương đối ổn định và có t́nh trạng giá giảm 17-20% năm 2013, 2014.

    Tuy nhiên, giá phân bón lại có một số vấn đề khác phát sinh như:

    Có sự chênh lệch rất lớn giữa giá sản xuất và giá bán đến tay nông dân. Nguyên nhân chính là do khâu phân phối bất hợp lư, chồng chéo, nhiều cầu –cấp, lũng đoạn giá, đẩy giá lên thêm khoảng 25%.

    T́nh trạng phân bón giả, kém chất lượng ngày một lan tràn phổ biến khiến việc quản lư về giá rất khó khăn, các nhà phân phối trong nước lại dựa vào giá của các loại phân nhập khẩu để xác định giá bán cuối cùng nên cũng đă đẩy giá lên.

    Bên cạnh đó, tuy có nhiều văn bản pháp luật quy định cho quản lư thị trường phân bón nhưng việc phân công trách nhiệm quản lư cả về chất lượng và giá lại chồng chéo, phân tán, không thống nhất.



      1. Thuốc chữa bệnh thiết yếu

    Đối với thuốc chữa bệnh thiết yếu, sau khi có Pháp lệnh Giá và Nghị định số 170/2003/NĐ-CP về quy định chi tiết việc thi hành một số điều của Pháp lệnh Giá, Chính phủ đă ban hành Nghị định số 120/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 05 năm 2004 về quản lư giá thuốc pḥng, chữa bệnh cho người trong đó quy định rơ “Nhà nước sử dng các biện pháp cần thiết để b́nh ổn giá, đnh giá một số thuốc thiết yếu nhằm bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ca người tiêu dùng, ca các cơ sở sn xuất, nhập khẩu, kinh doanh thuốc và lợi ích ca Nhà nước”. Nghị định đă quy định chi tiết việc quản lư giá và niêm yết giá bán buôn và bán lẻ thuốc.

    Việc quản lư giá thuốc được chỉ thị cho Bộ Y tế. Bộ Y tế cũng đă ban hành danh mục các loại thuốc chữa bệnh thiết yếu thuộc diện b́nh ổn giá. Kèm theo đó, Bộ Y tế đă quy định luôn những doanh nghiệp cung ứng danh mục thuốc này. Nhưng việc cung ứng thuốc b́nh ổn như thế nào và đến đâu th́ không có quy định rơ. Chính v́ vậy, các doanh nghiệp được chỉ định, nếu không được kiểm soát tốt, sẽ có cơ hội thanh lư hàng tồn kho, hàng cận đát hoặc kém chất lượng. Cách phân công trách nhiệm thực hiện cho Bộ Y tế được xem là “vừa đá bóng, vừa thổi c̣i”. Trong khi đáng ra chịu trách nhiệm quản lư giá phải là Bộ Tài chính.

    Ngoài ra, với cơ chế đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế hiện nay cũng như việc quản lư quá lỏng lẻo thị trường bán lẻ thuốc, thị trường thuốc vẫn là một thị trường khá lộn xộn, giá cả được xác định tùy tiện và giá thuốc bán đến tận tay người tiêu dùng vẫn cao so với giá thế giới, thị trường thuốc vẫn là một thị trường siêu lợi nhuận cho người kinh doanh.

      1. Lúa gạo


    Lúa gạo là hàng hóa khá đặc thù và đặc trưng của Việt Nam. Khác với những hàng hóa thiết yếu nêu trên, người dân Việt Nam (70%) sản xuất lúa gạo để tự tiêu dùng hoặc bán ra thị trường. Cho dù sản lượng có khác nhau qua các năm phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên nhưng nh́n chung, lúa gạo chưa bao giờ trở nên khan hiếm với toàn thể người dân mà nước ta đă trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Trong những năm qua, nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật, sản lượng lúa gạo luôn tăng hàng năm và đảm bảo tốt an ninh lương thực trong nước cũng như trong khu vực.

    Tuy nhiên, trong những năm qua, chính v́ đă ổn định và dần tăng được sản luợng, người nông dân lại luôn đứng trước những nguy cơ thua thiệt về giá lúa gạo bán ra do hệ thống thu mua lúa gạo c̣n nhiều yếu kém và sự liên kết giữa người nông dân với các doanh nghiệp đầu mối thu mua c̣n chưa hiệu quả. Hiện tượng “được mùa, rớt giá” trở thành hiện tượng phổ biến, đặc biệt khi người thu mua trực tiếp luôn t́m cách ép giá người nông dân. Người nông dân luôn đối diện với t́nh trạng: ngay sau khi thu hoạch, cùng một thời điểm, do nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cho cuộc sống của chính người dân (mua vật tư, phân bón, giống, phục vụ chu kỳ sản xuất tiếp theo và các hàng tiêu dùng hàng ngày) buộc họ phải đưa thóc, gạo ra bán; bất luận giá trên thị trường cao hay thấp, dẫn đến cung vượt quá cầu tại thời điểm đó, gây ra giá thóc gạo giảm, thậm chí có thời điểm giảm thấp hơn chi phí sản xuất, người sản xuất bị lỗ nhưng họ không thể giữ sản phẩm của ḿnh lại để chờ khi giá trên thị trường tăng mới đưa sản phẩm ra bán. Nổi bật nhất cho t́nh trạng này là tại vựa lúa gạo lớn nhất cả nước, đồng bằng sông Cửu Long. Người nông dân thường bán được giá cao vào vụ Đông Xuân nhưng thường bị ép giá vào vụ Hè - Thu.

    Trước thực trạng trên, Chính phủ cũng đă có một số biện pháp hỗ trợ người nông dân như chi từ nguồn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp, hỗ trợ thuế, hỗ trợ tín dụng và hỗ trợ giá (thực hiện trợ giá giống từ năm 2007 đến 2009). Từ năm 2009, Bộ Tài chính đă xây dựng đề án Chính sách hỗ trợ của Nhà nước đề b́nh ổn giá thị trường thóc gạo Việt Nam. Năm 2010, Chính phủ ban hành Quyết định số 993/QĐ-TTg ngày 30/6/2010, giao Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) tổ chức phân chỉ tiêu cho các doanh nghiệp (DN) mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo vụ hè thu năm 2010 với việc ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ 100% lăi suất vay tiền mua lúa gạo tạm trữ. Hoạt động thu mua tạm trữ này tiếp tục được thực hiện vào các năm tiếp theo nhằm mục tiêu đảm bảo cho nông dân có lăi ít nhất 30% trên chi phí sản xuất. Tỷ lệ thu mua, tạm trữ đạt rất cao qua các năm (từ 80% trở lên).

    Mặc dù vậy, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, chính sách thu mua, tạm trữ lúa gạo đă và đang thực hiện từ năm 2010 cho đến nay chưa thực sự giúp người nông dân trồng lúa có lăi như mục tiêu ban đầu, chỉ ngăn giá lúa không giảm quá sâu chứ không có tác dụng làm tăng giá cao. Giá lúa gạo có thể nhích lên khi chương tŕnh tạm trữ bắt đầu được khởi động nhưng chỉ đủ mức ḥa vốn cho người nông dân. Hoặc thậm chí khi lợi thế thu mua thuộc về doanh nghiệp, giá c̣n bị đẩy xuống thấp hơn khi các doanh nghiệp chờ giá xuống thấp hẳn mới mua tạm trữ. Trong khi đó, doanh nghiệp có thể mua tạm trữ được mức giá “hời” do được hỗ trợ từ Chính phủ nhưng do sự cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng của gạo xuất khẩu từ các nước khác, xuất khẩu gạo nhiều khi bị ép giá nên việc thu mua c̣n làm doanh nghiệp “vất vả” hơn. Chính v́ vậy, hiệu quả chương tŕnh này được VFA đánh giá là giảm dần từ sau năm 2012 và các chuyên gia cũng chỉ ra nhiều bất cập trong chương tŕnh này như: sự lựa chọn thời điểm thực hiện hàng năm chưa thích hợp, địa phương và doanh nghiệp chưa thực sự được quyền chủ động trong việc triển khai thực hiện, tỉ lệ phân bổ không hợp lư, sự phối hợp giữa VFA và các địa phương chưa tốt và đây cũng chỉ là biện pháp t́nh thế tạm thời v.v…

    Ở đây có thể liên hệ tới trường hợp hỗ trợ giá lúa gạo của Thái Lan để thấy được những thất bại trong việc can thiệp bằng các biện pháp trực tiếp mà ban đầu Chính phủ cho rằng cần thiết và hiệu quả.
    GO THÁI LAN VÀ CÂU CHUYỆN CA BÀ YINGLUCK

    Năm 2011, một chương tŕnh trợ cấp lúa gạo tưởng chừng rất đơn giản tại Thái Lan như nhiều chương tŕnh trợ cấp nông nghiệp khác được đưa ra. Nhưng sự đơn giản ban đầu đă khiến ngân sách Thái Lan mất đi cả chục tỷ USD.

    Bắt đầu từ năm 2011, chính phủ Thái Lan đă thu mua gạo của nông dân với giá cao hơn giá thị trường nhằm tăng thu nhập cho nông dân, thực hiện lời hứa khi tranh cử của đảng V́ nước Thái. Theo chương tŕnh này, gạo của nông dân Thái Lan được chính phủ mua cao hơn giá thị trường tới 40%. Tại thời điểm đó, các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan thu mua mỗi kg gạo với giá 32,32 baht, trong khi chỉ bán được với giá trung b́nh 10,20 baht/kg. Điều này có nghĩa cứ mỗi kg gạo trong chương tŕnh trợ giá được bán ra, chính phủ sẽ lỗ 22,12 baht. Theo ước tính, số tiền lỗ cho chương tŕnh trợ giá sẽ vào khoảng 500-700 tỷ baht trong cả nhiệm kỳ của Chính phủ.

    Việc tính toán thời điểm áp dụng chính sách trợ giá lúa gạo của Thái Lan là một sai lầm lớn. Ngay khi nước này bắt đầu trữ hàng lúa gạo, Ấn Độ nối lại xuất khẩu mặt hàng này sau một thời gian dài tạm ngưng. Các nước nhập khẩu gạo lớn như Philippines do lo ngại về biến động giá gạo đă bắt đầu sản xuất nhiều gạo hơn. Kết quả là, giá gạo thế giới giảm từ mức đỉnh hơn 1.000 USD/tấn vào năm 2008 xuống ngưỡng hiện nay vào khoảng 390 USD/tấn. Với một kho gạo tạm trữ khổng lồ, Chính phủ Thái Lan không thể bán được với mức giá nào gần sát với mức giá mua vào. Chưa có số liệu chi tiết về mức bù lỗ cho chương tŕnh, nhưng các dự báo đều đưa ra mức tỷ trọng rất lớn trong tổng thu nhập quốc dân của Thái Lan. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Thái Lan Pridiyathorn Devakula ước tính, tổng mức thua lỗ của chương tŕnh có thể lên tới 12 tỷ USD. Công ty CIMB Securities tính toán, chính sách tạm trữ lúa gạo của Bangkok mỗi năm tiêu tốn 9,2 tỷ USD, tương đương 2,5% GDP của nước này. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đă từng phải lên tiếng bày tỏ quan ngại về ảnh hưởng dài hạn của chương tŕnh đối với nền kinh tế Thái.

    Trong khi vẫn đang nợ tiền trợ cấp mua gạo của nông dân theo kế hoạch từ năm ngoái, ngày 11/2/2014, Chính phủ tuyên bố sẽ kết thúc chương tŕnh trợ giá lúa gạo v́ Chính phủ tạm quyền của bà Yingluck không có thẩm quyền gia hạn chương tŕnh. Tuyên bố này đă thổi bùng sự giận dữ của hàng triệu nông dân Thái Lan. Trong lúc đó, những người biểu t́nh thuộc phe đối lập vẫn đang t́m mọi cách ngăn cản các ngân hàng cho Chính phủ vay tiền trả nợ nông dân, kích động nông dân tham gia biểu t́nh đ̣i Thủ tướng tạm quyền Yingluck từ chức.

    (Nguồn: Tổng hợp từ các báo)



    1. tải về 2.32 Mb.

      Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  • 1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




    Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
    được sử dụng cho việc quản lý

        Quê hương