Phương Bắc
Sau khi ký Hiệp định Paris, Kissinger đã đến Việt Nam. Có nhiều giai thoại nói
rằng khi đó, Kissinger cảnh báo: từ nay, mối đe dọa của Việt Nam sẽ đến từ
phương Bắc. Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn tác giả cuốn sách này, Cựu Ngoại
trưởng Henry Kissinger đã cười và giải thích: “Khi tới Hà Nội, Lê Đức Thọ dẫn tôi
đến bảo tàng lịch sử, ở đó chưa nói gì về chiến tranh với người Mỹ trong khi mô tả
khá chi tiết những lần xung đột với Trung Hoa. Anh nghĩ, Hà Nội còn cần tôi nói với
họ điều mà họ đã thuộc làu qua lịch sử!”.
Cảnh giác với người Trung Hoa là điều có từ trong máu người Việt Nam. Nhưng,
trong lịch sử nghìn năm kháng cự để tồn tại với “Thiên Triều”, chưa có triều đại nào
lại công khai xác định Trung Quốc là “kẻ thù truyền kiếp và lâu dài” trong các văn
kiện chính thức như thời Tổng Bí thư Lê Duẩn. Trong suốt thập niên Trung Quốc
đánh Việt Nam, Hà Nội vẫn giữ đại sứ tại Bắc Kinh và Bắc Kinh vẫn giữ đại sứ của
mình tại Hà Nội. Nhưng đó là một mối quan hệ không bình thường.
Theo Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc giai đoạn 1974-
1987, ngay từ khi mới xảy ra vấn đề người Hoa, ông đã rất “vất vả với các trò trẻ
con của Trung Quốc”. Tướng Vĩnh kể: “Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn
luôn chầu chực ở hai cửa của sứ quán ta, cán bộ mình đi đâu nó theo đấy, ngay đại
sứ đi nó cũng đi theo. Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ sứ quán ta ra, đi
được một đoạn, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh, đúng luật, thế
mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ.
Giấy tờ đủ cả! Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra
cái gì để bắt bẻ nữa. Chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác
hoặc với đại sứ nước nào đó”. Nhân viên sân bay Bắc Kinh cũng từng bắt Tướng
Vĩnh đi vào cửa kiểm tra hành lý, cho dù ông được quyền “miễn trừ ngoại giao”.
Tướng Vĩnh dọa “họp báo tố cáo Bắc Kinh vi phạm công ước quốc tế” và dọa sẽ áp
dụng biện pháp tương tự với đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội theo “nguyên tắc đối
đẳng” họ mới để ông đi theo cửa không kiểm tra hành lý.
Sau khi Trung Quốc rút hết quân vào ngày 18-3-1979, hai bên đã có hai vòng
đàm phán - vòng 1, từ 18-4 đến 18-5-79 tại Hà Nội và vòng 2, từ 28-6-79 đến 6-3-
80, tại Bắc Kinh - chủ yếu là giải quyết vấn đề tù binh. Theo ông Trần Quang Cơ:
“Từ năm 1980 đến cuối năm 1988, ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công
hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác. Trung
Quốc nâng cao dần điều kiện lên: về quân sự đòi Việt Nam rút quân khỏi
Campuchia, về chính trị đòi Việt Nam chấp nhận sẽ lập chính phủ liên hiệp ở
Campuchia, bao gồm cả Khmer Đỏ”.
Chỉ hơn một năm sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc bắt đầu gây chiến
tranh trở lại
580
. Duy trì chiến sự trên biên giới phía Bắc không chỉ làm suy kiệt Việt
Nam mà còn là nơi để Trung Quốc phối hợp tấn công khi các phái Khmer chống Việt
Nam bị đánh đuổi trên vùng biên giới Thái
581
. So với thời điểm tháng 2-1979, cuộc
tiến công năm 1984 của Trung Quốc có trình độ tác chiến cao hơn hẳn. Ngày 16-5-
1984, chỉ sau mười tám ngày điều quân, Trung Quốc đã chiếm và chốt giữ hai mươi
chín điểm dọc biên giới Việt Nam.
Cuộc phản công đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 11-
6-1984, đánh vào các cao điểm 233, 685 nhưng không thành công. Cuộc phản công
quy mô hơn vào ngày 12-7-1984 cũng bị coi là thất bại. Chiến sự ở thế dằng co kéo
dài cho tới tháng Giêng năm 1985. Có những nơi, chốt của quân đội Việt Nam cách
chốt của quân Trung Quốc chỉ từ sáu đến tám mét; có những điểm cao, đôi bên liên
tục giành giật, chiếm đi, chiếm lại ba bốn chục lần. Do địa hình phía Việt Nam hiểm
trở, tháng 3-1985, Trung Quốc chiếm lại được bốn điểm cao quan trọng thuộc khu
vực Quân khu II, đặc biệt là các khu vực thuộc vùng biên giới Hà Giang. Đây là giai
đoạn chiến tranh có tỉ lệ thương vong cao nhất ở vùng biên giới
582
.
Tháng 2-1979, khi Đặng Tiểu Bình đánh Việt Nam, Liên Xô đang có năm mươi
sáu sư đoàn ở vùng biên giới với Trung Quốc nhưng đã không có bất cứ một động
thái quân sự nào. Trước “thông điệp” này, Đặng Tiểu Bình quyết định “đi đêm” ngay
với Moscow, và mặc dù nhận ra sự yếu kém của quân đội, Đặng quyết định không
cần vội vã chi tiền hiện đại hóa quân sự
583
. Tuy nhiên, Đặng vẫn duy trì chiến tranh
quy mô nhỏ trên vùng biên giới, một mặt giữ chân thường xuyên hơn 800 nghìn
quân Việt Nam
584
, mặt khác, biên giới trở thành chiến trường thật để quân đội
Trung Quốc có nơi huấn luyện. Trong thập niên 1980, gần hết lực lượng bộ binh
Trung Quốc ở trên cả nước đã được luân chuyển đến tác chiến ở vùng biên giới Việt
Nam
585
.
Chiến cuộc đã giữ chân đội quân bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam lên tới ba
quân đoàn, mười một sư đoàn, mười ba trung đoàn trung đoàn và bảy mươi tiểu
đoàn độc lập, góp phần đưa lượng quân thường trực ở cả hai đầu đất nước lên tới
1,6 triệu người. Sau khi Gorbachev nhận chức tổng bí thư, viện trợ của Liên Xô cho
Việt Nam bắt đầu bị cắt giảm. Người lính trên biên giới phía Bắc vừa rất khổ về vật
chất, vừa rất căng thẳng về tinh thần. Hà Nội nhận ra không thể tiếp tục duy trì
tình trạng đó.
“Giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia” liên quan đến “bình thường hóa
quan hệ Việt - Trung” được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết 32/BCT21, ngày 9-
7-1986, một ngày trước cái chết của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Hội nghị do Trường
Chinh chủ trì. Nghị quyết 32 ra đời, theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ,
“không phải là ngẫu nhiên”. Gần hai mươi ngày sau đó (28-7-1986), tại
Vladivodstock, Gorbachev công bố chính sách đối ngoại mới, theo đó, Liên Xô sẽ:
“Xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết ‘ba trở ngại’ mà Trung Quốc nêu ra: rút
quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung-Xô, giải quyết vấn đề
Campuchia”. Gorbachev tuyên bố: “Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các
thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp Hiệp quốc mà phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung
Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng”.
Vấn đề “Việt Nam rút quân khỏi Campuchia” đã từng được Trung Quốc đề cập tại
vòng một, đàm phán Xô-Trung, tháng 10-1982. Sau chiến dịch pháo kích và tập
kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc - kéo dài từ tháng 4 đến tháng
6-1984 - Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia thì
hai bên sẽ bắt đầu đàm phán. Ngày 21-1-85, trong thư gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam,
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Ngô Học Khiêm viết: “Quan hệ Trung-Việt xấu đi,
vấn đề cốt lõi là quân đội Việt Nam xâm chiếm Campuchia... Sau khi Việt Nam công
khai cam kết và thực hiện rút quân thì đàm phán mới có ý nghĩa thực tế”
586
.
Ngày 7-3-1987, chưa đầy ba tuần sau khi ông Lê Đức Anh nhận chức bộ trưởng
Quốc phòng, Bộ Chính trị tổ chức một hội nghị hẹp, Tướng Lê Đức Anh cho rằng:
“Trung Quốc gây xung đột vũ trang ở biên giới không phải có ý định xâm lược mà vì
một mục đích khác”
587
. Sau Hội nghị đó, Tướng Lê Đức Anh đã cho: “Điều chỉnh tạm
thời lại thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc: Các đơn vị chủ lực cơ động lui
xuống phía sau, tuyến thứ hai; đưa dân lên sống và sản xuất, đưa dân quân, bộ đội
địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một”. Theo ông thì sự điều chỉnh này “là
bước thăm dò đầu tiên với phía bên kia”
588
.
Đầu năm 1987, Việt Nam bắt đầu “giảm tuyên truyền chống đối Trung Quốc”.
Theo Thứ trưởng Trần Quang Cơ: “Ngày 20-5-87, Bộ Ngoại giao làm tờ trình lên Bộ
Chính trị kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là “kẻ thù
trực tiếp và nguy hiểm nhất” như đã sửa Điều lệ Đảng. Mãi tới 26-8-88 Quốc hội
mới có nghị quyết thông qua việc sửa này”
589
.
Ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13, xác định: “Bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc là một quá trình gay go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau
khi bình thường hóa, quan hệ hai nước khó trở lại ngay như những năm 1950,
1960… Cần phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, chỉ thấy giới hạn Trung
Quốc là bá quyền, không thấy Trung Quốc là xã hội chủ nghĩa; hoặc chỉ thấy Trung
Quốc là xã hội chủ nghĩa mà không thấy bá quyền, bành trướng”
590
.
Lúc này, cả Hà Nội và Phnom Penh đều nhận thấy không thể trì hoãn việc rút
quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia. Càng ngày, Phnom Penh càng chịu nhiều sức
ép quốc tế và các nhà lãnh đạo Phnom Penh biết rõ: Không có quân đội Việt Nam
thì Pol Pot có thể cướp lại chính quyền, nhưng nếu vẫn còn quân đội Việt Nam thì
vai trò chính trị của Phnom Penh vẫn bị coi là lệ thuộc. Họ nhận thấy cơ hội của
mình và chấp nhận tác chiến độc lập với một đối thủ đã từng tàn bạo.
Ngày 5-1-1989, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến Phnom Penh dự lễ kỷ
niệm “ngày 7 tháng Giêng”, trong cuộc hội đàm lúc mười sáu giờ chiều cùng ngày,
theo đề nghị của Chủ tịch Heng Samrin, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sửa bài
diễn văn chuẩn bị từ Việt Nam. Để chiều 6-1-1989, hai nhà lãnh đạo cùng tuyên
bố: “Việt Nam rút hết quân chậm nhất là tháng 9-1989 nếu có giải pháp chính
trị”
591
. Trước ngày rút hết quân, Việt Nam cho lập năm tổng lãnh sự quán ở những
vùng nguy cơ Khmer Đỏ cao. Những người giữ chức tổng lãnh sự này đều là sỹ
quan cấp tá dày dạn chiến trường chứ không phải là các nhà ngoại giao.
Ngày 30-9-1989, bốn ngày sau khi Việt Nam rút quân đợt cuối, lực lượng Son
Sann đánh chiếm Thmar Ponk. Ngày 22-10-1989, Khmer Đỏ đánh chiếm Pailin và
uy hiếp thị xã Battambang. Bộ đội Campuchia ở Pailin bỏ chạy. Phnom Penh cầu
cứu và Việt Nam đã đưa một lực lượng đặc biệt lên giúp bộ đội Phnom Penh tái
chiếm. Quân đội Campuchia thấy Việt Nam chưa bỏ rơi mình, Khmer Đỏ cũng ý
thức rõ hơn điều đó nên về sau, đã không còn có chiến dịch nào uy hiếp mạnh
hơn
592
.
Tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia vào năm 1989 của Việt Nam đã phá vỡ
nhiều bế tắc, các diễn đàn mới về Campuchia được khai thông. Trung Quốc không
còn có thể gây sức ép với Việt Nam và ASEAN như trước, cho dù vẫn tìm cách
chống phá Việt Nam, và gây xung đột vũ trang ở Trường Sa vào tháng 3-1988
593
.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |