Bên Thắng Cuộc I. Giải Phóng



tải về 1.89 Mb.
Chế độ xem pdf
trang94/96
Chuyển đổi dữ liệu26.10.2023
Kích1.89 Mb.
#55447
1   ...   88   89   90   91   92   93   94   95   96
Huy Duc - Ben Thang Cuoc

Danh mục sách tham khảo
1. Archimedes L. A. Patti, Why Vietnam, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007
2. Ba mươi năm Công giáo Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 1975 – 2005, Nguyệt 
san diễn đàn giáo dân và phong trào giáo dân Việt Nam hải ngoại cơ sở Đức quốc, 
2005
3. Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2001, Nền Kinh tế trước ngã ba đường, 
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011
4. Ban Tuyên giáo Thành ủy – Cục Chính trị quân khu 7 Viện nghiên cứu xã hội 
thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố 
Hồ Chí Minh, 2008
5. Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Kỷ yếu Thủ tướng Phan Văn Khải làm 
việc với Ban nghiên cứu và tổ kinh tế đối ngoại của Thủ tướng Chính phủ, Bản thảo 
ngày 13 tháng 2 năm 2004
6. Bản thảo Hồi ký Ngô Công Đức 1936 – 2007
7. Bộ Ngoại giao, Phạm Văn Đồng và Ngoại giao Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị 
Quốc gia, 2006
8. Bùi Diễm, Gọng kìm lịch sử, cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, 2000
9. Carl Bernstein, Hillary Rodham Clinton người đàn bà quyền lực, Nhà xuất bản 
Công an nhân dân, 2008
10. Chính Đạo Việt Nam niên biểu 1939 – 1975, Văn hóa xuất bản và phát hành, 
2000
11. Chương trình Khoa học Công nghệ cấp nhà nước KX.01, “Quá trình phát triển 
nhận thức của Đảng về con đường XHCN qua cuộc đổi mới”, Bản thảo năm 1994
12. Chuyện kể về chị Ba Thi nữ anh hùng lao động, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh 
Long, 1992
13. Chuyện thời bao cấp tập 1, Nhà xuất bản Thông tấn, 2011
14. Christopher E. Goscha, Courting Diplomatic Disaster? The Difficult Intergration 
of Vietnam into the Internationalist Communist Movement (1945-1950), “Vietnam 
Studies” Conference April 6, 2006, UC Berkeley.
15. Duyên Anh, Nhà tù hồi ký, Nhà xuất bản Xuân Thu, 1987


16. Dương Đức Dũng, Nhà doanh nghiệp cần biết Những gương mặt tỷ phú Sài Gòn 
trước năm 1975, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1992
17. Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời chiến sĩ hồi ký, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 
2009
18. Đại tướng Văn Tiến Dũng, Đại thắng mùa xuân, Nhà xuất bản Quân đội Nhân 
dân, 1976
19. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Hành Dinh trong Mùa Xuân Toàn Thắng, Nhà 
xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000
20. Đại Việt Sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, 2003
21. Đào Xuân Sâm, Viết theo dòng đổi mới tư duy kinh tế, Nhà xuất bản Thanh 
niên, 2000
22. David G. Marr, Vietnam 1945, The Regents of the University of California, 1995
23. Đặng Phong, “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nhà xuất bản Tri 
thức, 2009
24. Đây là Đài Phát thanh Giải phóng, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí 
Minh, 1997
25. Egon Krenz, Mùa thu Đức 1989, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010
26. Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping and the Transformation of China, the Belknap 
Press of Harvard University Press, 2011.
27. Giáo giới trong đấu tranh đô thị qua hai thời kỳ Nam Bộ kháng chiến (1945 – 
1975), Bản thảo tháng 6 năm 2004
28. GS. Trần Nhâm, Trường Chinh – Một tư suy sáng tạo, một tài năng kiệt xuất, 
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2009
29. Hà Văn Thư – Trần Hồng Đức, Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam, Nhà xuất 
bản Văn hóa – Thông tin, 1996
30. Henry Kissingger, Ending the Vietnam War, Simon & Schuster, 2003
31. Henry Kissinger, Những năm bão táp (Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng), Nhà xuất 
bản Công an Nhân dân, 2003
32. Hoàng Dũng, Chiến tranh Đông Dương III, Văn Nghệ xuất bản, 2000
33. Hoàng thân Norodom Shihanouk cùng Bernard Kriser, Hồi ký Shihanouk, Nhà 
xuất bản Công an Nhân dân, 1999
34. Hoàng Minh Thắng, Nơi ấy tôi đã sống, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003


35. Hoàng Ngọc Thành và Trần Thị Nhân Đức, Tài liệu Sử: Những ngày cuối cùng 
của Tổng thống Ngô Đình Diệm
36. Hoàng Tùng, Những kỷ niệm về Bác Hồ
37. Học viện Chính trị Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đồng chí Trường Chinh – 
Nhà lãnh đạo kiệt xuất của Cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, 
2007
38. Hồ Ngọc Nhuận, Bản thảo Đời hay Chuyện về những người tù của tôi
39. Hồ Ngọc Nhuận, Bản thảo Tình bạn hay Những là thư tâm tình về tình hình 
chính trị tại miền Nam Việt Nam trước 1975
40. Hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam 1945 – 1954, Xuân Giáp Thìn 1964
41. Hồi ký Trần Văn Giàu 1940 – 1945
42. Hồi ức Mai Chí Thọ, tập 2 Theo bước chân lịch sử, Nhà xuất bản Trẻ, 2001
43. Hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương
44. Hội thảo Khoa học Lịch sử phát triển Kinh vĩnh tế, Sở Khoa học Công nghệ môi 
trường An Giang, 1999
45. Huỳnh Bá Thành, Vụ án Hồ Con Rùa, Phụ bản báo Tuổi trẻ, 1983
46. Lê Duẩn, Thư vào Nam, Nhà xuất bản Sự Thật, 1985
47. Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân văn – giai phẩm từ góc nhìn Một trào lưu tư tưởng 
dân chủ, một cuộc Cách mạng văn học không thành
48. Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945 – 1995, Tiên Rồng xuất bản, 2004
49. Lịch sử Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Sài Gòn – Gia Định và các 
thành thị Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (1928 – 1975), Bản 
thảo tháng 9 năm 2004
50. Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh, Phong trào đấu tranh của công 
nhân Nam Bộ 1945 – 1975, Bản thảo tháng 6 năm 2004
51. Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger 
tại Paris, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2002
52. Mao Trạch Đông ngàn năm công tội, Thông tấn xã Việt Nam, 2008
53. My life Bill Clinton, William Jefferson Clinton, 2004
54. Ngã ba Đồng Lộc – Ngã ba anh hùng, Bản thảo năm 1971
55. Nghiêm Xuân Hồng, Cách mạng và hành động (1789 – 1917 – 1933 – 1949), 
Quan điểm xuất bản


56. Ngô Điền, Campuchia nhìn lại và suy nghĩ, Bản thảo ngày 30 tháng 7 năm 1992
57. Ngô Thảo, Dĩ vãng phía trước, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2011
58. Nhớ về anh Lê Đức Thọ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000
59. Nhà Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003
60. Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận Văn hóa – Tư 
tưởng, Nhà xuất bản Văn hóa, 1980
61. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 1
62. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 2
63. Những sự kiện lịch sử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh (1975 – 1995) tập 2
64. Nguyễn Đình Đầu, Tìm hiểu Thềm lục địa – biển Đông hải đảo Việt Nam, Ủy ban 
đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, 2009
65. Nguyễn Duy Oanh, Chân dung Phan Thanh Giản, Tủ sách Sử học Bộ Văn hóa 
Giáo dục và Thanh niên, 1974
66. Nguyễn Khánh, Phong cách Võ Văn Kiệt, Bản thảo ngày 20 tháng 10 năm 2009
67. Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng xuất bản, 1970
68. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Chuyện đời Đại sứ, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ, 
2012
69. Nguyễn Thị Ngọc Hải, Trở lại xứ Ka Đô, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2011
70. Nguyễn Nhật Lâm, Trở lại, Nhà xuất bản Văn học, 2012
71. Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nam 
Sơn, 1963
72. Nguyễn Văn Linh, Đổi mới để tiến lên, Nhà xuất bản Sự Thật, 1991
73. Nguyễn Văn Linh, Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, Nhà xuất bản Sự thật, 1985
74. Nguyễn Văn Linh, Hành trình cùng lịch sử, Nhà xuất bản Trẻ, 1999
75. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ và Quốc hội
76. Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiêu, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 
2010
77. Nguyễn Xuân Oánh, Đổi mới vài nét lớn của một chính sách kinh tế Việt Nam, 
Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 2001
78. Nguyễn Văn Xương, Lược dịch và chú giải Sắc lệnh điền thổ 21 tháng 7 năm 
1925, in lần thứ nhì, 1971
79. Peter Braestrup, Big Story, Presidio, 1977


80. PGS Đào Công Tiến, Nguyên Hiệu trưởng Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí 
Minh, Giáo dục và đào tạo – mấy cảm nhận và đề xuất, Bản thảo tháng 6 năm 2009
81. PGS Đào Công Tiến, Với các Dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng XI – Mấy trao 
đổi, đóng góp, Bản thảo năm 2005
82. Phạm Khắc Hòe, Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nhà xuất bản Chính 
trị Quốc gia, 2007
83. Phạm Sơn Khai, Hồi ký
84. Phan Lạc Phúc, Bè bạn gần xa, Nhà xuất bản Văn nghệ, 2000
85. Philip Short, Polpot, John Murray, 2004
86. Phong trào đấu tranh của phụ nữ Sài gòn – Gia Định trong Nam Bộ kháng chiến 
(1945 -1975), Bản thảo tháng 5 năm 2004
87. Quốc triều Hình luật, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995
88. Stanley Karnow, Vietnam A History the first complete account of Vietnam at 
War, WGBH Educational Foundation and Stanley Karnow, 1983
89. Sophie Quinn-Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years 1919-1941, University of 
California Press, 2002.
90. Tạ Chí Đại Trường, Sử Việt đọc vài quyển, Nhà xuất bản Văn Mới, 2004
91. Tạ Chí Đại Trường, Người lính thuộc địa Nam Kỳ (1861 – 1945), Nhà xuất bản 
Tri thức, 2011
92. Tạ Chí Đại Trường, Một khoảnh Việt Nam Cộng hòa nối dài
93. TGM F. X Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, Công đoàn Đức Mẹ La Vang 
ấn hành, 2000
94. Thành ủy - Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Viện lịch sử Quân sự Việt 
Nam, Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, Nhà xuất bản Quân đội Nhân 
dân, 1998
95. Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh Ban Tư tưởng – Văn hóa Thành ủy, Biên Niên 
sự kiện (1986 – 1995), Bản thảo năm 2000
96. Thụy Khuê, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng Hiệp, Nhà xuất bản 
Văn Nghệ, 2002
97. Thượng tướng Trần Văn Trà, Những chặng đường của “B2 – Thành đồng” tập V 
Kết thúc chiến tranh 30 năm, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 1982


98. Trần Công Tấn, Nguyễn Chí Thanh sáng trong như ngọc một con người, Nhà 
xuất bản Văn học, 2009
99. Trần Quang Cơ, Hồi ức và suy nghĩ, Bản thảo năm 2003
100.Trần Quốc Hương, Những năm tháng làm việc bên anh Trường Chinh, Bản thảo 
tháng 5 năm 2002
101.Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn (trích)
102.Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử lược, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2002
103.Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nhà xuất bản Vĩnh Sơn, 1969
104.Tuyển tập Đào Duy Tùng tập 1, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008
105.Tuyển tập Đào Duy Tùng tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008
106.Tướng Nguyễn Văn Vịnh – Như anh còn sống, Nhà xuất bản Tổng hợp thành 
phố Hồ Chí Minh, 2003.
107.Trần Huy Chương, Campuchia Hậu UNTAC, Hồi ký – bản thảo 2002.
108.Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Đề án Quy hoạch, phát triển hạ tầng 
giao thông đô thị, khắc phục tình trang ùn tắc giao thông, đáp ứng yêu cầu phát 
triển kinh tế - xã hội thành phố Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, 
Bản thảo tháng 11 năm 2007
109.Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Viện kinh tế, Báo cáo đề tài nghiên 
cứu khoa học “Kinh tế vỉa hè” tại thành phố Hồ Chí Minh: Hiện trạng và các giải 
pháp, Bản thảo tháng 1 năm 2005
110.Văn phòng Quốc hội, Quốc hội Việt Nam 60 năm hình thành và phát triển, Nhà 
xuất bản Chính trị Quốc gia, 2006
111.Văn kiện Đảng toàn tập 1 (1924 – 1930), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 
1998
112.Văn kiện Đảng toàn tập tập 36 (1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004
113.Văn phòng Chính phủ, Hội thảo Khoa học Tuyển tập các báo cáo toàn văn, Hà 
Nội tháng 9 năm 2000
114.Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân 1975, 
Bản thảo tháng 4 năm 2005
115.Viện nghiên cứu Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Đô thị hóa ở Sài Gòn – thành 
phố Hồ Chí Minh từ góc nhìn Lịch sử - Văn hóa, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố 
Hồ Chí Minh, 2008


116.Viện nghiên cứu Xã hội thành phố Hồ Chí Minh, Khoa học Xã hội thành phố Hồ 
Chí Minh Những vấn đề nghiên cứu, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 
2009
117.Việt Nam cộng đồng người Việt tị nạn trên thế giới 1975 – 2004, Nhóm nghiên 
cứu lịch sử Việt Nam cận và hiện đại, 2004
118.Vĩnh Sính, Nhật Bản cận đại, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh Khoa Sử 
trường Đại học Sư Phạm, 1991
119.Võ Nhơn Trí, Việt Nam cần đổi mới thật sự, Đông Á xuất bản, 2003
120.Võ Văn Kiệt, Quyết thắng trên mặt trận Văn hóa và Tư tưởng, Nhà xuất bản 
thành phố Hồ Chí Minh, 1981
121.Vũ Đình Hòe, Hồi ký Thanh Nghị tập 1, Nhà xuất bản Văn học, 1997
122.Vũ Đình Hòe, Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ, 2008
123.Vũ Mão, Ngọn cờ tiên phong, Bản thảo năm 2005
124.Vũ Quốc Thông, Pháp Chế Sử Việt Nam, Tủ sách Đại học Sài Gòn, 1971
125.Zhao Ziyang, Prisoner of the State, Simon & Schuster, 2009
126.Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 – 1885, 
Nhà xuất bản Tri thức, 2011


1
Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
2
Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
3
Đạo diễn điện ảnh.
4
Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
5
Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
6
Ngày 14-4-1975.
7
Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực thăng.
8
Trần Văn Trà, 1982, trang 254.
9
Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
10
Sđd, trang 258.
11
Sđd. Trang 261.
12
Kissinger, 2003, trang 536.
13
Kissinger, 2003, trang 543.
14
Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
15
Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
16
Larry Berman, 2001.
17
Năm 1964 khi bị "chỉnh lý" bởi Tướng Nguyễn Khánh, "Quốc trưởng" Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, 
nhưng ông Minh và những người của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có người vẫn gọi ông 
là trung tướng.
18
Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói 
rằng anh mình đã biến chuyển rất nhiều bởi “binh vận”.
19
Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất 
tại Boston, Mỹ.
20
Trong cuốn Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, Tướng Trần Văn Trà đánh giá: “Còn Minh, có lẽ do bản chất có phần thật 
thà, tin vào phù phép của tả phò Martin và hữu trợ Mérillon, nên đã bị chúng gạt ra rìa từ lâu mà đến giờ chót còn cố vươn 
vai gánh chịu cái đầu hàng vô điều kiện”(trang 283).
21
Là một nhà nghiên cứu lịch sử có nhiều công trình khảo cứu hết sức giá trị, ông Nguyễn Đình Đầu cho đến tận cuối đời 
vẫn giữ được tờ Sự Vụ lệnh do cụ Hồ Chí Minh ký, cử ông vào Nam mua gạo cứu đói năm 1945. Về sau, ông theo những 
người Công giáo di cư vào Nam. Hành động gợi ý và nhận lãnh vai trò “đi sứ” vào trại Davis của ông có lẽ nhờ sự mẫn cảm 
thời cuộc hơn là được giao nhiệm vụ. Về sau khi có tờ báo nói ông là tình báo viên của miền Bắc, ông Nguyễn Đình Đầu 
nói ông cảm thấy như là bị xúc phạm.
22
Tuyên bố ngày 26-4 gồm hai nội dung chính: “Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris (ngừng bắn), tôn trọng 
quyền dân tộc căn bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, công cụ của chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến tranh và bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam”.
23
Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
24
Sau 1975 là phó giám đốc Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh.
25
Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 176.
26
Xem Phụ lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384. 
27
Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng, sinh viên Nguyễn Hữu Thái và nhà báo Cung Văn đến Dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương 
Văn Minh tuyên bố ngừng bắn trên đài phát thanh. Họ là những người hoạt động bí mật hoặc hoạt động trong các phong 
trào do phía Cách Mạng lập ra trước năm 1975.
28
Theo Đại tá Bùi Văn Tùng: “Những ngày đầu đài báo của mình không nói rõ ai là người cắm cờ, nên đã xảy ra tranh chấp
giữa Bùi Quang Thận và đại úy Phạm Xuân Thệ. Trung tá Lữ đoàn trưởng 203 Nguyễn Tất Tài, lúc này đã trở thành Phó 
Bảo Tàng Quân đội, hỏi anh Thệ: ‘Vậy anh có giữ lá cờ Ba que không?’. Anh Thệ đưa ra một lá, anh Thận đưa ra một lá, cả 
hai cùng rách diềm. Ông Tài, trong ngày 30-4 đã cẩn thận leo lên nóc Dinh, gỡ diềm ‘cờ Ba Que’ còn vướng lại rồi lặng lẽ 
cất đi. Ông Tài cho trải cả hai lá cờ ra, ráp diềm vào mới xác nhận được lá cờ anh Thận giữ là lá cờ cuối cùng được Chính 
quyền Sài Gòn treo trên nóc Dinh Độc Lập”.
29
Tạp chí Xưa & Nay, số 258, tháng 4-2006, và số 264 tháng 7-2006
30
Sau chiến tranh là công nhân Phòng Thị chính, Thị xã Thanh Hóa.
31
Xưa & Nay, số 258 và 264, 2006.
32
Giữa năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ, lúc này đã đeo quân hàm thiếu tướng lên tiếng trên báo Quân đội Nhân dân nhận 
rằng chính ông là người bắt sống nội các Dương Văn Minh và tự tay thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc. 
Ngày 19-10-2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Quân sự đã tổ chức “Tọa đàm khoa học xung quanh sự kiện 
đánh chiếm Dinh Độc lập ngày 30-4-1975" nhưng không mời các nhân chứng có mặt trong Dinh và Đài phát thanh tại thời 
điểm trưa 30-4-1975; không mời các cán bộ, chiến sỹ của Lữ 203 và đơn vị đặc công 116. Để rồi, ngày 17-1-2006, Viện 
Lịch sử Quân sự đã ra kết luận cho rằng “Tại Đài phát thanh đồng chí Phạm Xuân Thệ cùng các cán bộ, chiến sỹ Trung 
đoàn 66 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh. Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá Bùi Văn 
Tùng, Chính ủy Lữ đoàn tăng 203 xuất hiện, Từ đó, bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 dưới sự chỉ đạo của đồng chí


Bùi Văn Tùng tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu hàng”. Ngay sau khi công bố, Kết luận của Viện Lịch sử 
Quân sử đã bị ông Bùi Văn Tùng, các các sỹ quan, chiến sỹ trên xe tăng 390 và kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, người có 
mặt tại Đài phát thanh trưa 30-4-1975, phản đối (nhiều ý kiến đăng trên hai số báo Xưa & Nay, 258- tháng 4-2006, và 264 
tháng 7-2006). 
33
Người ghi âm những tuyên bố lịch sử này là ông Nguyễn Nhã. Lúc bấy bấy giờ, ông Nguyễn Nhã là giáo sư sử địa 
Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử Địa, Đại học 
Sư phạm.
34
Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 1996, có tham khảo hồi ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” của Thượng tướng Trần 
Văn Trà.
35
Xem Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975. 
36
Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
37
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đơn vị đánh vào Cần Thơ, Vĩnh Long trong ngày 30-4-1975.
38
Phạm Văn Trà, 2009, trang 237-238.
39
Theo Văn Tiến Dũng: “Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn Hai tự sát vào lúc 3 giờ sáng ngày 1-5-1975”
,
tuy nhiên những 
người thân cận Tướng Trần Văn Hai nói ông tự sát vào chiều 30-4.
40
Văn Tiến Dũng, 1976, 305.
41
Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, ngay trong ngày 1-5-1975, Cách mạng đã biết trong kho có số vàng này, nhưng phải khi ông 
đi học tập về thì mới chính thức bàn giao. Ông Huỳnh Bửu Sơn là một trong hai người nắm giữ chìa khóa kho vàng và trực 
tiếp giao vàng cho hai người, một người bộ đội tên là Duyệt, một người về sau làm giám đốc ngân hàng Cần Thơ. Kho dự 
trữ chứa 15,7 tấn vàng, gồm: vàng thoi FRD của Mỹ, vàng thoi Montagu của Nam Phi và vàng thoi Kim Thành, có nguồn 
gốc là vàng lậu do hải quan bắt tịch thu về đưa cho hãng Kim Thành đúc lại. Ngoài ra còn có các đồng tiền vàng của Mỹ, 
Double Eagle, mệnh giá 20 USD nhưng được làm từ một lượng vàng trị giá 420 USD; đồng Pesos của Mexico; đồng vàng 
Napoleon… Ngoài số vàng hiện vật, 15,7 tấn, Ngân hàng Quốc gia còn bàn giao 5,5 tấn vàng khác đang được giữ tại Thụy 
Sỹ
(được lấy ra sau khi người Mỹ bỏ cấm vận).
42
Tên gọi thân mật của Lê Duẩn.
43
Tố Hữu.
44
Sài Gòn Giải Phóng, 2-7-1975.
45
Sài Gòn Giải Phóng, 6-5-1975.
46
Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày 8-11-1975.
47
Sài Gòn Giải Phóng, 8-11-1975.
48
Gần như hầu hết nhân viên tình báo và sỹ quan cảnh sát đều bị kẹt lại. Theo ông Phan Ngọc Vượng, cán bộ làm việc trong 
Ban R, Nha Nghiên cứu, Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo: Ngày 21-4-1975, Phủ nhận được điện từ phía Mỹ cho biết, theo 
kế hoạch di tản của Kissinger, ngày 24, 25-4-1975, tất cả cán bộ tình báo và các sỹ quan cảnh sát sẽ được đưa đi. Bức điện 
được chuyển cho Chuẩn tướng Nguyễn Khắc Bình, tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm đặc ủy trưởng Đặc ủy Trung 
ương Tình báo. Ngày 22-4-1975, khi họp để bàn về vấn đề di tản, Tướng Bình tuyên bố: “Tình báo và cảnh sát phải ở lại 
đến phút cuối cùng chứ không thể di tản trong tình hình này”. Mọi người đều cho rằng đó là một quyết định cần thiết. 
Nhưng, ngày 23-4, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam. Ngày 24-4-1975, Nguyễn Khắc Bình lặng lẽ di tản không 
một lời bàn giao cho thuộc cấp. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương bổ nghiệm ông Nguyễn Phát Lộc (đi cải tạo cho tới 
khi chết ở trại giam Nam Hà), phụ tá kế hoạch của ông Bình, làm đặc ủy trưởng. Ngày 26-4, ông Lộc cử ông giám đốc 
Trung tâm thẩm vấn quốc gia qua tòa Đại sứ Mỹ liên hệ việc thực hiện kế hoạch di tản. Ông giám đốc thay vì chuẩn bị kế 
hoạch cho các đồng sự đã tìm đường di tản với gia đình. Ngày 28-4, ông Lộc cử tiếp giám đốc nha tình báo quốc ngoại đi, 
ông giám đốc nha cũng âm thầm di tản nốt. Chiều ngày 28-4-1975, tòa Đại sứ Mỹ yêu cầu tất cả nhân viên Phủ Đặc ủy tập 
trung ở số 3 Bạch Đằng chờ. Đến chiều hôm sau, lại có yêu cầu chuyển sang số 2 Nguyễn Hậu. Tại đây, mọi người được 
yêu cầu phải nộp lại tất cả súng ống. Nhưng, tới 1 giờ sáng ngày 30-4-1975 thì tất cả liên lạc giữa Tòa Đại sứ và Phủ Đặc ủy 
đều bị cắt. Gần sáng, chuyến máy bay cuối cùng chở Đại sứ Mỹ rời khỏi Sài Gòn. Hầu như tất cả cán bộ của Phủ Đặc ủy 
tình báo, lực lượng được ưu tiên di tản khỏi Sài Gòn, đều bị kẹt lại.
49
Sài Gòn Giải Phóng, 14-6-1975.
50
Sài Gòn Giải Phóng, 14-6-1975.
51
Hiểu biết của chính quyền mới trước cách gọi các chức danh trong chế độ cũ đã gây ra không ít tình trạng trớ trêu. Sự suy 
diễn của những người chiến thắng trước những ngôn từ rổn rảng mà Chính quyền Sài Gòn thích dùng đã làm điêu đứng biết 
bao số phận. Chữ “chiêu hồi” bên cạnh chức năng “dân vận, thông tin” của cơ quan Thông tin Chiêu hồi đã khiến cho các 
quan chức thuộc loại “văn nghệ” này phải cải tạo lâu hơn những “ngụy quyền” đồng cấp. Số phận của nhiều “sỹ quan biệt 
phái” cũng khá là bi đát. Có người trong số họ do có tiền bạc hoặc ô dù, “chạy” được cái “biệt phái” từ một đơn vị tác chiến
sang văn phòng. Có khoảng 15.000 người là giáo chức, viên chức y tế, sau Mậu Thân, sau “Mùa Hè Đỏ lửa 72”, bị động 
viên vào Trường Sỹ quan Thủ Đức, huấn luyện một thời gian, nhận “lon” như một thứ quân dự bị rồi về dạy học hay chữa 
bệnh. Khi bị tập trung cải tạo, tên gọi “sỹ quan biệt phái” đã làm cho họ bị nghi ngờ: Nếu không phải “CIA” thì chắc cũng 
thuộc thành phần ghê gớm lắm. Đặc biệt, các sỹ quan ở cơ quan “Chiến tranh Chính trị” vốn chỉ đi cùng các em văn công 


xuống đơn vị đàn hát, đã bị tưởng là các “chính trị viên”, nên nhiều người đã phải chịu hơn mười năm tù tội. Những người 
tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành chánh cũng suýt bị “mục xương” vì, theo Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh 
Kim Báu, mới đầu Cách mạng tưởng trường này cũng có vai trò như “Trường Đảng”.
52
Tạ Chí Đại Trường, 1993, trang 53-54.
53
Sđd, trang 54.
54
Sđd, trang 55.
55
Sài Gòn Giải Phóng, 19-8-1975.
56
Sài Gòn Giải Phóng, 15-5-1975.
57
Bức thư nói là của ông Trần Văn Tức viết: “Em mến... Anh lúc này mạnh khỏe lắm, ăn uống nhiều hơn ở nhà, mỗi ngày 
ba bữa ăn, học tập cải tạo vui vẻ lắm, nhất là học tập về lao động để quen với nếp sống đồng quê như làm rẫy cuốc giống,
trồng tỉa chung với chúng bạn nên cảm thấy vui vẻ. Chiều ra xem mấy luống rau cải xanh um tươi tốt cũng như lúc ở nhà 
anh làm ruộng làm rẫy chiều chiều dẫn em và các con đi xem vậy. Sau ngày mãn khóa về chúng ta sẽ tìm lại nếp sống ruộng 
rẫy ở quê nhà... Ngày 29-7-75, Trần Văn Tức”. 
58
Giải Phóng, 7-8-1975.
59
“Hỏi: Trên đường đi thăm anh, chị nghĩ thế nào về anh ấy? Đáp: Hồi trước anh ấy là “cây nhậu”, nên về nhà thường bỏ 
cơm, cho nên da vàng và thân hình ốm mảnh khảnh. Tôi nghĩ khi phải học tập lao động, sợ anh chịu không nổi. Hình ảnh 
lởn vởn trong đầu tôi là một anh L ốm o, gầy mòn thân hình tiều tụy, đuổi ruồi không bay. Hỏi: Khi đã gặp anh L chị thấy 
anh ấy như thế nào? Đáp: Anh L bây giờ da sạm nắng, thân hình rắn chắc hơn trước. Tôi thấy anh ấy mập gấp đôi trước kia 
cho nên nghi anh ấy bị bịnh phù thủng, tôi có thử bấm vào cánh tay, bắp đùi coi thử có thiệt không nhưng thấy các bắp thịt 
rất cứng do đó tôi mừng vô cùng. Hỏi: Khi đến trại chị gặp anh L đang làm gì? Đáp: Khi đến trại tôi gặp anh C tiểu đoàn 
trưởng đang ở trần chơi vô lây (bóng chuyền). Tôi đã òa lên khóc vì vừa mừng vừa tủi, đến 11 giờ anh L đi làm về gặp tôi. 
Anh L đã bỏ ăn trưa để được nói chuyện, hỏi thăm tin tức bà con ở Sài Gòn. Hỏi: Chị thấy anh em ăn uống như thế nào? 
Đáp: Tôi không dự buổi ăn tập thể, nhưng anh có đem cho tôi bắp nấu, cơm thịt chả bông cho tôi. Tôi hỏi có hụt phần ăn 
của anh không? Anh L cho biết, ở đây ăn uống rất đầy đủ, ở đây gần suối nên anh em câu được cả cá lóc nữa. Trưa tôi ở đó 
thì anh em câu được một con và quyết định nấu cháo vào buổi chiều. Hỏi: Chị thấy anh em cán bộ tập huấn như thế nào? 
Đáp: Các anh ấy rất tốt. tôi có mang theo mấy số Tin Sáng, các anh ấy và anh em học tập cùng chia nhau đọc. Mấy anh cán 
bộ cứ hỏi thăm tôi về Sài Gòn hoài. Trên nguyên tắc, mỗi người thăm chồng được hai giờ, nhưng thông cảm tôi từ Sài Gòn 
ra, hơn nữa vợ chồng lâu ngày mới gặp nên các anh cán bộ đã tế nhị sắp xếp cho vợ chồng tôi được gặp riêng và nhiều giờ 
hơn. 
60
Trả lời phỏng vấn tác giả.
61
Trả lời phỏng vấn tác giả.
62
Ký giả Lô Răng.
63
Nhà văn, nổi tiếng với tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa, viết về Chiến dịch Quảng Trị 1972.
64
Sau Hiệp định Paris năm 1973, Đại úy Phan Nhật Nam là trưởng Ban Hoạt vụ của Ban Trao trả Tù binh thuộc phía Việt 
Nam Cộng hòa trong Ủy ban liên hiệp bốn bên thi hành Hiệp định Paris. Ông Nam kể: “Hàng tuần, vào ngày thứ Sáu, tôi lại 
bay ra Hà Nội để nhận tù binh. Thứ Sáu, ngày 4-3-1973, khi tôi ra Hà Nội, Thiếu tá Bùi Tín, lúc ấy là sỹ quan báo chí của 
Tướng Lê Quang Hòa, gặp và vận động tôi ở lại miền Bắc. Tôi nhận lời. Ông Phạm Văn Đồng viết tư văn gửi xuống Hải 
Phòng mời ba tôi lên. Bùi Tín cho tổ chức một cuộc họp báo tại sân bay Gia Lâm. Khi mọi người đã an tọa, ước có khoảng
hơn hai mươi nhà báo trong đó có các nhà báo Đông Âu và có cả một nhà báo Pháp. Tôi mở cặp, lấy cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa 
và một tập nhạc, rồi nói: Tôi sinh ra ở Huế, nơi năm Mậu Thân, các ông cộng sản đã thảm sát hơn 3.000 người. Còn đây là 
cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa, viết về Quảng Trị, nơi, vào ngày 29-4-1972, tôi đã chụp những hình ảnh chết chóc trên Đại lộ Kinh 
hoàng. Đây là mười hai nhạc sỹ du ca, không có ai trong họ ca ngợi chiến tranh. Chúng tôi không gây chiến tranh… Tới đó, 
ông Bùi Tín bảo tôi: Thôi Nam, về”. Về Sài Gòn, theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Tôi viết cuốn Tù binh và Hòa bình, xuất 
bản năm 1974 bởi nhà xuất bản Hiện Đại, tại trang 174, tôi cho rằng: Rồi đây, chúng ta sẽ là tù binh trong một nền hòa bình 
ngụy danh. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sẽ lần lượt đóng hết vai trò đoản kỳ của nó. Và 
trận cuối cùng vẫn là giữa chúng ta với những sư đoàn chính quy chủ lực Bắc Việt qua tấm đệm ba mầu, lá cờ Mặt trận - thứ 
phế phẩm sẽ nhanh chóng bị vất bỏ khi trận chiến tàn cuộc”.
65
Ông Phan Nhật Nam phủ nhận các nguồn tin nói rằng ông cự tuyệt gặp người cha cộng sản.
66
Ủy viên Trung ương khóa IV, VI.
67
Biên bản giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975.
68
Một nhà báo quê Hải Phòng, chủ nhiệm báo Sống tại Sài Gòn trong thập niên 1960, sinh năm 1917. Ngày 30-4-1975 ông 
bị chết bởi một trái đạn B40 ở cửa biển Cần Giờ khi đang rời Việt Nam trên con tàu Việt Nam Thương Tín. 
69
Biên bản giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975.
70
Lực lượng Dân quân Phục quốc do Thượng sỹ Nguyễn Việt Hưng thành lập vào tháng 8-1975. Một số linh mục di cư đã 
tham gia như linh mục Nguyễn Hữu Nghị, nhà thờ An Lạc, linh mục Nguyễn Quang Minh, nhà thờ Vinh Sơn. Lực lượng 
này còn thu nhận một số sỹ quan trốn học tập cải tạo khác như trung tá Phạm Văn Hậu, trung tá Trần Kim Định và một 
người mà Cách mạng gọi là CIA, ông Nguyễn Khác Chính. Ông Nguyễn Việt Hưng tự phong cho mình quân hàm “thiếu 
tướng”, giữ chức “Tư lệnh quân đoàn biệt chính và biệt khu thủ đô”.


71
Theo Dương Đức Dũng, bài hát do Hùng Cường sáng tác.
72
Hồ Con Rùa là một trong những vị trí được xây dựng sớm nhất ở Sài Gòn. Vào năm 1878, người Pháp xây ở đây một tháp 
nước. Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không còn đủ sức đáp ứng nhu cầu cung cấp nước nữa và con đường, chạy 
từ sau lưng nhà thờ Đức Bà, được mở rộng và nối dài đến đường Mayer (về sau đổi Hiền Vương, nay là Võ Thị Sáu)
, từ đó 
vị trí này trở thành giao lộ với tên gọi là Công trường Maréchal Joffre. Người Pháp đã từng cho xây ở đây tượng đài ba binh 
sĩ Pháp bằng đồng với một hồ nước nhỏ, biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông Dương. Các tượng đài này tồn tại 
đến năm 1956 thì bị phá bỏ, chỉ còn lại hồ nước. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Từ 1970 đến 1974, 
Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang, được dựng thêm và điều chỉnh năm cột bê tông cao có dạng năm bàn tay 
xòe ra đón đỡ giống như các cánh hoa đón đỡ một nhụy hoa, mang tên Công trường Quốc Tế.
73
Sài Gòn Giải Phóng, 3-4-1976.
74
Giải Phóng, 3-4-1976.
75
Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 106.
76
Sđd, trang 106.
77
Sđd, trang 3.
78
Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 106-107.
79
Lỗ Hung khai: “Lầu Phá Xấu và tôi đã đột nhập vào thành phố bằng các ngả đường do chúng tôi điều nghiên trước, và có 
chở theo 10 kí chất nổ TNT lấy từ Bàu Hàm, Đồng Nai. Lúc đến thành phố, Lầu Phá Xấu đưa cho tôi một số tiền khá lớn để 
thực hiện việc đặt chất nổ, đồng thời hắn bảo tôi đến nhà thờ Đức Bà để gặp một thanh niên mặc áo bộ đội ngồi ngay dưới
chân tượng Đức Mẹ. Lầu Phá Xấu giới thiệu Rănggô - tên kẻ bụi đời cho tôi… Tôi chỉ cách cho hắn đem cái hộp để dưới 
bụng con rùa đồng và chỉ cách rút tờ giấy mười đồng ra khỏi cái hộp. Tôi cũng giao ước một cách chắc chắn rằng khi hắn 
đem tờ giấy 10 đồng ấy lại đưa cho tôi thì tôi sẽ thưởng cho hắn 2.000 đồng. Rănggo nghe đến tiền thì mắt sáng lên, hắn vui 
vẻ nhận lời không một chút đắn đo… Lúc nhắc điều ấy tôi biết rất chắc hắn sẽ chết không toàn thây vì tờ giấy 10 đồng chỉ 
là một vật cách điện mong manh, rút nó đi, chiếc hộp đựng đầy TNT sẽ phát nổ tức khắc!”. Theo Huỳnh Bá Thành: “Cấu 
tạo kíp nổ để giết luôn kẻ đặt chất nổ là phương pháp bịt đầu mối dã man mà bọn chuyên trách vũ trang phá hoại của CIA 
và bọn biệt kích Mỹ thường sử dụng” (Huỳnh Bá Thành, Sđd, trang 108).
80
Người mà trong cuốn sách Huỳnh Bá Thành gọi là Lê Dạ và Tú Dung.
81
Người trong cuốn sách của Huỳnh Bá Thành được đổi thành Hoàng Hà Đặng. 
82
Đặng Hoàng Hà bị bắt, sau khi ra tù thì vượt biên. Tuy nhiên, trong “Vụ Án Hồ Con Rùa”, nhân vật Hoàng Hà Đặng 
không phải bị bắt mà chạy thoát vào rừng. Đây là một vụ án có nhiều nghi vấn, nếu Đặng Hoàng Hà là thủ phạm của vụ nổ 
thì Chính quyền hoàn toàn có thể ngăn chặn vì “Ba Sơn”, một người do công an cài vào, biết trước từng đường đi nước 
bước của “tổ chức” này.
83
Duyên Anh, 1987, trang 48.
84
Sđd, trang 49.
85
Duyên Anh, 1987, trang 18-19.
86
Trà Mi, đặc tình trong “Vụ án Hồ Con Rùa”, nói: “Anh biết tại sao bọn phá hoại đặt chất nổ tại hồ Con Rùa không? Theo 
Đặng, lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên nắm chính quyền, Thiệu đã cho một cố vấn chính trị qua Đài Loan mời một 
thầy địa lý về giúp Thiệu coi hướng để xây Dinh Độc Lập. Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã giới thiệu một thầy địa lý nổi 
tiếng có một không hai trên thế giới. Thầy địa lý đó đã qua Sài Gòn ở trên sáu tháng. Trong thời gian ấy, Giáo sư Chung 
Chen Kim - tên thầy địa lý - đi xem xét vùng đất ngay Dinh Độc Lập và xung quanh Dinh Độc Lập, đã phát hiện một ‘long 
mạch’ rất tốt dưới mặt đất. ‘Long mạch’ đó có cái đầu ‘long’ nằm ngay phần đất Dinh Độc Lập và có cái đuôi “long” ở 
công trường chiến sĩ… thầy địa lý Đài Loan bày Thiệu xây một cái dinh đồ sộ ở đầu rồng. Để cho Phủ Đầu rồng tức Dinh 
Độc Lập được yên ổn, tổng thống Thiệu cai trị được muôn năm, đồng thời phải xây một cái hồ ở đuôi rồng và ếm một con 
rùa để cho đuôi rồng khỏi quật lật, vùng vẫy. Nếu đuôi rồng vùng vẫy thì đầu rồng lắc lư dễ sụp đổ ngai vàng. Thiệu tin, 
công trường Chiến sĩ được phá đi để xây Công trường Quốc tế tức hồ Con Rùa. Nhóm Hoàng Hà Đặng mê tín như Thiệu. 
Chúng tin rằng nếu đặt chất nổ làm bay con rùa đồng, không còn ếm được đuôi rồng nữa, ắt đuôi này sẽ quẫy và chế độ 
cộng sản phải sụp đổ! Chính lòng mê tín của Đặng và đồng bọn, em tin rằng kế hoạch phá hoại hồ Con Rùa có sự tham gia 
của Hoàng Hà Đặng và Hoàng Sơn Cước”
(Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 120-121).
87
Duyên Anh, 1987, trang (?).
88
Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, 1975-1995, cuốn I.
89
Trong chiến dịch từ 2-4-1976 đến 28-4-1976, giới nhà văn, nhà thơ bị bắt gồm: Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, Trần 
Dạ Từ, Nhã Ca, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Thế Viên, Thái Thủy, Mặc Thu, Vũ Hoàng Chương, Duyên Anh, (ngoài ra 
còn có: Nguyễn Sĩ Tế bị bắt trước chiến dịch vì bị “tình nghi trong tổ chức phản động”; Hồ Hữu Tường bị bắt năm 1977; 
Hoàng Hải Thủy bị bắt năm 1977, can tội gởi bài vở ra nước ngoài; Nguyễn Đình Toàn bị bắt năm 1977, can tội âm mưu 
vượt biên; Nguyễn Thụy Long bị bắt năm 1977, can tội phản động; Nhà thơ duy nhất được đưa ra tòa kết án 18 năm khổ sai 
lao động là Tú Kếu “trong tổ chức chống phá cách mạng”); Nhà báo bị bắt gồm: Đằng Giao, Chu Thị Thủy và đứa con mới
sinh được vài ngày, Hồng Dương, Thanh Thương Hoàng, Văn Kha, Hồ Nam, Đào Xuân Hiệp, Như Phong, Nguyễn Văn 
Minh, Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Xuyên Sơn, Cao Sơn, Đặng Hải Sơn, Đặng Hoàng Hà, Lê Vũ Bắc Tiến, Sao Biển, 
Nguyễn Văn Mau, Hồ Văn Đồng, Lê Hiền, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Tô Ngọc, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, Vương 


Hữu Đức, Mai Thế Yên, Tô Kiều Phương, Mai Đức Khôi, Lê Trọng Khôi, (Ngoài ra còn Nguyễn Tú bị bắt từ đêm 30-4-
1975 và đã chết ở khám Chí Hòa vì bại liệt; Trần Việt Sơn cũng bị bắt trước chiến dịch 2-4-1976, được tha sau 3 năm tù đày 
và đã chết trong khoảng tháng 9-1983). Đạo diễn điện ảnh bị bắt gồm: Hoàng Vĩnh Lộc, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, 
Đặng Minh Khánh; Soạn giả cải lương bị bắt gồm: Mộc Linh; Giám đốc các nhà phát hành bị bắt gồm: Nam Cường, Đồng 
Nai, Độc Lập, Khai Trí (Nhà sách Khai Trí); Họa sĩ bị bắt gồm: Nguyễn Hải Chí (Chóe); Dịch giả bị bắt gồm: Nguyễn Hữu 
Hiệu, Nguyễn Hữu Trọng.
90
Duyên Anh, 1987, trang 51-52.
91
Duyên Anh, Sđd, trang 51-52.
92
Trả lời phỏng vấn tác giả năm 1999.
93
Tháng 2-1976, ông Nguyễn Ngọc Bích được mời lên cơ quan công an. Cán bộ hỏi cung đặt vấn đề: “Tại sao 15-4 mới 
được nhận vào mà Tổng cục đã cho làm chuyên viên đặc nhiệm ngay?”. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích bị giam trong xà lim 
loại dành cho tử tù suốt một năm và khi bị hỏi cung: “Anh biết gì về kế hoạch hậu chiến; trong đó, anh được giao nhiệm vụ 
gì?”, ông đoán ra, “Cách mạng nghĩ ông là người do Mỹ cài lại”. Hai năm sau, khi đã được đưa ra phòng giam chung, khi 
“được” thẩm vấn, luật sư Nguyễn Ngọc Bích phân bua: “Lưng tôi bị gù thế này làm sao được tuyển làm tình báo!”. Khi ấy, 
những người hỏi cung dường như vô tình nói ra lý do khiến ông bị bắt: “Anh là người do Mỹ đào tạo, anh sẽ chống chúng 
tôi đến cùng”.
94
Theo nhà báo Đinh Quang Anh Thái, “Ba ngày ở phòng 2 khu A trước khi chuyển sang trại giam T30 Chí Hòa... về việc 
bác và tổ chức của bác Năm (tên thân mật của Hồ Hữu Tường) bị bắt, bác cho biết, ngay khi cộng sản chiếm miền Nam, bác 
đã in một tập tài liệu của Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất-Trung Lập Đồng Minh Hội, rồi gởi trực tiếp bằng đường bưu 
điện cho tất cả giới lãnh đạo Đảng Cộng sản, từ Bộ Chính trị cho đến các trung ương ủy viên và tỉnh ủy các tỉnh. Trong tài 
liệu, bác nói rõ về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải trung lập trong bối cảnh tình hình của khu vực Á Châu. Bác khẳng quyết
rằng, trung lập là giải pháp duy nhất cho Việt Nam, và bác là người đầu tiên của Việt Nam kiên trì đeo đuổi lập trường này. 
Nên, một mai khi tình thế bị o ép, cộng sản Hà Nội phải nhượng bộ để chấp nhận trung lập thì họ sẽ bắt buộc phải cậy nhờ
đến bác...”. 
95
Theo Giáo sư Hồ Huệ Tâm.
96
Đã đổi tên theo đề nghị của nhân chứng.
97
Những văn nghệ sỹ phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa đi trình diện học tập từ tháng 6-1975: Thanh Tâm Tuyền, 
Mai Trung Tĩnh, Dương Hùng Cường, Hà Thượng Nhân, Phan Lạc Phúc, Tô Thùy Yên, Văn Quang, Thảo Trường, Duy 
Lam, Phan Nhật Nam, Huy Vân, Đặng Trần Huân, Hoàng Ngọc Liên, Diên Nghị, Phan Lạc Giang Đông, Vũ Đức Nghiêm, 
Vũ Văn Sâm (Thục Vũ), Đỗ Tiến Đức, Minh Kỳ, Thế Uyên, Vũ Thành An, Dương Kiền, Đinh Tiến Luyện, Nhật Bằng; 
Những người chết trong trại cải tạo: Minh Kỳ, Thục Vũ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Tú, Huy Vân; Những người chết sau 
khi được tha: Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh, Trần Việt Sơn; Những người được 
tha rồi bị bắt lại: Hoàng Hải Thủy, Dương Hùng Cường, Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Đình Toàn; Những người mới bị bắt từ 
tháng 4-1984: Nguyễn Hoạt, Phạm Thiên Thư (danh sách của nhà văn Duyên Anh).
98
Duyên Anh, 1987, trang 47.
99
Duyên Anh, 1987, trang 417.
100
Một loại dược phẩm chế từ một thứ cây có tên gọi là xuyên tâm liên.
101
Duyên Anh, Sđd, trang 245-247.
102
Gồm hai mươi bảy tướng ra trình diện và Tướng Lý Tòng Bá bị bắt tại Củ Chi.
103
Phan Lạc Phúc, 2000, trang (?).
104
Bài giảng nhân tuần tĩnh tâm cho Giáo triều Roma, theo chỉ định của Đức Giáo Hoàng John Paul II, ngày 18-3-2000.
105
Ông Phan Lạc Phúc viết: “Anh em từ trong Nam ra cứ yên trí là “học tập một tháng”, nên quần áo mang đi theo làm gì 
nhiều cho nặng. Ra đây, đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh càng 
thêm thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ các thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, 
mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà 
cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo… Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn 
La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay (1976). Đúng là ‘Giậu đổ bìm leo’, vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng
ngay một trận rét kinh hồn…Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có quan hệ ‘hữu cơ’ với nhau. Càng đói thì càng rét-mà càng rét 
thì càng đói. Anh em đã có người ‘nằm xuống’ vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng sáng 17-11-
1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay ngày 13 tháng 
giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Qúy Thuyết, Tòa án Quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng 
ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của 
anh Ngô Qúy Thuyết, có nói rằng: ‘Anh Ngô Qúy Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. 
Chắc là bị ngộ độc nên đã chết’… Trước khi đi cải tạo, tháng 6-1975, tôi cân nặng 64 ký. Một năm cải tạo trong Nam, qua 
trại Long Giao và Suối Máu, tôi còn 56 ký. Ra Bắc đến trại 1, liên trại 2 Sơn La này được hơn một năm, tôi còn 44 ký. 
Trước đây ở Sài Gòn, sáng nào tôi cũng phải tập thể dục để cho cái bụng bớt mỡ, nhỏ đi. Bây giờ ra Bắc lao động cải tạo, 
nhờ ơn Cách mạng bụng tôi không những nhỏ đi mà còn xẹp lép. Trước đây ăn uống sợ mỡ, sợ đường thì bây giờ sao mà 
thèm đường thèm mỡ đến thế. Thèm suốt ngày, suốt đêm, thèm cả vào trong giấc ngủ” (Bạn Bè Gần Xa, trang 60-67, Văn 


Nghệ California, US, 2000).
106
Tạ Chí Đại Trường, 1993, trang (?).
107
Sđd, trang (?).
108
Trịnh Cung, trả lời phỏng vấn tác giả.
109
Tạ Chí Đại Trường, 1993, trang (?).
110
Theo tài liệu lưu giữ tại Bảo tàng Việt Nam ở San Jose (California, Mỹ), tổng số quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
năm 1975 là 980.000 người, trong đó, hạ sỹ quan binh sỹ chiếm 890.000 người. Số sỹ quan bị giam giữ trong các trại cải 
tạo: cấp tướng, 32 người (ở thời điểm 30-4, có 112 tướng tại ngũ; 80 tướng đã rời Việt Nam vào cuối tháng Tư); cấp đại tá, 
366 người (trên tổng số 600 người tại ngũ); cấp trung tá, 1.700 người (trên tổng số 2.500 người); cấp thiếu tá, 5.500 người 
(trên tổng số 6.500 người); cấp úy, 72.000 người trên tổng số 80.000 người. Ngoài ra, theo số liệu đăng ký trên toàn miền 
Nam còn có khoảng 15.000 hạ sỹ quan an ninh, tình báo và nhân viên thuộc Bộ Nội vụ và Phủ Tổng thống; 1.200 viên chức 
và cán bộ “Phượng Hoàng”; 4.553 cán bộ Xây dựng Nông thôn; 19.613 cảnh sát viên; 2.700 cán bộ tâm lý chiến; 315 nghị 
sỹ, dân biểu; 4.451 đảng viên các đảng đối lập với Chính phủ Sài Gòn; 101 lãnh tụ chính trị và thành phần đối lập; 380 văn 
sỹ, ký giả (Trần Trung Quân, Việt Nam 20 Năm 1975-1995, Đông Tiến xuất bản).
111
Ngoài bốn vị tướng và đại tá được hưởng ân huệ cải tạo dưới ba năm như: Thiếu tướng Quân y Vũ Ngọc Hoàn; Chuẩn 
tướng Quân y Phạm Bá Thanh; Ðại tá Nguyễn văn Lộc, Tư lệnh Sư đoàn 106 Biệt Ðộng Quân vừa thành lập cuối tháng 4-
1975; Ðại tá Dương Thanh Sơn, em ruột Tổng thống Dương Văn Minh. Ðại tá Ðàm Trung Mộc, cựu viện trưởng Học viện 
Cảnh sát Quốc gia, mất tại trại Hà Tây vào ngày 14-11-1982. Có bốn vị bị cải tạo trên mười năm: Cựu Trung tướng Nguyễn 
Hữu Có; Cựu Ðề đốc Trần Văn Chơn; Cựu Thiếu tướng Nguyễn Chấn Á; Cựu Thiếu tướng Phan Ðình Thứ. Có ba mươi sáu 
vị bị cải tạo tập trung từ 12 đến 17 năm: Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị bắt khi Phan Rang thất thủ; Chuẩn tướng Phạm 
Ngọc Sang, bị bắt cùng Tướng Nghi; Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm; Chuẩn tướng Lê Trung Tường; Chuẩn tướng Huỳnh Văn 
Lạc; Thiếu tướng Lê Minh Ðảo; Chuẩn tướng Mạch Văn Trường; Thiếu tướng Lý Tòng Bá; Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh; 
Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai; Chuẩn tướng Phạm Duy Chất; Ðại tá Nguyễn Thành Trí; Ðại tá Lê Hữu Ðức; Chuẩn tướng Lê 
Văn Thân; Chuẩn tướng Lê Trung Trực; Ðại tá Nguyễn Xuân Hường; Ðại tá Nguyễn Đức Dung; Chuẩn tướng Trần Quang 
Khôi; Ðại tá Trần Ngọc Trúc; Thiếu tưóng Trần Bá Di; Chuần tướng Vũ Văn Giai; Chuẩn tướng Lê Văn Tư; Thiếu tướng 
Văn Thành Cao; Thiếu tướng Ðoàn Văn Quảng; Trung tá Bùi Thế Dung; Ðại tá Hải quân Nguyễn Văn May; Ðại tá Hải 
quân Nguyễn Bá Trang; Ðại tá Hải quân Nguyễn Văn Tấn; Thiếu tướng Cảnh sát Bùi Văn Nhu (chết tại trại Nam Hà); Cựu 
Thiếu tướng, Nghị Sĩ Huỳnh Văn Cao; Chuẩn tướng Hồ Trung Hậu; Ðại tá Nguyễn Khắc Tuân (chết tại trại Nam Hà); Ðại 
tá Lại Ðức Chuẩn; Ðại tá Phạm Bá Hoa; Ðại tá Ngô Văn Minh; Ðại tá Vũ Ðức Nghiêm.
112
Trả lời phỏng vấn tác giả.
113
Trong năm 1975, báo Sài Gòn Giải Phỏng không chỉ đặt dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh mà còn 
đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Tác giả những bài xã luận viết trong giai đoạn này là ông Võ Nhân Lý, 
tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng. Ông Lý lúc ấy còn là phó Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, cơ quan do ông Nguyễn 
Văn Linh làm trưởng ban. Những bài xã luận, theo ông Tô Hòa, phó Tổng Biên tập Sài Gòn Giải Phóng từ 5-1975, thường 
được ông Võ Nhân Lý viết sau khi dự giao ban trong Dinh Độc Lập và quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Cục.
114
Sài Gòn Giải Phóng, 12-6-1975.
115
Sài Gòn Giải Phóng, 15-6-1975.
116
Trả lời phỏng vấn tác giả tháng 12-2004.
117
Sài Gòn Giải Phóng, 10-9-1975.
118
Diễn biến “Chiến dịch X-2” được mô tả: “Ta đã huy động hơn một vạn nhân lực, kết hợp giữa lực lượng an ninh, quân 
sự, kinh tài, tuyên huấn và đội ngũ cán bộ dân chính đảng, thành lập 7 đoàn, 60 đội và 10 ngàn công nhân lao động, học 
sinh, sinh viên trực tiếp tham gia đánh vào mục tiêu đã định. Ta đã bắt được các đối tượng chủ yếu, chiếm lĩnh các cơ sở xí 
nghiệp, kho tàng. Chỉ trong hai ngày 10 và 11-9-1975, ta đã huy động hơn 70 vạn quần chúng nội, ngoại thành, cả người
Việt lẫn người Hoa, từ tầng lớp quần chúng cơ bản đến tiểu thương, tiểu chủ và tư sản dân tộc, tổ chức mít- tin, biểu tình, 
sôi nổi lên án và yêu cầu trừng trị bọn tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ…” (Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ 
Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20).
119
Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20.
120
Một người, rất có thể là con gái của chủ “hãng gà 7.000 con”, là chị Nguyễn Thị Ngọc Dung. Tháng 9-1975, khi đang 
học tại trường Đại học công San Francisco (Mỹ), chị Dung nhận ra “trang trại nuôi gà” của nhà mình trong một phóng sự do 
các nhà báo nước ngoài bị kẹt lại Sài Gòn thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động được Chính quyền tổ chức nhằm tuyên 
truyền về "hoạt động tốt đẹp bình thường sau chiến thắng". Chị Dung viết: “Tôi chắc, vì đấy là trang trại của gia đình tôi 
gần Thủ Đức. Khi bất ngờ nhìn thấy, quả thực tôi có hốt hoảng vì đấy là chuyện tình cờ không bao giờ ngờ được… Tôi lo 
tới quặn đau cả người. Lo vì những người gọi là coi trại không có mặt nào tôi quen cả. Những gì mình không biết, không 
được biết chỉ khiến nỗi lo thêm nặng, thêm lớn. Cái đau này không phải là cái đau tưởng tượng hay cái đau tâm tưởng mà 
người ta hay nói, ở tôi nó là cái đau thể chất”.
121
Kết quả “đánh tư sản” trước Chiến dịch X-2: “Về bột ngọt, hộ Đào Mậu, Hứa Quang, ta bắt được 4 đối tượng chính và 
bắt thêm 8 tên thư ký và tài phú, có khai thác nhưng chưa được gì thêm. Số lượng bột ngọt cũ là 2 tấn và 60 tấn nguyên liệu. 
Nhưng đã phân tán nhuyễn nhiều lần khắp các đại lý nhỏ nên không còn nhiều hàng hóa trong kho, để trốn thuế, chúng 


chuyển nợ cho đại lý, mỗi đại lý nợ công ty đến 600 triệu – ít nhất là 100 triệu. Ta có sơ hở trong việc triển khai nghị quyết
đối với đại lý 1000kg trở lên... Vì đã động ổ, chúng đã phân tán hết dự trữ, do đó đang tiến hành nghiên cứu để gắn vào 
đánh trong đợt X-2 tiếp. Cần liên hệ với Tư Pháp Tòa án để hình thành các tòa án xử công khai trước khi ta vô đợt... Cần tập 
trung truy đối tượng ta bắt giữ, trong số này phải lọc một vài tên đầu sỏ để khui coi nó giấu vàng ở đây. An Ninh và Hoa 
Vận (Sáu Lâm), tổ chức bắt ngay, bắt tên chủ hàng Việt Hoa trong vụ tàu để khai thác. Chú ý con đường xuất cảnh của 
ngoại kiều, An Ninh, Ngoại vụ Thuế Quan cần kết hợp kiểm soát chặt. Vừa qua có phát hiện lọt lưới một số CIA, đi rồi mới 
biết, có hiện tượng hối lộ cán bộ để đi. Khai thác thêm 2 tên Y và Phôi buôn vàng lậu hồi ngụy qua mặt Thiệu, có thể đó là 
bọn CIA... Đối với số vàng tư trang đem đến tiệm mướn làm. Nếu có hóa đơn thì trả lại cho chủ. Nếu có tình nghi thì điều 
tra xong sẽ giải quyết. Đồng ý xuất tiền đã giao ngân hàng để trả lại các đối tượng chi tiêu tiền ăn, tiền điện nước” (Biên 
Bản Giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975, Thư ký Hà Phú Thuận ghi). 
122
Những Sự kiện Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 23.
123
Sđd, trang 25.
124
Những Sự kiện Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 25.
125
Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975.
126
Bài báo viết: “Ngay khi ra đời, tờ bạc Sài Gòn đã không hề có được một chức năng kinh tế nào… Nhiệm vụ của đồng 
bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ… Làm trung 
gian để tiêu thụ xương máu nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền Nam, làm 
trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức 
của tuổi trẻ miền Nam, làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi nhục như các tên chủ 
của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn 
khởi, hồ hởi cho nhân dân ta” (Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975).
127
Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975.
128
Diễn viên điện ảnh nổi tiếng trong phim “Đời Cát”, đầu thập niên 2000, từng tham gia một vai phụ trong phim The Quiet 
American của đạo diễn Phillip Noyce.
129
Theo Mai Hoa, tài sản của gia đình cô chỉ chính thức bị mất vào tháng 3-1978 trong đợt cải tạo công thương nghiệp tư 
doanh, khi đó, cha cô bị buộc phải ký giấy “hiến” trại cưa cho Nhà nước.
130
Ông Trần Kiêm Đoàn hiện định cư tại Sacramento, California, Mỹ.
131
Báo Sài Gòn Giải Phóng, 3-9-1975.
132
“Cùng với Mỹ lũng đoạn kinh tế Miền Nam, xuất ít, nhập nhiều làm vật giá leo thang, lao động thất nghiệp; dùng đồng 
tiền đặt tay chân vào bộ máy chính quyền; đầu cơ tích trữ, mua rẻ bán đắt; thông qua đại lý tổ chức buôn lậu; xuyên tạc phá 
hoại các chủ trương của chính phủ; hối lộ, mua chuộc, gây chia rẽ đội ngũ cách mạng; vơ vét rồi tuồn hàng ra chợ trời; mua
vàng, hạt xoàn tích trữ và in bạc giả; tung tin ‘Bột ngọt bị đưa ra Bắc’, ‘Xăng dầu sẽ cạn’; thông đồng với bọn phản động 
chính trị…”
133
Tin Sáng, 10-9-1975. 
134
Sài Gòn Giải Phóng, 28 & 29-7-1977.
135
Nội dung luận tội của Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn với “tên tư sản mại bản” Lưu Trung: “Trong thời gian tiến hành 
chiến tranh xâm lược đất nước ta, một số chính trị gia Mỹ, trong đó nổi bật là Guy Pao-ơ, đã vạch ra âm mưu xảo quyệt gọi 
là “liên minh giữa quân đội và nông dân”. Âm mưu này dùng viện trợ kinh tế để biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy 
quyền, mua chuộc và lừa mị nông dân. Chúng đã tính từng đường đi nước bước rất thâm độc: một là, chúng đưa máy móc 
vào nông thôn, bước đầu cơ giới hóa một số khâu, đưa năng suất tăng lên. Hai là, khi sản lượng lúa gạo tăng, chúng tìm mọi 
cách vơ vét, kể cả thủ đoạn mở những cuộc hành quân càn quét cướp bóc, để phục dịch cho quân đánh thuê ngày càng phình 
to tới hàng triệu người. Ba là, nhờ có cơ giới hóa nông nghiệp, chúng làm giảm đi một lực lượng lao động lớn ở nông thôn 
và với chính sách đôn quân bắt lính, bổ sung nguồn lính đánh thuê để kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược...” (Sài Gòn Giải 
Phóng, 29-7-1977).
136
Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977.
137
Sài Gòn Giải Phóng, 29-7-1977.
138
Biên bản giao ban tối 10-9-1975 của Ủy Ban Quân quản, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí 
Minh
139
Tài liệu đã dẫn.
140
Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975, lưu trữ tại Thư 
viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
141
Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975, lưu trữ tại Thư 
viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
142
Sài Gòn Giải Phóng, 12-9-1976.
143
Tuyên bố ngày 25-9-1976 của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
144
Theo Tuyên bố ngày 25-9-1976: “Xí nghiệp công tư hợp doanh là một xí nghiệp trước đây là của tư nhân, nay do Nhà 
nước và người chủ cũ (hoặc người đại diện) của xí nghiệp cùng nhau quản lý. Nhà nước giữ địa vị lãnh đạo; quyền lợi hợp 
pháp của các cổ phần tư nhân được Nhà nước bảo hộ. Các quyền lợi cơ bản của công nhân, viên chức trong xí nghiệp được 


nhà nước đảm bảo” (Phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh ký).
145
Danh mục các ngành nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh gồm: “Tư bản tư doanh được khuyến khích, đầu 
tư vào các ngành khai thác, chế biến nông sản, lâm sản, hải sản, thổ sản, các ngành công nghiệp, tiểu công nghiệp khác theo 
sự hướng dẫn của Nhà nước”. Trong lĩnh vực nông nghiệp: “Tư bản tư doanh được tiếp tục kinh doanh, khai thác các đồn 
điền, trồng cây công nghiệp, cây ăn trái, được duy trì và mở rộng các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm, cơ sở nuôi cá… 
công nghiệp tập trung, được tiếp tục kinh doanh các loại máy móc nông nghiệp, đào giếng, khoan giếng, thi công các công 
trình nông nghiệp, thủy lợi”. Trong lĩnh vực xây dựng: “Tư bản tư doanh được hướng dẫn kinh doanh khai thác và sản xuất 
các vật liệu xây dựng, được duy trì chế độ nhà thầu tư nhân dưới sự quản lý của nhà nước”. Trong lĩnh vực vận tải: “Ngoài
các ngành đường sắt, đường biển viễn dương, đường hàng không thuộc phạm vi độc quyền kinh doanh của Nhà nước, tư 
bản tư doanh được kinh doanh trong các ngành vận tải đường sông, một phần đường ven biển (thuyền, ca-nô) và đường bộ 
(ô tô chở khách, chở hàng hóa), dưới sự quản lý và hướng dẫn của Nhà nước; được duy trì các xí nghiệp để đóng mới hoặc 
sửa chữa phương tiện vận tải, hoặc nhận thầu làm cầu, đường phục vụ nhu cầu dân sinh, kinh tế địa phương”. Trong lĩnh 
vực “thương nghiệp và dịch vụ phục vụ: “Việc bảo đảm phân phối các mặt hàng thiết yếu và quan trọng cho đời sống của 
nhân dân là do Nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm. Vì vậy phải phát triển mạnh thương nghiệp quốc 
doanh và mạng lưới rộng rãi hợp tác xã mua bán và các hình thức tổ chức khác của quần chúng để tham gia việc bán lẻ. Nhà 
nước nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nước và hầu hết hàng hóa thiết yếu để có kế 
hoạch bảo đảm sản xuất và đời sống. Nhà nước sẽ nắm hầu hết xuất nhập khẩu và cả bán buôn trong nước”. (Tóm tắt Tuyên 
bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền 
Nam, ngày 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh ký).
146
Sài Gòn Giải Phóng, 3-11-1976. 
147
Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976.
148
Thông báo ngày 27-12-1976 của Ủy ban Nhân dân Thành phố (Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976).
149
Lịch sử Giao thông Vận tải Đường bộ, Nhà Xuất bản Tổng cục Đường bộ, (?), trang 276-277.
150
Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 606.
151
Cụ thể: Trưng mua và mua, trưng thu và tịch thu 1.202 xe ô tô các loại; 58 tàu thuyền đường sông, gồm tàu chở hàng, tàu 
chở khách và tàu kéo - số phương tiện vận tải này chủ yếu thuộc người dân Sài Gòn và các tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang…; 
Tịch thu ba tàu biển, trưng mua 14 chiếc; Quốc hữu hóa hai đoàn hoa tiêu; Cho phép một số công ty xây dựng tư nhân, các 
nhà thầu chịu cải tạo và chịu sự điều hành của nhà nước; Trưng mua tài sản của một số công ty như: Công ty Huỳnh Như 
Hoa, các cổ phần trong Công ty Nguyễn Văn Tấn, Công ty Lodisbagco; Tổ chức công ty hợp doanh đối với Công ty 
Vinameco, Trần Dương và Trần Văn On (Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, 
trang 606-607). Tính đến khi hoàn thành “công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam”, Chính quyền đã: “Trưng mua, 
trưng thu được 3.287 xe ô tô loại 5T và 40 ghế hành khách trở lên, hợp với các đoàn xe từ khu giải phóng, xe ngoài Bắc vào 
là 1.105 chiếc, tổng cộng: 4.393 xe tổ chức thành 14 xí nghiệp quốc doanh… Nhà nước cải tạo và xóa bỏ quyền sở hữu tư 
nhân về công cụ sản xuất được 14.059 xe tổ chức thành 45 xí nghiệp công tư hợp doanh vận tải ô tô… Tổng cộng cả trưng 
mua, trưng thu, cải tạo được 17.346 xe loại trọng tải lớn tổ chức thành 59 xí nghiệp vận tải quốc doanh và xí nghiệp vận tải 
công tư hợp doanh… Số xe vận tải nhỏ (từ 2,5T và 25 ghế trở xuống) đã được cải tạo là 28.856 xe, tổ chức thành 281 Hợp 
tác xã, ở hầu hết các quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh hoặc thành phố…” (Lịch sử Giao thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản 
Giao thông Vận tải, 2005, trang 276-277.).
152
Trích Chuyện thời bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn, 2009, trang 53-54.
153
Cư trú tại 26C, ấp 4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, Sài Gòn. 
154
Trích Chuyện thời bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn 2009, trang 53.
155
Tương đương 100 lượng vàng.
156
Sđd, trang 53-54.
157
Sài Gòn Giải Phóng, 23-3-1978.
158
Sài Gòn Giải Phóng, 1-8-1977.
159
“Điều 1, Từ nay các nhà tư sản thương nghiệp không được tiếp tục làm nghề buôn bán nữa và được nhà nước khuyến
khích giúp đỡ chuyển sang sản xuất. Điều 2, Khi nhận được lệnh đình chỉ hoạt động kinh doanh thương nghiệp, các nhà tư 
sản thương nghiệp phải kê khai theo bản mẫu quy định, cùng với tổ công tác của quận hoặc huyện, tiến hành kiểm kê hàng 
hóa tồn kho, cơ sở, phương tiện kinh doanh của mình và làm bản đăng ký chuyển sang sản xuất để đóng góp phần xây dựng 
đất nước. Điều 3, Sau khi kiểm kê xong phải lập biên bản có chữ ký của cán bộ, nhân viên kiểm kê, đại diện của Ủy ban 
nhân dân phường, xã và chủ hộ hoặc đại diện hộ. chủ hộ được giữ 1 bản. Điều 4, Cơ quan chủ quản, ngành, hàng thuộc sở 
thương nghiệp hoặc công ty vậ tư tổng hợp thành phố có trách nhiệm trưng mua hoặc mua lại hàng tồn kho. Cơ sở và 
phương tiện kinh doanh đã kiêm kê theo lệnh của chủ tịch Ủy ban nhân dân TP, để đưa vào phục vụ sản xuất và đời sống
nhân dân. Điều 5, Những người vi phạm các quy định trên đây, tùy theo đối tượng, tính chất và mức độ vi phạm, sẽ bị xử lý 
về hành chính, kinh tế hoặc bị truy tố ra tòa án nhân dân theo luật pháp hiện hành…” (Vũ Đình Liệu, Quyết định 341/QĐ-
UB, SGGP, 23-3-1978).
160
Năm 1978 là Chủ tịch Thành phố Hồ Chí Minh.
161
Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 4-12-2004.


162
Để mô tả tính nguyên tắc của ông Đỗ Mười, đồng thời minh họa cho tính khắc nghiệt của thời bao cấp, trước năm 1975, 
ở miền Bắc từng có giai thoại: “Một lần Đỗ Mười vào cửa hàng ăn uống quốc doanh gọi một tô phở, khi cô mậu dịch bưng 
ra, ông ngồi đếm từng miếng thịt, phát hiện có ăn bớt bèn cách chức ngay cửa hàng trưởng”. Giữa thập niên 80, theo ông Lê 
Văn Triết: “Một lần ông Đỗ Mười ghé qua Long Hồ, Vĩnh Long, thăm gia đình ông Phạm Hùng, người nhà ông Phạm Hùng 
ở quê biếu ông Đỗ Mười 10kg gạo. Trên đường về Sài Gòn, xe của ông Đỗ Mười bị một trạm kiểm soát địa phương chặn
lại. Khám xe thấy có một bao gạo, bèn quyết định tịch thu. Người lái xe bảo, đây là gạo của đồng chí Đỗ Mười. Viên trạm 
trưởng trả lời, Đỗ Mười chứ Đỗ Mười Một cũng giữ”. Giai thoại kể thêm: “Đỗ Mười lập tức khen thưởng người trưởng 
trạm”.
163
Sài Gòn Giải Phóng, 27-3-1978.
164
Sài Gòn Giải Phóng, 27-3-1978.
165
Theo Tống Văn Công, Tổng Biên tập báo Công Nhân Giải Phóng, người tháp tùng chuyến đi của ông Mai Chí Thọ.
166
Tin Sáng, 12-9-1978.
167
Tuổi Trẻ, 14-9-1975.
168
Tuổi Trẻ, 31-3-1978.
169
Nhật ký Lý Mỹ: “Chủ nhật 7-3-76: Tại sao mình yếu đuối thế này? Qua cơn bệnh, lại bị gia đình rầy rà, mình khổ tâm 
quá. Thôi, hay là mình xin ra khỏi Đoàn vậy, bởi vì mình cảm thấy chưa xứng đáng là một đoàn viên khi gia đình mình vẫn 
còn sống trong cảnh bóc lột. Nhưng như vậy mình xin vào Đoàn để làm gì, đọc Pa-ven để làm gì trong khi chỉ một ít khó 
khăn trong gia đình thì mình lại chùn bước. Suy nghĩ như thế thật tồi. Không, hãy ngẩng đầu lên, hãy kiên nhẫn vượt qua 
mọi khó khăn” (Tuổi Trẻ, 31-3-1978).
170
Số 4 Duy Tân, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.
171
Trích nhật ký Lý Mỹ: “Ngày 23-3-1978: Hơn 6 giờ chiều, đèn đường đã bật sáng cả con đường từ trường đến nhà. Con 
đường hôm nay nom có vẻ khác lạ hơn những ngày khác. Có nhiều toán thanh niên đang đóng chốt ở những cửa hàng lớn 
dọc trên con đường. Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi những 
ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay- ngày mở đầu một cuộc đấu tranh lớn. Mỹ vui và phấn khởi khi 
nghe đồng chí Thường vụ Thành đoàn tập huấn. Đây đúng là thời cơ để thuyết phục gia đình chuyển sang sản xuất, thời 
điểm chấm dứt cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong gia đình, một thời điểm mà mình đã mong ước từ bấy lâu nay…
Ngày 24-3-1978: “Mình nắm lấy thời cơ nầy để tuyên truyền đường lối, chính sách cải tạo thương nghiệp tư sản cho gia 
đình. Mình phải kiên trì thuyết phục cha mẹ, phải bám gia đình từng giây, từng phút, giúp đỡ gia đình kê khai tài sản”. Ngày 
24-3-1978 của Lý Mỹ được báo Tuổi Trẻ tường thuật: Đi kèm bên mẹ, Mỹ luôn nhắc nhở mẹ nên kê khai những món hàng 
gì, thỉnh thoảng động viên người mẹ đang buồn rầu, hoang mang bởi những tin đồn thất thiệt. “Tịch thu tài sản rồi phải 
không? Mầy hãy lo lấy thân mầy đi, còn ăn học gì nữa”. “Đâu có ai tịch thu tài sản của mình đâu má. Mình kê khai đúng, 
đầy đủ, nhà nước sẽ trưng mua, với số vốn đó gia đình mình chuyển sang cách làm ăn mới. Vấn đề là mình có thành thật kê 
khai không”. “Vậy hả”. Rồi: Má Mỹ trở nên yên tâm hơn, sự bình tĩnh đã bắt đầu lộ rõ trên gương mặt. Trong lúc đó, Mỹ 
liến thoắng: “Tư trang, tư liệu sinh hoạt phải viết vào mục nào hả đồng chí?”. Miệng nói, tay viết, mà mắt Mỹ vẫn liếc vào 
những chiếc tủ đựng đầy ắp những món hàng để xem chừng mình đã khai đầy đủ chưa. Bây giờ, Mỹ đã trở thành một người
chủ quản của gia đình. Mỹ thấy tự hào và sung sướng lạ. (Tuổi Trẻ, 31-3-1978).
172
Số ra ngày 8-4-1978.
173
Xí nghiệp “Bình Minh 9”.
174
Trong giai đoạn 1975-1980, Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa hơn 832 nghìn người hồi hương hoặc đi kinh 
tế mới ở các tỉnh từ miền Tây, miền Đông Nam Bộ cho tới Tây Nguyên. 90% số này rời khỏi Thành phố trong giai đoạn
1975-1980, thời gian tư sản bị cải tạo và chính sách sổ gạo bắt đầu được thắt chặt. Bằng những quyết định hành chánh ấy, 
dân số Sài Gòn đã giảm từ 3,391 triệu người năm 1976 xuống còn 3,201 triệu người năm 1980. 7% lượng người nhập cư 
mới có nơi sinh là Sài Gòn, họ là những người từng bị đưa đi kinh tế mới trong thời kỳ 1975-1980. Cho đến cuối thập niên 
1990, vẫn còn 24% số người không có hộ khẩu thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh vốn là người Sài Gòn-Gia Định. Họ 
là nạn nhân của chính sách kinh tế mới trong giai đoạn 1975-1980.
175
Sài Gòn Giải Phóng, 10-4-1978.
176
Sài Gòn Giải Phóng, 13-4-1978.
177
Sài Gòn Giải Phóng, 18-4-1978.
178
Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Lê Thành Nhơn phát biểu trước lễ tiễn 200 nhà tư sản thương nghiệp đăng ký 
đi kinh tế mới Gia Lành, Lâm Đồng, sáng 18-4-1978- SGGP 19-4-1978. 
179
Tuổi Trẻ, 23-6-1978.
180
Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 4-12-2004.
181
Đào Duy Tùng, 2008, trang 216-217-218. 
182
Chỉ thị 147, năm 1977, của Thủ tướng Chính phủ.
183
Sài Gòn Giải Phóng, 14-7-1977.
184
Nhân Dân, 25-3-1984.
185
“Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á” (điểm 3, mục II, phần thứ 
nhất, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 – tháng 1-1959).


186
Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang (?).
187
Lê Đức Anh, 2005, trang 60.
188
Sđd, trang 73.
189
Theo phía Trung Quốc, tổng số viện trợ quân sự không hoàn lại của Trung Quốc cho Việt Nam gồm: 2,160 triệu khẩu 
súng cá nhân; 37.500 khẩu pháo; 12,9 tỷ viên đạn; 180 máy bay, 145 tàu; 1.500 xe tăng, thiết giáp; 16.330 xe tải; 16 vạn tấn 
lương thực thực phẩm quân đội; 22 vạn tấn nhiên liệu (Mân Lực, 10 năm Chiến tranh Trung - Việt, Nhà Xuất bản Đại học 
Tứ Xuyên, 2-1994, Bản dịch của Tổng cục II, trang 129).
190
Theo hồ sơ của B29, nếu như lượng tiền mặt từ “Tổ chức X” - mật danh chỉ Trung Quốc - được đưa vào miền Nam năm 
1964 chỉ là một triệu USD; năm 1965 đã lên đến 6.232.667 USD; năm 1967: 22,4 triệu; năm 1973: 101,5 triệu… Lúc đầu, 
việc tiếp nhận khoản viện trợ này chủ yếu theo phương thức: Ông Nguyễn Nhật Hồng, trưởng phòng B29, nhận tiền USD ở 
Hong Kong rồi mua các loại biệt tệ như đồng riel của Campuchia, đồng kip của Lào, đồng baht của Thái Lan, đồng tiền Việt 
Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, quy trình “chế biến” kể từ khi mua biệt tệ đến khi đưa được tiền tương thích vào chiến trường 
có khi mất sáu tháng, đồng tiền đã bị mất giá. Năm 1968, khi Phó Thủ tướng Phạm Hùng được cử vào Nam làm bí thư 
Trung ương Cục thay ông Nguyễn Chí Thanh, ông cho lập Ban Kinh tài Đặc biệt mang bí danh N2683. Phụ trách Ban này 
là ông Huỳnh Văn Lập, tên thường gọi là Mười Phi. Thay vì mua biệt tệ ở Hong Kong, USD được chuyển vào Nam để ông 
Mười Phi đổi tiền Sài Gòn mua các loại nhu yếu cho kháng chiến. Đến năm 1970 thì B29 của ông Nguyễn Nhật Hồng 
“đánh” được ông Lữ Minh Châu vào Sài Gòn. Ông Châu trước đó được đưa qua Liên Xô đào tạo nghiệp vụ ngân hàng. Sau, 
về Phnom Penh, lấy hồ sơ của một Việt Kiều ở Campuchia đã chết, làm căn cước giả, “chạy loạn” về Sài Gòn xin làm việc 
trong một ngân hàng. Từ vị trí này, ông Châu đã làm dịch vụ chuyển ngân lậu cho các đại gia và đặc biệt là các quan chức 
Sài Gòn theo phương thức ông Châu nhận tiền Việt Nam Cộng Hòa tại Sài Gòn, sau đó, khách hàng của ông sẽ nhận USD ở 
Hong Kong hoặc ở một ngân hàng Thụy Sỹ. Bằng dịch vụ chuyển ngân lậu này, B29 đã chuyển được 161,8 triệu USD vào 
chiến trường. Theo ông Nguyễn Nhật Hồng, B29 không thể làm tốt việc này nếu không được Trung Quốc giúp: Tại Hong 
Kong, Bank of China thu xếp để một ngân hàng con có biệt danh là “Anh Bảo” làm nơi giao dịch cho B29; Khi có lệnh chi 
ký tên Nguyễn Nhật Hồng, “Anh Bảo” sẽ chuyển tiền vào tài khoản bất kỳ mà B29 muốn. “Anh Bảo” cũng thu xếp để 
khách hàng của ông Lữ Minh Châu có thể nhận được tiền mặt thông qua một cơ sở ở Hong Kong, với chỉ một tờ lịch mà cơ 
sở này có thể đọc được số tiền thông qua ngày tháng ghi trên ấy. Quỹ tiền mặt mà B29 nhận được từ Bắc Kinh rồi chi cho 
các chiến trường, không chỉ để mua súng mà còn mua được những thứ bị cấm vận ở miền Bắc như máy móc thông tin, xe 
Honda Sport loại có thể chạy trong R, ngoài ra 350.000 USD đã được dùng để “Cách mạng” làm căn cước giả cho những 
cán bộ vào ra “vùng tạm chiếm”.
191
Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 188.
192
Theo tài liệu của Trung Quốc, từ tháng 6-1965 đến tháng 8-1973 Trung Quốc đưa sang Việt Nam tổng cộng 320.000 
“quân tình nguyện” bao gồm phòng không, thợ máy, thông tin, công binh… Quân số lúc đạt mức cao nhất lên tới 170.000. 
Báo cáo nói có khoảng bốn nghìn người Trung Quốc chết tại Việt Nam trong khi một số học giả Trung Quốc ước tính có 
hàng chục nghìn. Năm 1966, khi Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình gặp Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh than phiền, lính Trung 
Quốc tỏ thái độ ngạo mạn như đội quân xâm lược trước đây, tuy nhiên khi Chu và Đặng nói sẵn sàng rút thì Việt Nam 
không đưa ra yêu cầu nào. Năm 1978 khi tới Singapore, Đặng Tiểu Bình nói với Lý Quang Diệu, trị giá hàng hóa mà Trung 
Quốc viện trợ cho Việt Nam đánh Mỹ lên tới hơn 10 tỷ đô-la, cao hơn chi phí cho chiến tranh Triều Tiên (Ezra F. Vogel,
Deng Xiaoping and the Transformation of China, trang 271-272). 
193
Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 188-189.
194
Sihanouk & Bernard Krisher, 1999, trang 131. 
195
Lương Phong trả lời Dương Danh Di tại Hà Nội năm 2004. 
196
Ngày 1-2-1975, sau khi thăm Trung Quốc, Thượng nghị sĩ Mỹ, ông Mansfield, báo cáo trước Quốc Hội: “Trung Quốc 
tán thành để hai nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia thống nhất, trung lập là điều 
chủ yếu trong một Đông Dương ổn định”.
197
Henry A. Kissinger, 2003, trang 246.
198
Võ Nguyên Giáp, 2000, trang 295.
199
Sđd, trang 300.
200
Sđd, trang 301.
201
Sđd, trang 302.
202
Mân Lực, 1994, bản dịch của Tổng Cục II, trang 127.
203
Mân Lực, 1994, bản dịch của Tổng Cục II, trang 55.
204
Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Công hàm 14-9-1958. Toàn văn Công hàm được đăng trên báo Nhân Dân ngày 22-9-
1958: “Thưa đồng chí Tổng lý/ Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết 
định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho 
các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận mười hai hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với 
nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.
205
Nguyên tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu


206
Sách giáo khoa Địa lý lớp 9 phổ thông của Nhà Xuất bản Bộ Giáo dục năm 1974 viết: “Từ những hòn đảo quần đảo Nam 
Sa, Tây Sa, đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, cụm đảo Bành Hồ, cụm đảo Chu Sơn là một hình cánh cung tạo nên bức 
trường thành bảo vệ Trung Quốc’. Những bản đồ trong sách giáo khoa đều in rõ những hòn đảo của Nam Sa, Tây Sa đều là 
lãnh thổ của Trung Quốc” (Mân Lực, Mười năm Chiến tranh Trung-Việt, Nhà Xuất bản Đại học Tứ Xuyên 2-1994, Bản 
dịch của Tổng Cục II, trang 138).
207
Từ năm 2011 là Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc.
208
Nghị quyết của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ban hành sau Chỉ thị 53, về vấn đề “cán bộ người Việt gốc Hoa” viết: 
“Cay đắng trước thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, ngay từ những ngày đầu 
đất nước ta được độc lập và thống nhất, tập đoàn phản động trong giới cầm quyền Bắc Kinh đã coi Thành phố Hồ Chí Minh 
như là một địa bàn chiến lược trọng điểm, dùng mọi thủ đoạn thâm độc mưu toan lôi kéo một bộ phận quần chúng người 
Hoa chống lại đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta, đưa tay chân chui vào Đảng và Nhà nước ta để phá hoại từ 
bên trong”.
209
Theo ông Hoàng Văn Hoan, có hơn 300.000 cán bộ người Hoa trên cả nước đã bị thanh lọc (Giọt Nước Trong Biển Cả, 
1987).
210
Ông Vũ Cẩm cho rằng, chính nhờ sáng kiến này mà năm 1982, Nguyễn Đức Tâm được Lê Duẩn đưa vào Bộ Chính trị 
giữ chức trưởng Ban Tổ chức.
211
Tỉnh Quảng Ninh được nhập từ Hải Ninh và Hồng Quảng.
212
Theo số liệu dẫn trong Thông tri 59 của Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29-8-1978.
213
Theo số liệu ghi trong Báo cáo Hội nghị 9 của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 31-7-1979.
214
Tổng số người Hoa bị giết bởi Khmer Đỏ trong khoảng thời gian từ 1975-1979 tại Campuchia là 215.000 người, bằng 
50% tổng số người Hoa sinh sống tại Campuchia lúc đó (Ben Kiernan, The Pol Pot Regime, Nhà Xuất bản Đại học Yale, 
1996, trang 458).
215
Tuổi Trẻ, 23-6-1978.
216
Ngày 8-8-1980, ông Võ Thanh Tòng, phó Ty Công an Minh Hải bút phê: “Hộ ông Nguyễn Thành Đệ và Nguyễn Thị 
Thành (gồm chín người) đến Minh Hải đăng ký xuất cảnh hồi đầu năm 1979 nhưng có lịnh đình không cho đi phải ở lại”. 
Ngày 25-6-1980, Tòa án Nhân dân Minh Hải chứng nhận, nguyên văn: “Giải quyết hộ của Nguyễn Thị Thành và Nguyễn 
Thành Đệ đăng ký đi xuất cảnh con tàu 224 tại thị xã Minh Hải ngày 18-6-1979. Do nhà nước ngừng ông đã đến công an thị
xã Minh Hải và Tòa án Nhân dân tỉnh Minh Hải kiện công ty chủ tàu 224 đòi lại số vàng ông đã nạp. Ông đến tạm trú tại thị 
xã Minh Hải, nay ty công an tỉnh Minh Hải đang bắt chủ tàu Tôn Thục giam giữ để xét hỏi. Vậy theo yêu cầu của ông xin 
trở về Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi cư trú của ông cũ. Đề nghị quận và phòng nhà đất quận xét giúp đỡ gia đình 
ông có nhà ở… Ủy viên Thẩn phám, (đã ký) Ngô Quốc Kha”.
217
Trung Quốc ước tính có khoảng 160.000 người Hoa đã phải rời Việt Nam trong khoảng thời gian này (Shen Baoxiang, 
Zhenli biaozhun wenti taolun shimo, trang 370-371). Những người sống ở Sài Gòn-Chợ Lớn và các tỉnh phía Nam là người 
Quảng, người Tiều, người Hẹ và người Phúc Kiến, đến Việt Nam từ thời “Phản Minh, Phục Thanh” với Hoàng Tiến, Dương 
Ngạn Địch ở mạn Đồng Nai; với cha con Mạc Cửu ở xứ Hà Tiên. Một số khác đến gần hơn thì cũng từ thời Nhật cai trị một 
phần Trung Quốc. Vốn là dân phiêu bạt, người Hoa đến Việt Nam đã khai hoang, lập ấp, lấy vợ Việt. Họ không chỉ là một 
lực lượng kinh tế sinh động mà còn gắn với lịch sử Việt Nam, chính họ cũng đã cống hiến cho bản xứ những giá trị văn hóa 
vượt thời gian: Mạc Cửu với Thi Đàn Chiêu Anh Các; Trịnh Hoài Đức với Gia Định Thành Thông Chí… Cho dù vẫn mang 
trong mình dòng máu Hoa, phần lớn người Hoa ở Việt Nam đã không còn coi đại lục là tổ quốc; khi rời Việt Nam, họ đã 
không về Trung Quốc.
218
Cụ thể: “Ở Kiên Giang: Ngoài số 1.413 lạng vàng và 96.913 đồng ngoại tệ (trong đó có 26000 đô la) do các đồng chí Hai 
Cầu, Năm Thức, Chín Kỳ chủ trưởng báo Ty Công an đưa qua Thường vụ Tỉnh ủy làm quỹ riêng, một số đồng chí trong 
Thường vụ không nhất trí nên đồng chí báo Phòng Ngân sách Tỉnh ủy, đã đem nộp cho ngân hàng. Một số đồng chí Thường 
vụ Tỉnh Ủy Kiên Giang đã lấy 158 lạng vàng đem bán lấy tiền cộng với số tiền của PA2 và tiền bắt vượt biên, tất cả là 
671.921 đồng, đã chi một số còn lại 234.398 đồng đưa qua xây dựng trụ sở Tỉnh ủy. Ở Sông Bé: Lấy 185.511 đồng tiền lời 
(mua gỗ của lâm nghiệp về xẻ bán cho người Hoa (đóng tàu) đi PA2) để chi cho Đại hội Đảng bộ Tỉnh, một số còn để ngân 
sách địa phương. Ở Hậu Giang: Công an Vũ trang lấy 148.942 đồng, Ty Công an lấy 76.254 đồng thuộc tiền PA2 làm quỹ 
cho đơn vị, cơ quan mình. Minh Hải: Ty công an mua hàng nước ngoài bán lấy lời 190.715 đồng, bán tôm lời 847.370 đồng, 
tổng cộng là 1.038.085 đồng làm quỹ. Quảng Nam-Đà Nẵng: Ty công an lấy 14.500 đồng; Công an Thành phố Đà Nẵng lấy 
53.547 đồng; Huyện Tam Kỳ, 40.000 đồng; Ty thủy sản, 53.399 đồng”.
219
Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
220
Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
221
Phạm Văn Trà, 2009, trang 260.
222
Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
223
Phạm Văn Trà, 2009, trang 252-260.
224
Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.
225
Năm 1939, biên giới Campuchia - Việt Nam đã được xác lập theo lằn ranh Brevié, theo đó: Một đường thẳng vẽ từ biên 
giới đất liền, theo một góc 140 độ về hướng vịnh Thái Lan; khi tới đảo Phú Quốc thì lệch ra ba cây số về hướng Bắc, đặt 


Phú Quốc trong phần lãnh thổ Việt Nam. Sau năm 1954, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa định một “đường ranh tuần tiễu” 
khác, xác lập lãnh thổ Việt nam bao gồm đảo Trọc. Cũng trong thập niên 1960, miền Bắc Việt Nam công nhận đường 
Brevié với Chính quyền Sihanouk, nghĩa là không bao gồm đảo Poulo Vai. Trong cuộc họp trù bị tại Phnom Penh bắt đầu từ 
ngày 4-5-1976, Trưởng Đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền, công nhận tất cả các đảo phía Bắc lằn ranh 
Brevié thuộc quyền Campuchia, nhưng đề nghị đàm phán lại về “lằn ranh tuần tiễu”. Cuộc đàm phán kéo dài đến ngày 18-
5-1976 thì phía Campuchia đề nghị tạm hoãn để có thời gian “xin chỉ thị của các Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng đang đi 
công tác xa Phnom Penh”.
226
Trong năm 1976 mà Nuôn Chea nhắc đến “tình anh em cách mạng” đó, Khmer Đỏ đã gây ra 250 vụ xâm lấn lãnh thổ, 
pháo kích, tập kích, gài mìn, cắm chông, cướp trâu, cướp bò và giết hại vô cùng dã man nhiều người dân vùng biên giới… 
Từ tháng 12-1975, Khmer Đỏ đã tiến hành hàng loạt vụ gây hấn: lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam ở vùng Sa Thầy hơn 10km; 
chiếm kho thóc X 114 rồi đóng luôn lại đó; bắt, mang đi toàn bộ 113 người dân làng Xộp, thuộc tỉnh Gia Lai- Kon Tum; tập 
kích đồn Biên phòng số 8, tỉnh Daklak… Thế nhưng, Phnom Penh vẫn nói, đó là những hành động gây ra “do hiểu lầm ở 
các địa phương” (Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978). 
227
Ngô Điền, 1992, trang (?).
228
Có khoảng 1.671.000 trên tổng số 7.890.000 dân Campuchia đã bị giết trong khoảng thời gian từ 1975 đến năm 1979, 
(21%). Trong đó, có 215.000 người Hoa trong tổng số 430.000 người Hoa ở Campuchia (50%); 20.000 người Việt Nam 
trong tổng số 20.000 người kẹt lại ở Campuchia; 4,000/10,000 người Lào; 2.000/5.000 người Khmer Krom; 90.000/250.000 
người Chàm; 8.000/20.000 người Thái; 9.000/60.000 người thượng (Ben Kiernan, The Pol Pot Regime, Nhà Xuất bản Đại 
học Yale 1996, trang 458).
229
Henry Kissingger, 2003, trang 67.
230
Sđd, trang 68.
231
Khi ở cảng Sihanoukville, vũ khí được chở về gần tới nơi thì ở Hà Nội, Đại tá Lê Xuân Ba, trưởng Phòng Kế hoạch của 
Tổng Cục hậu cần hẹn ông Nguyễn Nhật Hồng ra một vườn hoa, khi thì Chí Linh, khi thì vườn hoa đối diện Cột Cờ Hà Nội. 
Đại tá Ba kẹp tờ vận đơn mà Liên Xô cung cấp, liệt kê chủng loại vũ khí được chở trên những con tàu sắp về trong một tờ 
báo. Ông Hồng cũng cầm một tờ báo bên trong kẹp bảng đơn giá vũ khí. Họ tính toán giá trị tổng số vũ khí rồi tính ra khoản 
tiền 10% chi cho Lonnol, 10 % chi cho Sihanouk, báo cho hai người biết khối lượng hàng hóa, khoản tiền mà họ sẽ được 
trả; B29 chuyển tiền vào tài khoản bí mật của hai người. Sihanouk, Lonnol kiểm tra thấy có đủ tiền thì đồng ý cho tàu vào 
cảng. An ninh được bảo đảm gần như tuyệt đối vì, theo ông Hồng, chính Lonnol cử một tiểu đoàn bảo vệ trong quá trình 
bốc dỡ ở cảng và sau đó áp tải vận chuyển từ cảng về các căn cứ của quân Giải phóng.
232
Sihanouk và Bernard Krissher, 1999, trang 133-134.
233
Sđd, trang 137.
234
Trung Quốc đã dành cho Sihanouk một khu gồm những dinh thự đẹp, chỉ cách Thiên An môn một quãng ngắn, để làm 
trụ sở Chính phủ. Ở Bắc Kinh, các lãnh tụ cộng sản Trung Hoa trong khi đưa Cựu hoàng Phổ Nghi của họ đi làm vườn đã 
cung cấp cho Sihanouk nhiều nhân viên phục vụ và cả một đội đầu bếp tài giỏi, một ban thư ký lớn và các dịch vụ thông 
thường của một Hoàng cung, kể cả nhân viên văn phòng, một đội xe con, một trung tâm thể thao và một phòng chiếu phim 
riêng. Theo Sihanouk: “Chu không bao giờ cho phép tôi đi tàu hỏa thông thường hoặc máy bay chở khách đến các tỉnh của 
Trung Quốc kể cả khi đi thăm nước ngoài. Ông luôn dành cho tôi những chuyến tàu đặc biệt có một toa rất xa hoa dành cho 
tổng thống hoặc thuê chuyên cơ cho tôi, kể cả một máy bay phụ để chở những thùng quà ngoại giao mà tôi sẽ tặng trong các 
chuyến thăm hữu nghị” (Sihanouk và Bernard Krissher, Hồi ký Sihanouk, Trần Chí Hùng dịch, Nhà Xuất bản Công an 
Nhân dân 1999, trang 124). Trước và sau những chuyến đi, Chu Ân Lai - vị Thủ tướng của quốc gia hơn 800 triệu dân - bao 
giờ cũng đích thân đưa và đón một ông hoàng thất thế bằng những nghi thức mà Bắc Kinh vẫn dành cho hàng nguyên thủ.
235
Theo Kissinger: “Chính Hà Nội đã cự tuyệt đề nghị của Mỹ phục hồi tư cách trung lập của Campuchia khi tôi trao đổi 
với Lê Đức Thọ trong một cuộc gặp bí mật ngày 4-4-1970. Chính Hà Nội từ chối đàm phán hòa bình với điều kiện tiên 
quyết phải loại trừ tất cả những cơ cấu phi Cộng sản. Chính Hà Nội đã bác bỏ các đề nghị đình chiến vào tháng 10-1970, 5-
1971, 10-1971, 10-1972 cho đến tháng 1-1973. Chính Khmer Đỏ được Hà Nội tổ chức, trang bị và hậu thuẫn đã ngăn cản 
việc đưa Campuchia vào Hiệp định Paris, điều mà Mỹ nhiều lần mong muốn” (Henry Kissingger, 2003, trang 470).
236
Ben Kiernan, 1996, trang 16.
237
Trong khoảng thời gian từ tháng 2 cho đến tháng 8-1973, người Mỹ đã ném 257.465 tấn bom xuống các khu vực nói là 
của Khmer Đỏ. Pol Pot cho rằng miền Bắc Việt Nam có phần trách nhiệm khi ký Hiệp định Paris để Mỹ rảnh tay tiêu diệt 
Khmer Đỏ. Nhưng Kissinger thừa nhận “việc ném bom là con bài mặc cả” giữa Bắc Kinh và Mỹ, vì “Chu Ân Lai cần hoạt 
động quân sự của Mỹ ở Campuchia để chính sách của mình đạt hiệu quả” (Kissinger, 2003, trang 484). Chu Ân Lai biết 
ngay cả Trung Quốc cũng khó khiến cho Khmer Đỏ chấp thuận trừ khi chúng bị thuyết phục là “chúng không thể chiếm ưu 
thế về mặt quân sự khi tiếp tục bị ném bom” (Kissinger, 2003, trang 484).
238
Henry Kissingger, 2003, trang 475.
239
Henry Kissinger, 2003, trang 475.
240
Sđd, trang 474.
241
Ngô Điền, 1992, trang (?).


242
Để tổ chức chuyến đi kéo dài từ 27-2 cho đến 17-4-1973, tháng 2-1973, Việt Nam thành lập “Đoàn Thắng Lợi”, trong đó 
có hai cán bộ nữ phục vụ riêng bà hoàng Monique, tổng cộng 89 người. Một quan chức của Bộ Ngoại giao được cử làm 
Trưởng Đoàn; Cựu Đại sứ Việt Nam tại Campuchia Nguyễn Thương và Đại tá Lê Đình Xoàn, Phó Tư lệnh 559, Phó Đoàn. 
Ngày 27-2-1973, Đoàn đi xe vào Đồng Hới để ngày hôm sau đón Sihanouk cùng bà Hoàng và “cố vấn” Yeng Sary, được 
đưa từ Hà Nội vào bằng máy bay AN 26. Từ Đồng Hới, Đoàn đi qua Lao Bảo, theo Đường 9 Nam Lào qua Khe Sanh, Bản 
Đông, Sê Pôn… đi hết phạm vi quản lý của 14 binh trạm 559. Đến Trạm F470, nơi được mô tả là một khu rừng nằm cạnh 
sông Mekong, Đoàn Việt Nam “bàn giao” Sihanouk cho Khmer Đỏ rồi ở đấy chờ đón ông quay về Hà Nội.
243
Theo lời Sihanouk kể lại với nhà báo Nayan Chanda, trong suốt chuyến đi gần một tháng trên lãnh thổ Campuchia, Son 
Sen, một lãnh tụ Khmer Đỏ, nói với ông: "Lính Việt Nam vẫn thường trộm cắp trong các phum, hãm hiếp phụ nữ và đặt các 
căn cứ, tuyển quân người Khmer trợ chiến cho họ". Còn Khiêu Samphan thì nói: “Việt Nam đang chuẩn bị lập ra một chính 
phủ người Khmer nhưng phụ thuộc vào người Việt”.
244
Võ Nguyên Giáp, 2000, trang 320.
245
Ben Kiernan, 1996, trang 48.
246
Philip Short, 2004, trang 7.
247
Ben Kiernan, 1996, trang 2.
248
Sđd, trang 55.
249
Sđd, trang 96.
250
Ben Kiernan, 1996, trang 97.
251
Nayan Chanda, 1993, trang 42.
252
Sđd, trang 43.
253
Ben Kiernan, 1996, trang 94.
254
Ben Kiernan, 1996, trang 10.
255
Trong loạt phóng sự đăng trên báo Giải Phóng, ba số báo đầu tháng 8-1976, một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên 
viết: “Nếu hơn một năm trước đây, Phnom-Pênh tấp nập ồn ào… thì ngày nay thủ đô Chùa Tháp trở nên vắng vẻ, yên tĩnh 
lạ thường. Cảnh tượng vắng lặng hầu như bất động này bắt gặp ngay từ đêm đầu tiên chúng tôi từ ngoại ô qua cầu Mô-ni-
vông cũ vào trung tâm thành phố. Những dãy đèn điện cao áp vẫn soi ánh mặt đường nhưng trên đường không thấy bóng 
người đi lại. Thỉnh thoảng mới thấy hắt ra ánh đèn nê-ông từ các cửa sổ của một vài ngôi nhà. Ban ngày, luớt qua các khu 
phố, chúng tôi cũng thấy phần lớn các dãy nhà đều đóng cửa hoặc bỏ trống không người ở. Ở một vài góc đường gặp các 
chiến sĩ cầm súng đứng gác, lâu lâu nâng bổng cây tre sơn màu đỏ trắng chặn ngang đường cho xe chạy qua. Buổi sớm và 
buổi chiều vào giờ làm việc, vài chiếc honda, năm ba chiếc ô tô vận tải đủ loại chở đầy nguời mặc áo đen, trùm khăn rằn đỏ 
chạy qua đường phố, bóp còi inh ỏi khi gần đến ngã tư... Để chúng tôi có thể hiểu được vì sao Thủ đô và các thành thị sầm 
uất trở nên vắng vẻ, thưa thớt như hiện nay, các bạn Campuchia đã giới thiệu đôi nét về tình hình vừa qua và chủ trương 
đưa dân về các vùng nông thôn sản xuất... Các lãnh tụ Khmer Đỏ nói: “Các đồng chí đến nước chúng tôi cứ coi như trong 
gia đình vì chúng ta từ lâu đã là bạn chiến đấu”... Và suốt 15 ngày ở thăm đất nước Campuchia anh em, đến bất cứ nơi nào
chúng tôi cũng nhận được những tình cảm hết sức thân thiết, nồng nhiệt của bạn. Các bạn Campuchia đã coi chúng tôi như 
những người anh em một nhà đi xa mới về. Sự chăm sóc hết sức chu đáo, tỉ mỉ của bạn cho từng bữa ăn, giấc ngủ tại chỗ 
cũng như trong suốt cuộc hành trình qua tám tỉnh của đoàn làm chúng tôi vô cùng cảm động. Qua chuyến đi này, đúng như 
lời của Phó Thủ Tướng Yêng Sary trong buổi chiêu đãi: “Đoàn càng hiểu hơn nữa những tình cảm cách mạng sâu sắc và 
tinh thần đoàn kết chiến đấu và hữu nghị của nhân dân Campuchia chúng tôi đối với nhân dân Việt Nam, không có trở ngại 
nào có thể làm lay chuyển nổi”. 
256
Trên số báo Giải Phóng ra ngày 10-8-1976, ông Tô Quyên viết: "... Đặc biệt, từ khi nước Campuchia dân chủ thành lập, 
đây là lần đầu tiên Thủ tướng Pol Pot chính thức tiếp khách nước ngoài. Với giọng nói đầy tình cảm, Thủ Tướng nhắc 
lại:“Chúng tôi dành ưu tiên cho đoàn báo chí Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc đoàn đi thăm nuớc Campuchia 
Dân chủ là một sự cổ vũ đối với nhân dân chúng tôi”. … Chúng tôi rất cảm kích nhớ mãi lời phát biểu đầy tình nghĩa của 
đồng chí Thủ tướng Polpot: “Tình đoàn kết hữu nghị giữa cách mạng Campuchia và cách mạng Việt Nam, giữa hai nước 
Campuchia và Việt Nam là một vấn đề vừa là chiến lược, vừa là tình cảm thiêng liêng. Tình đoàn kết hữu nghị đó có tốt thì
cách mạng cả hai nước chúng ta mới phát triển tốt được. Không có con đường nào khác”. 
257
Nayan Chanda, 1993, trang 82.
258
Sđd.
259
Hoa Quốc Phong, chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí còn không trả lời thư mời dự Đại hội Đảng lần thứ IV 
của Việt Nam.
260
Theo ông Phạm Văn Trà, khi ấy đang là tham mưu trưởng sư đoàn 330: “Cuối năm 1976… Sau một thời gian chuẩn bị 
lực lượng, Pol Pot bắt đầu cho quân hoạt động vũ trang ở biên giới. Lúc này, Sư đoàn 4 chuyển sang làm nhiệm vụ xây 
dựng kinh tế; Sư đoàn 8 thực hiện biểu biên chế rút gọn, cho bộ đội phục viên, xuất ngũ hàng loạt. Trước yêu cầu tình hình 
mới, Quân khu IX được trên chấp thuận cho tổ chức Sư đoàn 330 cơ động sẵn sàng chiến đấu” (Đại tướng Phạm Văn Trà, 
Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 272). Theo Tướng Trà, có một số nơi đã làm tốt hơn Quân khu 
IX của Tướng Lê Đức Anh, ví dụ như ở Quân đoàn II, khi cho bộ đội ra quân, Quân đoàn giữ lại một số cán bộ khung, nhân 
viên kỹ thuật và một tỷ lệ cựu binh nhất định nên khi có chiến sự chỉ cần đưa tân binh vào, lính cũ kèm cắp lính mới, trong 


một thời gian ngắn là chiến đấu tốt.
261
Phạm Văn Trà, 2009, trang 269.
262
Phạm Văn Trà, 2009, trang 286.
263
Theo ông Phạm Văn Trà: “Khi bộ đội ta truy kích, địch bỏ chạy tán loạn. Nhân dân bạn bị giam cầm trong các trại tập 
trung, tựa đại hạn gặp mưa rào; xem bộ đội Việt Nam như vị cứu tinh xuất hiện, cứu sống họ. Nhân dân bạn tha thiết mong 
bộ đội Việt Nam ở lại một thời gian để bà con được nhờ. Khi bộ đội ta buộc phải rút về, hàng nghìn người dân Campuchia 
nằng nặc đòi đi theo. Nhiều người vừa khóc vừa nói: Bộ đội Việt Nam là bộ đội nhà Phật, đã sang cứu sống chúng tôi. Nay 
bộ đội rút về, hãy cho chúng tôi về theo, nếu ở lại sẽ bị ăngca giết mất… Cảm thương nhân dân bạn vô cùng, nhưng chúng 
tôi không thể để bà con theo về được” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 292).
264
Theo Tướng Phạm Văn Trà: “Khi quân Pôn Pốt tràn qua kênh Vĩnh Tế, đánh vào Ba Chúc, bà con vô cùng khiếp sợ. 
Hàng nghìn người trong xã hoảng sợ kéo vào hai ngôi chùa lớn để nương nhờ cửa Phật, hi vọng kẻ thù dù có dã man, tàn 
bạo mấy cũng nương tay trước Đức Phật từ bi. Nhưng lính Pôn Pốt đã ném lựu đạn, xả súng giết hại hàng nghìn Phật tử - 
phần lớn là người già, trẻ nhỏ. Một số người trốn chạy vào các hang đá trong núi cũng bị quân Pôn Pốt sục sạo sát hại. Sau 
khi tổ chức cho Sư đoàn tiêu diệt gọn gần một sư đoàn quân Pol Pot, chiếm lại núi Phú Cường và Ba Chúc, tôi cùng một số 
cán bộ, chiến sĩ đã vào các hang đá tìm cứu bà con mình. Trong hang có rất nhiều xác chết không đầu. Thấy chúng tôi tìm
vào hang, có mấy người sống sót tưởng chúng tôi là lính Pôn Pốt, bèn quỵ sụp lạy như tế sao. Sau khi được anh em ân cần 
giải thích, bà con mới trấn tĩnh, kể lại nỗi kinh hoàng ngày 15-1-1978” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 293).
265
Ngày 25-1-1978, chiến sự trên Biên giới Tây Nam được công bố trong cuộc họp báo do ông Ngô Điền - Vụ Trưởng Vụ 
Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao - chủ trì được nói ở đầu Chương.
266
Người “chấp bút” bài diễn văn nổi tiếng này, ông Đống Ngạc, nhớ lại: “Năm 1978, khi Pol Pot gây hấn ở Tây Nam và 
năm 1979, khi Trung Quốc đánh ta ở biên giới phía Bắc, có người nói với tôi: Khi đó cậu viết thế là mất cảnh giác”. Ngay 
sau ngày 30-4, khi các đồng sự khác hăm hở theo ông Lê Duẩn vào Nam, ông Đống Ngạc được giao ngồi lại thủ Đô để 
chuẩn bị, ông được dặn: “Cậu phải viết sao cho giống Bình Ngô Đại Cáo”. 
267
Bài thơ mà năm 1976 Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy làm, về nội dung chỉ “văn vần hóa” tuyên bố nói trên của ông Lê 
Duẩn: “Bốn nghìn năm ngoảnh lại thuở Văn Lang/ Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”.
268
Nếu như năm 1976, khi nghe Lực lượng Công an Võ trang báo cáo nguy cơ chiến tranh xảy ra ở vùng Biên giới ông Lê 
Duẩn có thể gạt đi thì năm 1977, trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương kể: “Đi khảo sát Biên giới, chúng tôi nhận ra xung 
đột vũ trang không phải do cấp dưới vô kỷ luật như Pol Pot giải thích nữa. Khmer Đỏ đã tác chiến bằng sư đoàn, cấp mà địa 
phương không thể tự ý điều binh được”.
269
Cũng trong khoảng thời gian này, Khmer Đỏ cho người sang gặp Ya Duck, “Phó Thủ tướng thứ nhất phụ trách nội an và 
ngoại giao” của Fulro (Mặt trận thống nhất đấu tranh các dân tộc bị áp bức - Front Unifié de Lutte des Races Opprimées - 
thành lập năm 1964 bởi một số người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Chăm và người Khmer Krom, chống chính 
quyền Sài Gòn và chính quyền Việt Nam sau năm 1975. Phong trào Fulro tan rã năm 1992 khi 407 binh sỹ nộp vũ khí cho 
UNTAC tại Campuchia). Theo ông Ya Duck: “Họ đi một đoàn hơn 10 người, nói thẳng là cần sự hợp tác để chống Việt 
Nam”. Ya Duck sau đó đã sang Campuchia gặp Pol Pot và ông được cả cố vấn Trung Quốc tiếp. Pol Pot cũng như “cố vấn 
Trung Quốc” hứa sẽ giúp Fulro mọi mặt chứ không chỉ giúp đất đai làm căn cứ.
270
Theo ông Trần Quang Cơ, nội dung của thông điệp là “Lãnh đạo Việt nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt
với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho
người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để 
không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn 
thấy như vậy ở phía Mỹ”.
271
Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.
272
Khi ấy là vụ trưởng vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao Việt Nam.
273
Hiệp định Paris ghi: “Thể theo truyền thống hào hiệp của mình, Hoa Kỳ sẽ tham gia giúp đỡ tái thiết (Việt Nam) sau 
chiến tranh”. Nhưng, sau khi đôi bên hoàn thành việc ký tắt, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ đã thỏa thuận được với Kissinger 
con số viện trợ 3,250 tỷ đô-la Mỹ, ngoài ra, Mỹ sẽ viện trợ biếu không mỗi năm 650 triệu đô-la. Kissinger còn trao cho ông 
Lê Đức Thọ một bản dự thảo công hàm về việc xây dựng lại Miền Bắc, bản chính thức đã được trao cho Việt Nam ngày 1-
2-1973.Theo Kissinger: “Cuộc họp bắt đầu vào lúc 9:35 sáng thứ Ba, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ vẫn thành công ngay cả 
tại những dịp trang trọng trong việc biến mình thành một người rất khó chịu bằng cách yêu cầu phía Mỹ đảm bảo chắc chắn 
về việc viện trợ kinh tế cho Bắc Việt Nam. Tôi nói với ông ta rằng điều đó chỉ được thảo luận thêm khi Hiệp định đã được 
ký kết; điều đó còn phụ thuộc vào việc Quốc hội thông qua bản Hiệp định và việc tuân thủ Hiệp định” (H. Kissinger, 2003, 
trang 429).
274
Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.
275
Vogel, 2011, trang 281. 
276
Theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ.
277
Council for Mutual Economic Assistance, một tổ chức thương mại của các quốc gia cộng sản.
278
Theo Trần Quang Cơ.


279
Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể: “Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi 
đến thăm tỉnh Cương Sơn cùng với đoàn tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên 
(cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế 
không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng 
bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ 
bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì. 
Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa trở về, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, họ 
dọn cho đoàn cả một chiếc bát mẻ miệng”.
280
Bốn tháng sau đó, khi bắt được kẻ chủ mưu giết Thanh Nga - Nguyễn Thanh Tân, đồng thời cũng chính là kẻ chủ mưu 
trong vụ bắt cóc con trai nghệ sỹ Kim Cương - Cảnh sát không tìm ra bằng chứng nào liên quan tới các “âm mưu chính trị”. 
Nhưng trong phiên tòa đặc biệt xử “vụ án Thanh Nga” vào ngày 4-12-1979, Hội đồng xét xử vẫn thêm vào phần luận tội: 
“Ai cũng thấy là Tân có một ý đồ sâu xa thâm độc hơn là những điều y nhận tội... Nghệ sĩ Thanh Nga là người có tài, có 
lòng yêu nước, là một chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận văn hóa. Trước khi vụ án này xảy ra, chị đã bị bọn phản động khủng 
bố. Nhưng, bất chấp sự đe dọa, nghệ sĩ Thanh Nga vẫn dũng cảm làm tròn trách nhiệm của mình trên mặt trận văn hóa tư 
tưởng. Trong lúc đang xảy ra cuộc chiến đấu gay gắt giữa nhân dân ta và bọn “Bành trướng Bắc kinh”, trong lúc người nghệ 
sĩ yêu nước Thanh Nga đang thủ diễn những vai cổ vũ tinh thần yêu nước của quân đội ta sẵn sàng chiến đấu chống bọn 
“Bành trướng phương Bắc”, rõ ràng hành động của bọn Tân cố ý giết chết nghệ sĩ Thanh Nga đã gây tổn thương rất lớn và 
sự phẫn nộ rất lớn trong lòng quần chúng” (Sài Gòn Giải Phóng, 6-12-1979).
281
Lời “Bài ca tạm biệt”, một bài hát thời chiến tranh biên giới.
282
Trong năm 1977, Tướng Nhim Ros, tư lệnh Quân Khu Tây Bắc, kiêm phó chủ tịch Hội Đồng Nhà nước bị giết. Tiếp đó 
là Bộ trưởng Hu Nim. Trung Quốc quan sát và tỏ ra muốn Khmer Đỏ bớt tàn bạo hơn. Tháng 4-1978, một người Trung 
Quốc ôn hòa là Đặng Dĩnh Châu được cử tới Phnom Penh, khuyên Pol Pot nên sử dụng Sihanouk để tranh thủ ủng hộ của 
dân chúng và quốc tế; gợi ý đàm phán với Việt Nam trên nguyên tắc “chung sống hòa bình”. Nhưng, trong những ngày 
Đặng Dĩnh Châu đang ở Phnom Penh, Pol Pot đưa ba sư đoàn quân Trung ương xuống Quân Khu Đông, bắt giữ gần năm 
trăm cán bộ, chủ yếu từ cấp tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng và các chi khu trưởng, đưa tới trung tâm khủng bố Tuol 
Sleng. Tư lệnh Quân Khu Đông, còn gọi là Khu 203, Đệ nhất Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước So Phim, thông gia với
Nhim Ros, cũng bị Pol Pot cho là không nên tồn tại. Giữa tháng 5-1978, Tướng Ke Pauk, Tư lệnh Quân Khu Trung ương 
cho mời So Phim tới họp. So Phim thận trọng chỉ cử đại diện đi và không ai trong số họ trở về. Ngày 24-5-1978, Ke Pauk 
đưa một lữ đoàn thiết giáp tới bao vây Bộ tư lệnh Quân Khu Đông, bắt giam các sỹ quan, So Phim trốn thoát. Viên tướng 
được Bắc Kinh đánh giá cao này vẫn còn hy vọng giải tỏa những “hiểu lầm” nên đã chạy về Phnom Penh, cho người liên lạc 
với Pol Pot. Ngày 2-6-1978, khi So Phim tới điểm hẹn, thay vì gặp Pol Pot những tay súng đã đón ông. So Phim tự sát. Vợ
con ông bị giết. Lực lượng từ Quân Khu Trung ương và Tây Nam tràn tới, tàn sát gần như toàn bộ binh lính và thường dân 
sống trong các công xã Khu Đông. Con số người Khmer bị giết bởi Pol Pot trong dịp này lên tới hơn một trăm nghìn người.
283
Cho dù sau đó, ngày 30-11-1978, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Oakley vẫn nói với ông Trần Quang Cơ, khi ấy đang được ông 
Thạch để ở lại New York để “giữ cầu” và ngày đêm thúc giục Mỹ bình thường hóa, rằng: “Mỹ không thay đổi lập trường 
bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và 
người di tản”, nhưng theo ông Trần Quang Cơ: “Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường 
hoá quan hệ với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp ước với Liên Xô”.
284
Việt Nam ước đoán lực lượng Trung Quốc có khoảng 600 nghìn tham gia chiến dịch này. 
285
Vogel, 2011, trang 529-531.
286
Cục trưởng Cục Tác chiến lúc bấy giờ là ông Lê Hữu Đức thừa nhận: “Chúng ta hoàn toàn bất ngờ, ở Quân khu I, trước 
đó, Đàm Quang Trung đã cho tập trung súng ống vào kho, làng xã không hề chuẩn bị gì cho chiến đấu”. Tướng Đức nói 
tiếp: “Trong một hội nghị quân sự, Đại tướng Văn Tiến Dũng thừa nhận chúng ta bị bất ngờ cả mặt trận Tây Nam và phía 
Bắc. Khi bắt đầu rục rịch chiến tranh, anh Văn Tiến Dũng gọi tôi tới nhà riêng, bảo tôi lên Quân Khu II nói với anh Vũ Lập: 
Phải tiêu diệt được vài đại đội, trung đội quân Trung Quốc. Khi đó có ai nghĩ Trung Quốc sử dụng tới sáu quân đoàn để 
đánh ta đâu”.
287
Theo Đại tá Hà Tám, lúc đó là trung đoàn trưởng Trung đoàn 12 Biên phòng, đóng ở Lạng Sơn.
288
Mân Lực, 1993.
289
Mân Lực, 1993, trang (?).
290
Vogel, 2011, trang 533.
291
Nhân Dân, 3-3-1979.
292
Phóng viên báo Người Việt, định cư ở Orange County, California, Mỹ.
293
Tin Sáng, 28-8-1975.
294
Sài Gòn Giải Phóng, 28-8-1975.
295
Bản lược ghi ý kiến của ông Võ Văn Kiệt, tài liệu lưu trữ riêng của ông Kiệt.
296
Bruce Grant, 1979.
297
Thuộc phái Khmer Tự do trong Chính phủ 3 phái Campuchia do Sihanouk cầm đầu kháng chiến chống Việt Nam.
298
Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 8-3-2005.


299
Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn du học ở Mỹ từ năm 1959, học Lý-Hóa ở Delaware, lấy Ph.D. năm 1962 rồi về Việt Nam 
dạy học. Tuy nhiên Hội đồng Quốc gia đã xét phong cho ông giáo sư, học hàm mà ông đã được chế độ cũ công nhận từ năm
1967. 
300
Trụ sở của Phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ủy ban Liên hợp Bốn bên thi hành Hiệp định Paris 1973.
301
Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Tháng 8 giá bột ngọt đang ổn định, bỗng tăng vọt lên 4.000 một ký rồi 5.000 đồng và 
trong vài ngày đã lên 8.000… Mặc dù chánh quyền đã lên tiếng cho biết bột ngọt không thiếu, một số đồng bào cứ tranh 
nhau mua. Thậm chí, có người không có sẵn tiền vẫn vay mượn để mua thật nhiều ở giá 15.000đ một ký để mong kiếm lời 
khi giá tăng cao hơn nữa; để rồi phải than vãn thở dài khi giá hạ nhanh xuống 5.000đ, rồi ổn định lại ở mức 3.800đ một ký, 
khi chánh quyền tung bột ngọt ra bán. Sau vụ bột ngọt lại đến muối .v.v… Thật ra thì trong tình thế mới, nhiều mặt hàng, 
nhất là những hàng không phải là nhu yếu và lại là hàng nhập cảng, sẽ phải tăng giá vì chúng ta còn ở trong giai đoạn phục 
hồi sau chiến tranh và cũng không thể tiếp tục cho nhập cảng ồ ạt như lúc trước được” (Tin Sáng, 9-9-1975).
302
Tin Sáng, 9-9-1975.
303
Vượt biên ngày 19-10-1977, đang định cư ở Houston, Taxes, Mỹ.
304
Đổi tên theo yêu cầu của nhân chứng.
305
Họa sỹ Chóe kể: Khi nghe tin Huỳnh Bá Thành đột ngột mất, ông đã bỏ buổi cà phê sáng với bạn bè ở 81 Trần Quốc 
Thảo, về nhà kêu vợ chuẩn bị xe rồi hai vợ chồng đi lên Đà Lạt. Cho đến nhiều năm về sau, bà Kim Loan cũng không hiểu 
vì sao mình được chồng chăm sóc bất ngờ như thế. Chóe chỉ giải thích với một vài người bạn thật tâm giao: “Sẽ là không 
thật lòng nếu mình đi đến đám ma viếng Huỳnh Bá Thành”. 
306
Tiền thân tờ báo Người Lao Động. 
307
Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân. Bài thơ có tựa là Bài Học Đầu Cho Con, in lần đầu, năm 1986, trên báo Khăn 
Quàng Đỏ, bị cắt đi một số đoạn. Năm 1991, tác giả cho in lại bản đầy đủ trong tập thơ Cỏ Hoa Cần Gặp, Nhà Xuất bản 
Thuận hóa. Bài Học Đầu Cho Con được nhà thơ Đỗ Trung Quân viết như một món quà tặng thôi nôi cho con gái đầu lòng 
của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh - cháu Nguyễn Nhật Quỳnh Anh, sinh 1985. Cũng trong năm 1986, khi phổ nhạc, nhạc sỹ 
Giáp Văn Thạch đã đổi tựa thành Quê Hương. Bài hát được hát trở nên có vai trò chính trị trong giai đoạn đó, nhất là khi 
báo Khăn Quàng Đỏ thêm vào sau câu kết của Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ…” câu “Sẽ không lớn nổi 
thành người”.
308
Lúc bấy giờ là phó tổng biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.
309
Bộ trưởng Nội vụ 1987-1991.
310
Tên thường gọi của ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách Khai Trí.
311
Mãi tới năm 1989, ông Trần Văn Ngọt mới vượt biên thành công, hiện định cư tại Houston, Texas.
312
Hiện đinh cư tại Đức.
313
Hiện là giáo sư tại Đại học SUNY-Buffalo, tiểu bang New York (Mỹ).
314
Anh Vinh vượt biên đến Hong Kong năm 1989, hiện định cư tại Florida, Mỹ.
315
Từng làm việc tại bệnh viện Bình Dân, đang định cư ở Houston, Texas, Mỹ.
316
Hiện định cư tại Orange County, California (Mỹ).
317
Một thuyền nhân vượt biên từ Nha Trang từ năm 1975, hiện định cư tại Chicago.
318
Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 23-7-1989.
319
Cho đến đầu thập niên 1990, người dân Việt Nam vẫn tiếp tục vượt biên trong khi bắt đầu đã có những người vượt biên 
trước đó trở về thăm nhà. Chính sự phong lưu của Việt Kiều được trọng vọng bởi chính quyền và xã hội lại nung nấu thêm 
quyết tâm ra đi của nhiều người Việt Nam, nhất là những người từ các địa phương phía Bắc. Lúc ấy, chính sách đổi mới
chưa đủ thời gian gây ảnh hưởng để giữ chân người dân. Đầu thập niên 1990, Liên Hiệp Quốc đưa ra chương trình “tự 
nguyện hồi hương”, theo đó, mỗi thuyền nhân đồng ý quay trở lại Việt Nam nhận được 360 USD tiền trợ cấp. Chương trình 
này được nói là đã kích thích làn sóng vượt biên vì nếu không được đến một nước thứ ba định cư, một gia đình 4-5 người có 
thể nhận được một khoản tiền không nhỏ để hồi hương. 
320
Theo UNHCR: Những người vượt biên lần lượt đã định cư ở các quốc gia: Australia 110.996 người; Canada 103.053 
người; Pháp 27.071 người; Đức 16.848 người; Netherlands 7.565 người. Anh quốc 19.355 người; Mỹ 424.590 người; các 
quốc gia khác hơn 55.000 người.
321
Từ tháng 8-1975 đổi tên thành đường Điện Biên Phủ.
322
Uaz một thương hiệu xe nổi tiếng của Liên Xô, ra đời từ năm 1941.
323
Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa IV.
324
Khu ủy Sài Gòn-Gia Định.
325
Nay là đường Lê Duẩn.
326
Sài Gòn Giải Phóng, 22-1-1976.
327
Tố Hữu, Ta Đi Tới, in trong tập thơ Việt Bắc, xuất bản năm 1954. 
328
Hiện định cư ở Orange County, California, Mỹ.
329
Lúc ấy là phó chủ tịch kiêm giám đốc Công an Thành phố.
330
Tin Sáng, 16-9-1975.
331
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, cuốn I, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố.


332
Sau đổi tên thành Nhà hát Thành phố.
333
Sài Gòn Giải Phóng, 5-8-1975.
334
Báo cáo kết quả điều tra di dân tự do vào Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế, tháng 9-1997, trang 8.
335
Báo cáo kết quả điều tra di dân (trang 5) ghi những người đi kinh tế mới trong khoảng 1989-1995 chủ yếu là tự nguyện.
336
Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.
337
Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.
338
Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.
339
Không chỉ tuần hành thị uy ngoài đường, trong khí thế đó, các thanh niên bảo vệ Văn hoá còn dự định sẽ vào tận từng 
nhà để truy tìm, dẹp bỏ các văn hoá phẩm xấu. Tuy nhiên, theo ông Dương Đình Thảo, Giám đốc Sở Văn Hóa thông tin, sau 
chuyến công tác nước ngoài trở về, ông Thảo đã góp ý với ông Võ Văn Kiệt và đặc biệt với Trưởng Ban Tuyên huấn Trần 
Trọng Tân, để “chiến dịch bài trừ văn hoá” không lan vào các nhà dân.
340
Sài Gòn Giải Phóng, 1-6-1975.
341
Sài Gòn Giải Phóng, 4-6-1975.
342
Ông và gia đình vượt biên năm 1978.
343
Nay là đường Phan Đình Phùng.
344
Về sau, khi cuộc sống khó khăn, chúng được mang ra bán ở chợ sách Đặng Thị Nhu.
345
Theo lời kể của ông Nguyễn Diên Hồng, con trai cụ Nguyễn Đức Phong.
346
Sài Gòn Giải Phóng, 30-10-1975.
347
Sài Gòn Giải Phóng, 25-12-1975.
348
Từ Đông Đức trở về, quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của toàn thế giới”. 
Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an ách lại và ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến 
ngang hông. Tức tối, ông Nghĩa về cơ quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả 
lãnh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận 
xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng loe”. Tuy, ít nơi chính thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu 
như các mệnh lệnh thường có giới hạn thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn viên “hồng vệ 
binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy. Nhiều nơi, những người mặc quần loe, để tóc dài đã bị 
các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế
Việt Nam). Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông thấy, ở cơ quan 
Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần loe để tóc dài”.
349
Mao không có râu còn đầu Lenin thì không có tóc. 
350
Tính đến cuối năm 1974, ở miền Nam Việt Nam có 258.514 xe, gồm: 35.384 xe vận tải nặng; 64.229 xe du lịch; còn các 
xe máy dầu, xe gắn máy 2-3 bánh thì không tính hết vì chính quyền miền Nam không buộc các xe dưới 49cc phải đăng ký. 
Chỉ riêng Sài Gòn năm 1974 đã có 599.215 xe gắn máy, 3.025 xe taxi, 1.270 xích lô máy, 5.348 xích lô đạp. Tổng số xe 
công của các cơ quan và các đoàn ngoại giao có trên toàn miền Nam đến năm 1974 là 973.624 xe.
351
Sài Gòn Giải Phóng, 17-9-1975.
352
Sài Gòn Giải Phóng, 7-10-1976.
353
“Ngày 26-5-1976, trong cơn mưa bão tầm tã, đồng chí Võ Văn Kiệt, phó bí thư Thành ủy Đảng Lao động Việt Nam, chủ 
tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh, đã đi xem cơ sở biến chế than quả bàng, nhằm giải quyết tốt vấn 
đề chất đốt cho nhân dân thành phố. Miền Nam trước kia rất dồi dào than củi. Nhưng từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến 
xâm lược, bằng chính sách khai quang, dùng chất độc hủy hoại cây cối, khiến các rừng đước, rừng vẹt ở rừng Sác, Cà Mau, 
nơi cung cấp than củi cho nhân dân thành phố bị hủy diệt trên một quy mô rộng lớn, vấn đề chất đốt trở thành mối bận tâm 
lớn của nhân dân thành phố. Đồng bào phải dùng điện, dầu hôi hoặc hơi đốt để nấu ăn, như thế rất tốn kém. Hoặc phải dùng 
than hầm, củi của các rừng miền đông cũng rất đắt, lại thiếu vệ sinh. Đồng thời, cũng phí phạm rất nhiều cây gỗ, là nguồn 
tài nguyên quý báu của đất nước. Để giải quyết tình trạng trên, Đảng bộ và Ủy ban Thành phố đã chỉ thị cho các ngành 
chuyên môn phải khẩn trương nghiên cứu, tìm biện pháp giải quyết. Và lần đầu tiên, than quả bàng được phổ biến cho nhân 
dân dùng và được hoan nghinh như một loại chất đốt tiện lợi và tốt. Than quả bàng làm bằng than đá từ miền Bắc gởi vào, 
trộn với đất, rồi dùng máy ép lại cho chặt và phơi (hoặc sấy) khô. Trước hết, giá thành rất rẻ, chỉ bẳng từ 1 phần tư đến 1 
phần ba giá than củi trên thị trường. Một gia đình 5 người ăn, nấu 2 bữa cơm và 3 món thức ăn chỉ tốn mỗi ngày khoảng 1kg 
than quả bàng, trị giá độ 7 xu (tức 35 đồng tiền cũ)” (Sài Gòn Giải Phóng, 28-5-1976).
354
Sài Gòn Giải Phóng, 7-10-1976.
355
“Người xin đi đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình 
bày lý do xin đi (mẫu đơn đã in sẵn xin tại văn phòng công an phường, xã); Làm một bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng 
công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và tờ khai chuyển lên công an quận, huyện xét cấp. Thời gian xét 
cấp chậm nhất là ba ngày”. Đi các vùng biên giới, hải đảo, trên biển: “Người xin đi phải đem giấy chứng nhận nhân khẩu 
thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi (mẫu đơn in sẵn tại văn phòng công 
an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản tự khai chuyển lên công an quận, huyện và chuyển lên Sở Công 
an thành phố xét cấp. Thời gian xét cấp sẽ được giải quyết trong vòng ba ngày”. Đi các tỉnh phía Bắc: “Người đi đem giấy 
chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến Công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi; Làm một 


bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản tự khai chuyển lên 
công an quận, huyện xét duyệt cấp; Riêng đối với cán bộ, công nhân viên nhà nước chỉ cần có giấy phép và giấy giới thiệu 
của cơ quan (không phải làm đơn, không phải làm bản tự khai, đem tới Sở Công an thành phố sẽ được xép cấp)” (Sài Gòn 
Giải Phóng, 21-1-1977).
356
Tuổi Trẻ, 3-2-1976.
357
Trần Bạch Đằng nói: “Chúng ta quan niệm đẹp từ bản chất. Đó là luân lý dân tộc và đó cũng là quan điểm khoa học. 
Tuyệt đại đa số thanh niên chúng ta hiểu cái đẹp trong tư thế chiến đấu, trong động tác xung phong đánh giặc dũng cảm, 
trong tư thế đĩnh đạc trước hiểm nguy và trước mặt kẻ thù. Người ta có thể dựng tượng một thanh niên cắp lê phóng vào 
giặc Mỹ hoặc một thanh niên ưỡn ngực trước dùi cui của bọn cảnh sát ngụy nhưng không một nghệ sĩ nặn tượng nào hứng 
thú về một anh thanh niên tóc xấp xỏa ngang vai, quần áo nửa xanh nửa đỏ in đầy chữ quảng cáo pepsi cola, lái honda lượn 
nghinh ngang trên đường phố...”. Ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Luân lý của chế độ cũ nhồi nắn cho chúng ta cái ý thức 
làm ít hưởng nhiều, sự khôn ngoan là biết cách không làm gì hết mà vẫn sống phè phỡn, học hành cốt chọn một nghề gì ít 
mất sức nhất mà hưởng lợi nhiều nhất. Luân lý phản động ấy đã tạo cho một số thanh niên ghét nắng, kỵ mưa, mù sương 
không ưa… Giữ cái mịn màng của làn da hơn là giữ độc lập, tự do của dân tộc và phẩm giá, tiết trinh của chính bản thân”
(Trần Bạch Đằng, luận về cái đẹp, lược ghi, đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 7-5-1976).
358
Theo ông Võ Ngọc An, người phụ trách thời kỳ đầu của báo Tuổi Trẻ, hầu hết những bài báo “đánh tư sản mại bản”, dạy 
dỗ “Ngụy quân, Ngụy quyền” mà các báo đăng đều được lấy từ những tài liệu do Ban Tuyên huấn soạn sẵn và cung cấp. 
Ban Tuyên huấn Miền đến năm 1976 vẫn còn hoạt động, Trưởng Ban là ông Nguyễn Văn Linh và Phó Ban là ông Trần 
Bạch Đằng.
359
Xem Nhật ký Lý Mỹ, chương III - Đánh tư sản.
360
Theo Kim Hạnh, nguyên cán bộ Hội, tổng biên tập Tuổi Trẻ (1981-1991).
361
Theo ca sỹ Khánh Ly.
362
Dương Đình Thảo, trả lời phỏng vấn tác giả.
363
Bác sỹ Vũ Quần Phương được đào tạo trên miền Bắc, nhưng ông không phải là đảng viên vì có một người chú ruột di cư 
vào Nam. 
364
Nguyên văn "the road to hell is paved with good intentions", bắt nguồn từ câu viết nổi tiếng L'enfer est plein de bonnes

tải về 1.89 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   88   89   90   91   92   93   94   95   96




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương