Bên Thắng Cuộc I. Giải Phóng



tải về 1.89 Mb.
Chế độ xem pdf
trang95/96
Chuyển đổi dữ liệu26.10.2023
Kích1.89 Mb.
#55447
1   ...   88   89   90   91   92   93   94   95   96
Huy Duc - Ben Thang Cuoc

volontés et désirs của Thánh Bernard xứ Clairvaux
365
Trao đổi với tác giả qua email.
366
Tên thật của nhà thơ Thận Nhiên.
367
Mãi tới năm 2009 Đỗ Trung Quân mới công bố bài thơ này trên blog.
368
Chỉ thị 222 ngày 17-6-1975 của Ban Bí thư.
369
Trong Chỉ thị 222, Tố Hữu viết: “Trước hết, chúng ta cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng thầy giáo và học sinh ở các 
trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam là những người con của dân tộc Việt Nam, là nạn nhân của một nền giáo dục 
nô dịch và phản động của Mỹ và tay sai, chúng ta phải có trách nhiệm giáo dục đầy đủ để họ nhanh chóng trở thành những 
người công dân trí thức yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”.
370
Ông Phan Lạc Phúc viết: “Khi tôi đi cải tạo con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười lăm tuổi bắt đầu thiếu 
nữ. Các chị nó “vượt biên” hết cả chỉ còn nó ở lại với “mẹ cháu” đợi tôi. Khi tôi về, nó theo tôi đi chơi tha thẩn. Ở Hóc 
Môn nó không có bao nhiêu bạn. Nó theo tôi lên Sài Gòn chơi với Tr. T. con gái Thanh Tâm Tuyền, hay “đi chợ” với chị 
Ch. con gái bác Hà Thượng Nhân. Thôi thì bố chơi với bố, con chơi với con cũng là phải đạo. Chưa được gặp nhưng con tôi 
nó muốn gần chị G., con gái đầu của Tô Thùy Yên. G. học thật giỏi. Trong một xã hội Xã hội Chủ nghĩa (không có giai cấp) 
nhưng khi thi vào đại học có 15 thứ hạng. Ưu tiên hạng 1,2,3 thuộc gia đình cách mạng hay “chính sách” thì, thi 3 bài từ 7 
điểm trở lên đã được “chiếu cố” vô Đại học rồi. Con gái “ngụy quân” như chúng tôi đứng hạng thứ 14 áp chót (hạng chót là 
gia đình phản động, phản cách mạng). Khi bố đi tù cải tạo về rùi thì lại lên được một hạng, hạng 13. Con gái ngụy quân 
muốn vô Đại học phải đạt 21 điểm, gấp 3 số điểm gia đình chính sách thì mới vô đại học được” (Phan Lạc Phúc, Bạn Bè 
Gần Xa, Nhà Xuất bản Văn Nghệ, 2002, tr 420-421).
371
Nhật ký Nguyễn Mạnh Huy.
372
Thư bạn đọc Nguyễn Kỳ Tâm viết: “Khi giải phóng, tôi vừa 17 tuổi. Trong cái nô nức, hồ hởi của những người chung 
quanh, tôi cũng thấy lòng mình rộn lên bao niềm tự hào, hãnh diện. Tôi trở về Sài Gòn tiếp tục học để thi vào đại học. Tôi 
tham gia những hoạt động thanh niên, và chính nơi đây, trong những buổi sinh hoạt, qua những câu chuyện, sách báo... tôi 
dần dần thấy ra vấn đề lý lịch của mình. Rồi tôi rớt đại học. Tôi xin vào làm tại một số cơ quan nhà nước, nhưng chờ mãi
cũng chưa thấy nơi nào trả lời. Gần hai năm rồi tôi vẫn cứ là cảm tình Đoàn, và nhiều sự việc khác cứ làm tôi suy nghĩ... 
Tuổi Trẻ ơi, phải chăng tương lai của chúng tôi coi như chấm dứt, xã hội mới sẽ không có chỗ đứng nào cho những người 
như chúng tôi? Có phải số phận đen đủi với cái lý lịch quái ác sẽ đưa tôi ra ngoài rìa xã hội? Mà tôi có ao ước gì cao xa đâu.
Chỉ muốn sống và công tác bình thường mà không bị nghi kỵ, thành kiến”.
373
Năm 1978, Luật sư Trần Văn Tuyên, một trí thức nổi tiếng, có cô con gái thi đậu đại học nhưng không được học. Các trí 
thức Sài Gòn phản ứng nhưng không ai dám giải quyết vì đấy là nguyên tắc. Nhờ ông Kiệt can thiệp, con gái của Luật sư 


Trần Văn Tuyên, không những được vào đại học mà còn được đi du học tại Liên Xô.
374
Ông Võ Văn Kiệt nhấn mạnh“hậu quả của chính sách độc hại nhất của nước Mỹ”, rồi phê phán: “Một tâm lý xã hội tiêu 
thụ cực đoan đã giết chết thói quen và tinh thần yêu lao động cố hữu của dân tộc. Trong mọi vết thương của chiến tranh, 
chính vết thương tinh thần đó là khó chữa nhất". Ông kêu gọi: “Trong những năm chiến đấu,… có bạn trẻ nào không xúc 
động với câu hát: ‘Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương?’ Quê hương hôm nay không đòi hỏi mỗi người tuổi trẻ phải 
chết. Đất nước vĩnh viễn độc lập, tự do rồi. Quê hương đòi hỏi anh phải sống và sống cho ra sống. Câu hát đó ta nên sửa lại 
là: ‘Nếu là người tôi phải sống cho quê hương’. Sống là chia sẻ ngọt bùi với nhân dân. Sống không phải ăn bám mà là lao 
động”.
375
Về sau Trần Ngọc Châu trở thành Tổng thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, Phó TBT Thời báo Kinh Tế Sài Gòn.
376
Nhà văn viết chuyện thiếu nhi.
377
Cha Nguyễn Nhật Ánh phải cải tạo từ 1975-1982.
378
Trong bài phát biểu này, ông Võ Văn Kiệt đã nêu những ví dụ: “Ở một đại đội có hai đồng chí gàn bướng nhất đơn vị, 
không biết nội quy kỷ luật là gì, đánh lộn gây gỗ là thường xuyên, thì nay đã là cá nhân xuất sắc của Đại hội, một đồng chí 
là tiểu đội trưởng, một đồng chí là tiểu đội phó của đơn vị. Có đồng chí trước đây xâm tay xâm mình, đã lấy thanh sắt hoặc 
đũa nướng xóa đi những vết xâm đó, thà rằng mang thẹo còn hơn”. 
379
Theo phát biểu của ông Võ Văn Kiệt ngày 3-3-1977: “Có người xuất thân từ công nhân, ở đợ, văn hóa chưa làm được 
toán trừ thì nay đã là đại đội trưởng, liên đội phó xuất sắc, giỏi về công tác chính trị và cả về quản lý, kỹ thuật. Có người 
trước đây chuyên buôn bán chợ trời, thì nay trở thành cán bộ, giáo viên văn hóa. Có đại đội với ngót 40% thanh niên là binh 
lính thuộc chế độ cũ và lưu manh, xì ke ma túy, sau sáu tháng phấn đấu đã bình, tuyển được gần tám mươi cá nhân tiên tiến, 
xuất sắc và biểu dương. Nhiều anh em trước đây không biết chữ, nay vào thanh niên xung phong đã biết chữ”.
380
Cách nói chỉ những người không thuộc sự quản lý của một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức chính trị nào.
381
Tiểu thuyết Trăm Sông Về Biển của Nguyễn Đông Thức là dựa trên câu chuyện có thật này.
382
Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 933.
383
Lâm Văn Tết (1896-1982) là một trí thức có uy tín lớn ở miền Nam. Gia đình ông là một đại điền chủ ở Bạc Liêu. Từ
năm 1943, ông Lâm Văn Tết hoạt động chống Pháp nhưng thân Nhật. Ông từng ủng hộ Việt Minh nhưng sau đã bỏ về thành 
vì không tán thành cộng sản. Dưới thời Ngô Đình Diệm, ông chống lại sự can thiệp của Mỹ và khi ông Diệm bị lật đổ, Lâm 
Văn Tết được mời làm phó chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia, một cơ quan giống như thượng viện (nhưng không do dân 
bầu). Từ năm 1965, khi ông bày tỏ sự bất mãn trước việc quân Mỹ được đưa tới miền Nam, cán bộ trí vận đã vận động được 
ông bỏ thành theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam.
384
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 182.
385
Các tuyên bố quan trọng của Mặt trận đều do Ban Bí thư chuẩn bị từ Hà Nội rồi chuyển vào cho Trung ương Cục. Trong 
bức điện số 598 ngày 30-4-75, Ban Bí thư gửi Trung ương Cục, viết: “Ngoài này đang chuẩn bị tuyên cáo của Chính phủ 
Cách mạng Lâm thời. Khi làm xong sẽ điện vào các anh góp thêm ý kiến” (Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản 
Chính trị Quốc gia 2004, trang 180). Ban Bí thư làm việc chi tiết đến mức, ngay trong ngày 30-4-1975, đã gửi “Điện 597” 
hướng dẫn: “Bình thường, thì treo một cờ Chính phủ Cách mạng, những ngày lễ lớn thì treo thêm cờ đỏ sao vàng. Trước 
mắt, vào Sài Gòn treo một cờ miền Nam, đến ngày mừng chiến thắng chung hãy treo hai cờ” (trang 179).
386
Theo Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình: “Vấn đề chính trị nổi 
lên lúc này là nên thống nhất về mặt hành chính nhà nước vào thời gian nào? Có ý kiến cho rằng việc thống nhất hoàn toàn 
đất nước là không có gì phải bàn cãi vì là nguyện vọng sâu xa của toàn dân trên cả hai miền. Độc lập và thống nhất là mục 
tiêu cơ bản của cuộc đấu tranh trong mấy chục năm liền của dân tộc. Nhưng có nên duy trì trong một thời gian hai chính 
quyền với những chế độ chính trị khác nhau, miền Bắc là xã hội chủ nghĩa, còn miền Nam là chế độ dân tộc, độc lập, trung 
lập theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam? Như vậy là để miền Nam có thể tranh thủ sự viện trợ và 
hợp tác rộng rãi không những của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc mà cả các nước và tổ chức tư bản. Sau cùng, 
ý kiến nhất trí cho rằng nên thực hiện thống nhất đất nước hoàn toàn về các mặt càng sớm càng tốt. Tôi đã giơ tay tán 
thành” (Nguyễn Thị Bình, Hồi ký, Nhà Xuất bản Tri Thức 2012, trang 189).
387
Theo nhà báo, cựu dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.
388
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 163.
389
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 223.
390
Chữ R có thể xuất xứ từ chữ Ré-gion tiếng Pháp.
391
Lúc ấy là phó bí thư Sài Gòn - Gia Định.
392
Bí thư Lê Duẩn nói: “Tôi đi vào trong đó xem, họ có cái máy trộn nhựa đường, cho đá vào, họ bảo trộn như thế ngay lập 
tức có thể tráng được 100 lần[?]. Còn ta thủ công, ngồi ngay ngoài đường làm, không được bao nhiêu cả… Tại sao người 
thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong kia? Mình trả lời sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh lại không bằng 
được trong kia, anh trả lời làm sao?... Tại sao chúng nó là tư bản, chúng nó bóc lột rất dữ mà năng suất vẫn cao?”. Rồi ông 
trả lời: “Vì tư bản đã đi đúng theo quy luật của tư bản, nó bóc lột nhưng mà vẫn tiến lên. Còn ta là chủ nghĩa xã hội nhưng 
ta đã chưa đi đúng theo quy luật xã hội chủ nghĩa của ta. Đúng mặt này nhưng chưa đúng mặt kia, cho nên ta cứ chập chờn 
mãi, chòng chành mãi”. Ông Lê Duẩn nói tiếp: “Anh Năm[Trường Chinh] có đề nghị với tôi rằng ở miền Bắc cũng cứ cho 
những người thợ thủ công làm chủ một số công nhân, cứ cho họ làm đi, chứ không phải chỉ riêng miền Nam đâu. Tôi cho 


rằng cũng nên làm việc này, cho tự do phát triển… Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần 
kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này... Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hoá ngay lập tức… Nhưng
miền nam bây giờ không thể làm như vâỵ được. Miền Nam bây giờ nếu anh không để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, mà 
nông dân thì phần nào hóa tư sản rồi, anh mà làm sai đi thì công nông không liên minh được đâu. Phải có tư sản, phải cho 
nó phát triển phần nào đã. Phải để kinh tế mấy thành phần thì nông dân mới theo ta, liên minh mới chặt chẽ được. Bây giờ 
nông dân ở miền nam họ làm rất khá. Bắt hợp tác hoá là không đúng, năng suất thấp xuống thì hỏng hết cả, nó sẽ không 
theo giai cấp vô sản nữa, không thống nhất được đâu”(
Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu trữ tại Văn 
phòng Trung ương, VK.36.42).
393
Ngày 13-8-1975, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nói: “Bây giờ nói đến thống nhất đã. Chúng ta đồng tình thống nhất ngay bây 
giờ đây, đồng tình cả rồi đấy. Nhưng tôi nghĩ, vấn đề này cũng là một vấn đề rất quan trọng: có nội dung lịch sử của nó cơ; 
có nội dung chính trị, kinh tế, xã hội của nó cơ… Các đồng chí hôm qua nói, thắng lợi trọn vẹn nhất, chữ trọn vẹn ấy, tôi 
hiểu khác các đồng chí, trọn vẹn nhất có nghĩa là ba mươi năm nay từ khi có Đảng đến giờ, ta xây dựng được một nước Việt 
Nam Độc lập Xã hội Chủ nghĩa. Độc lập và chủ nghĩa xã hội, trọn vẹn là cái đó cơ” (Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung 
ương 24, lưu trữ tại Văn Phòng Trung ương, VK.36.42).
394
Nghị quyết Trung ương 24, khóa III, 1975.
395
Mật danh của chiến dịch “Đánh tư sản” tháng 9-1975.
396
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 24, khóa III: “Phải xoá bỏ tư sản mại bản bằng cách quốc hữu hóa cơ sở kinh tế của họ,
biến thành sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý. Đối với kinh tế tư sản dân tộc, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình 
thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ những cơ sở sản xuất kinh doanh quan trọng. Cho phép tư sản dân tộc tồn tại và kinh
doanh một số ngành nghề nhất định phù hợp với quốc kế dân sinh, với số công nhân hạn chế, dưới sự chỉ đạo của nhà nước 
và sự giám sát của công nhân” (Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu trữ tại Văn Phòng Trung ương, 
VK.36.42).
397
Ngày 1-9-1975, Thường Vụ Trung ương Cục đã làm việc với Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định để thông qua kế hoạch “Chiến 
dịch X2”. Mở đầu, ông Nguyễn Văn Trân, phổ biến: “Sau chiến thắng, chúng ta phải tiếp tục đưa cách mạng Miền Nam đi 
lên. Trước khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, ta phải xác định tồn tại trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ là 
phải đấu tranh xoá bỏ giai cấp tư sản, giai cấp bóc lột, trước hết là giai cấp tư sản mại bản. Chúng ta đã khẳng định đối 
tượng của cách mạng như trên thì không bao giờ có ý kiến khác”. Bí Thư Đảng ủy Đặc biệt Võ Văn Kiệt nói thêm: “Bộ 
Chính trị đã nhất trí với Trung ương Cục và chỉ đạo chúng ta đánh dứt điểm tư sản mại bản như anh Trân đã trình bày. Bộ 
Chính trị chỉ thị cho chúng ta thêm: Phải đánh và đánh sớm”. Chủ trì buổi làm việc, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn 
Văn Linh, kết luận: “Bước sang giai đoạn mới tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải thanh toán hết giai cấp tư sản. Có 
nhiều cách thanh toán giai cấp tư sản và nhiều lý do: phải đi vào nhiệm vụ mới, do sự cấp bách phải ổn định tình hình đời 
sống nhân dân, ổn định sản xuất. Trước mắt phải đánh vào toàn bộ giai cấp tư sản mại bản. Đối với giai cấp tư sản thường
[tư sản dân tộc], thì ta có biện pháp để họ làm ăn nhưng phải cải tạo họ. Đợt đầu ta tập trung đánh một số, 60 tên, nhưng cần
nghiên cứu sắc lại hơn nữa. Cần nắm đầu sỏ trực tiếp các ngành quan trọng vì nếu không đánh nó sẽ tác động thị trường.
Nói đánh 60 tên nhưng thực tế sẽ lan ra cả ngàn tên” (Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành 
ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975).
398
Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 17-12-2004.
399
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư 1992-1997.
400
Trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.
401
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng 1982-1985.
402
Trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.
403
Theo ông Trần Phương: “Trong một dịp nghỉ dưỡng bệnh dài ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị tôi giúp ông hiểu 
lại toàn bộ hệ thống kinh tế học của Marx trong bộ Tư Bản mà trước đó ông đã đọc. Từ đó, tôi dành một tuần hai buổi lên 
nhà ông để trình bày có hệ thống từ quyển I cho đến quyển IV, thời gian ‘giảng dạy’ kéo dài khoảng sáu tháng. Sau đó, ông 
Giáp có giới thiệu với ông Phạm văn Đồng nên ông Đồng lại mời tôi mở lớp. Lê Duẩn thì khác, ông không yêu cầu tôi 
giảng giải, ông muốn tự đọc. Chỗ nào cần thì ông trao đổi trực tiếp với tôi. Trên cơ sở đó, nhiều khi ông còn đi giảng giải ở 
trường Nguyễn Ái Quốc, ở các cơ quan về các tư tưởng kinh tế của Marx” (Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam, Nhà 
Xuất bản Tri Thức 2008, trang 20).
404
Trả lời phỏng vấn tác giả.
405
Nhân Dân, 1-6-1958.
406
Năm 1945, mặc dù ở Hà Nội, Liên Xô có đại diện, nhưng người của Stalin chỉ đến gặp Chính phủ Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa để tìm hiểu về những công dân Liên Xô trong quân đội Pháp-Nhật chứ không có cuộc gặp gỡ ngoại giao nào. 
Điện của Hồ Chí Minh gửi Stalin năm 1945 cũng không hề được ông ta trả lời. Năm 1947, trong một chuyến thăm Châu 
Âu, Phạm Ngọc Thạch tìm cách liên lạc với Liên Xô và đã gặp được đại diện Liên Xô tại Thụy Sĩ. Tháng 12-1947, ông 
Thạch gửi thư đề nghị giúp đỡ tới Moscow. Nhưng ông đã phải về tay không. Đầu năm 1948, Hoàng Văn Hoan, một nhà 
lãnh đạo từng gắn bó với Hồ Chí Minh từ thập niên 1920, cũng từ Trung Quốc đến Thái Lan, sử dụng các mối quan hệ trong 
Ban Cán sự Hải ngoại của Đảng để liên lạc với các quốc gia cộng sản nhưng cũng không đạt kết quả.
407
Theo Trần Dân Tiên, Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch, xuất bản năm 1948.


408
C.E.Goscha, 2006. 
409
Năm 1924, trong “Thư gửi đồng chí Pêtrôp, Tổng thư ký Đông Phương Bộ”, Nguyễn Tất Thành, khi ấy đã lấy tên 
Nguyễn Ái Quốc, viết: “Đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống Phương Tây, chủ nghĩa Marx xây dựng cơ sở lịch 
sử của mình ở châu Âu, mà châu Âu không phải là toàn thế giới”. Nguyễn Ái Quốc cũng đề nghị: “Cần bổ sung chủ nghĩa 
dân tộc, một động lực của lòng yêu nước, vào chủ nghĩa Mác”. Nguyễn Ái Quốc khi đó chủ trương “đoàn kết các tầng lớp 
yêu nước, tiến hành chống đế quốc trước - để giải phóng dân tộc; đồng thời hạn chế sự bóc lột của phong kiến, thành lập 
chính quyền cộng hòa dân chủ nhân dân, thay vì lập chính phủ chuyên chính vô sản”. Những ý kiến trên đây của Nguyễn Ái 
Quốc trái với những luận điểm của Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là Stalin. Hậu quả là ông đã bị Stalin “hạn chế giao lưu với 
các đối tượng khác”. Năm 1925, khi Nguyễn Ái Quốc trở về Châu Á, Quốc tế Cộng sản đã không cấp cho ông giấy giới 
thiệu với Đảng Cộng sản Trung Quốc, với Quốc dân Đảng của Tôn Dật Tiên, không cung cấp tài chính để ông đi đường và 
sinh sống.
410
Ngày 14-7-1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78/SL, buộc “Các chủ điền phải giảm tô cho tá điền từ 25% đến 35%; lấy 
ruộng đất của điền chủ người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian chia cho nông dân”. Ngày 22-5-1950, ông ký Sắc 
lệnh số 89/SL: “Xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ điền và tá điền trước 1945, nếu món nợ sau 1945 thì chỉ phải trả vốn mà 
không phải trả lãi”. Ngày 20-4-1953, ký “Sắc lệnh Giảm tô”, bằng cách “Giảm thêm giá thuê đất 25%, để tổng số phí tổn 
của tá điền không quá 1/3 hoa lợi”.
411
Báo cáo của Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích cải cách ruộng đất là: tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, 
giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến. 
Phương châm là: làm cho nông dân tự giác tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để 
giải phóng nông dân. Phương pháp là: phóng tay phát động quần chúng nông dân; tổ chức giáo dục và lãnh đạo quần chúng 
nông dân đấu tranh. Phải dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng. Tuyệt đối chớ dùng cách ép 
buộc, mệnh lệnh, bao biện, làm thay. Đường lối chính sách chung là: dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung 
nông, liên hiệp với phú nông; tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt. Phát triển sản xuất, đẩy mạnh 
kháng chiến…”.
412
Trong Nội San Cải Cách Ruộng Đất số ra ngày 25-2-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhục hình là lối dã man, là cách 
của đế quốc, tư bản, phong kiến, nó dùng để trị quần chúng, trị cách mạng. Chúng ta có cuộc sống đúng, có lý lẽ đúng, có 
lực lượng mạnh, sao mà còn phải làm một cách dã man? Dùng nhục hình là chưa tẩy sạch tư tưởng dã man, đầu óc phong
kiến đế quốc. Phải dùng nhục hình là vì không chịu khó phát động quần chúng. Vì vậy tuyệt đối không được dùng nhục 
hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của Đảng, của Chính phủ, trái tác phong của cách mạng… Đánh người ta đau 
quá thì không có người ta cũng phải nhận là có. Như thế là cán bộ đã tự mình lừa mình. Từ nay các cô, các chú phải kiên 
quyết sửa chữa khuyết điểm này”. Tháng 10-1956, Bộ Chính trị thừa nhận: “Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại 
khái, quan liêu, độc đoán, trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch 
và đánh cả vào hàng ngũ của ta, quy bức nhục hình phổ biến… Coi tổ chức của Đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và 
của quần chúng là do địch lũng đoạn, nên đã khủng bố tàn khốc những người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng 
viên và cán bộ cốt cán của Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng”.
413
Báo cáo của Bộ Chính trị năm 1956 kết luận: “Do phương châm và phương pháp đều sai lầm, truy bức và nhục hình phổ 
biến, nên trong việc chỉnh đốn chi bộ, đã đả kích tràn lan vào nội bộ Đảng, giải tán chi bộ bừa bãi, bắt bớ và xử trí cả những 
đảng viên tốt, xử bắn lầm một số bí thư chi bộ hay chi ủy viên có nhiều công lao với Đảng. Trong số 8.829 đảng viên bị xử 
trí ở Tả Ngạn thì 7.000 thuộc thành phần nông dân lao động và thành phần lao động khác. Ở Hà Tĩnh thì hầu hết các chi bộ 
xã bị kết luận sai là do phản động lũng đoạn. Có nơi chi bộ nào tốt nhất thì bị đàn áp nặng nhất, đảng viên nào tốt nhất thì bị 
xử trí nặng nhất. Nhiều chi bộ có công lớn trong kháng chiến đã bị coi là chi bộ phản động, bí thư và chi ủy viên bị hình
phạt: tù hoặc bắn”. Báo cáo năm 1956 của Bộ Chính trị viết tiếp: “Chỉnh đốn trên thực tế là một cuộc trấn áp dữ dội bằng 
những thủ đoạn tàn khốc và trên một quy mô lớn đối với tổ chức Đảng ta ở nông thôn. Ở cấp huyện và tỉnh, tổng số bị xử trí
là 720 cán bộ và nhân viên, tỷ lệ là 21%. Nhưng nếu lấy cán bộ từ cấp ty trở lên thì tổng cộng có 284 người, số bị xử trí lên 
105 người. Tỉnh uỷ viên tại chức dự chỉnh đốn 36 người, thì bị xử trí 19 người, tỉnh uỷ viên cũ dự chỉnh đốn là 61 người thì 
bị xử trí 26 người, ủy viên ủy ban hành chính tỉnh dự chỉnh đốn 17 người thì bị xử trí 15 người. Riêng Hà Tĩnh, trong 19 
tỉnh uỷ viên, công an hoặc huyện đội thì tất cả bị quy là phản động, gần đây kiểm tra lại thì nhận thấy tất cả đều bị quy sai. 
Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những 
nhục hình rất tàn khốc dã man… dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ, dùng truy bức nhục hình đối với đảng viên, 
giao cho cán bộ của đội không phải là đảng viên làm nhiệm vụ xử trí đảng viên…, sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc, 
vi phạm những quyền tự do cá nhân của người công dân, đem phương pháp đấu tranh với kẻ địch mà tiến hành đấu tranh 
trong nội bộ…”.
414
Trong thời hạn đình chiến 300 ngày để hai miền chuyển quân theo Hiệp định Geneve, khoảng 140.000 bộ đội và cán bộ 
cộng sản và gia đình đã tập kết ra Bắc; chỉ có 4.358 dân thường hồi cư, một số là phu đồn điền gốc Bắc vào Nam đã lâu, 
một số mới di cư vào tới nơi thì đổi ý… Trong khi đó, theo thống kê của Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn của Chính quyền Sài 
Gòn, có tới 950.000 người dân miền Bắc di cư vào Nam: 871.533 người đi trước ngày 19-5-1955; 3.945 người đi trong thời 
gian gia hạn; 76.000 người khác đã dùng thuyền hoặc đi đường bộ xuyên rừng qua Lào để vào Nam sau khi thời hạn tự do 
đi lại giữa hai miền chấm dứt.


415
Khi ấy là chuyên viên của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
416
Hội nghị quốc tế lần thứ II, còn gọi là “Hội nghị 81 đảng”, họp vào tháng 11-1960. Đoàn Việt Nam do Bí thư thứ Nhất 
Lê Duẩn dẫn đầu đến Moscow. Sau khi ông trở về, báo Nhân Dân ngày 7-12-1960 đăng xã luận: “Trong ba năm qua, Đảng 
ta luôn luôn tỏ ra tuyệt đối trung thành với Bản tuyên bố năm 1957. Từ nay về sau, cũng như đối với Bản tuyên bố năm 
1957 trước đây, Đảng ta nguyện triệt để ủng hộ và tuân theo bản tuyên bố mới, coi đó là vũ khí sắc bén của mình để tăng 
cường lực lương về mọi mặt, và tiến lên giành những thắng lợi mới”.
417
Đặng Phong, 2008, trang 51.
418
Như Hoàng Tùng, Trần Quỳnh, Đào Duy Tùng, Nguyễn Cơ Thạch, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Đức Bình, nguyễn 
Khánh, Nguyễn Vịnh, Trần Quỳnh, Trần Phương, Đậu Ngọc Xuân,…
419
Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 44.
420
Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 41-42.
421
Sđd, trang 42.
422
Sđd, trang 43.
423
Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 63.
424
Ông Năm Hoành bị kết án tám năm tù, bị đưa đến một nhà lao dã chiến ở Pleiku. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông cùng 
gần 100 người tù khác vượt trại, trốn thoát sang Campuchia. Năm Hoành ở lại Campuchia cho đến năm 1963. Tại đây, ông 
biết tin Lê Duẩn đã an toàn ra Bắc. Năm 1964, khi đang ở căn cứ Trung ương Cục, Năm Hoành nhận được một bức điện
của “anh Ba” Lê Duẩn: “Anh rất mừng được tin chú thoát khỏi trại giam của giặc và chiến thắng trở về. Mong chú mau hồi 
phục sức khỏe để công tác tốt” (Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 925). Tháng 6-1971, Năm 
Hoành được đưa ra Bắc, chỉ vài hôm sau khi ông về nhà khách K5B ở Quảng Bá, ông Lê Duẩn cho xe đến đón về nhà riêng 
ở số 6 Hoàng Diệu, ông Năm Hoành kể: “Tôi vừa đẩy cổng bước vào thì anh Ba ôm chầm lấy tôi, nói, ‘Chú còn sống! Thế 
mà khi chú bị bắt anh cứ nghĩ là chúng sẽ giết chú” (trang 926).
425
Ủy viên Trung ương Khóa III.
426
Trong thập niên 1990 là phó bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
427
Ngày 15-5-1955, bà Lê Thị Sương viết thư cho bà Nga: “Thân gửi dì Nga! Trong năm có nhận được thư dì và cậu cháu 
Hãn (tức ông Lê Duẩn), vì một phần trong người ốm đau, một phần bực một vài ý kiến trong thư dì, nên cậu (cha ông Lê
Duẩn) và tôi cũng có ý trách dì. Nhưng hôm nay nhận được thư dì và chị Ái, thấy dì đã nhận được lỗi lầm. Và chị Ái cũng 
nói hộ thêm, vì hoàn cảnh lợi ích cách mạng mà đoàn thể đặt vấn đề, tôi và cậu lấy làm thương dì lắm. Tôi rất cảm ơn dì đã 
tích cực giúp đỡ cậu cháu Hãn trong khi xa gia đình, xa tôi. Hôm nay cậu cũng nhận dì là người trong gia đình và tôi thành 
thật xem dì như một người em, dì đừng thắc mắc nữa mà tổn hao sức khỏe” (Nguyễn Thụy Nga, trang 76).
428
Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 83.
429
Sđd, trang 86.
430
Sđd, trang 127.
431
Sđd, trang 132.
432
Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 132.
433
Stalin là nhân vật mà Lenin đã nhiều lần tỏ ra quan ngại nếu quyền lãnh đạo Đảng rơi vào tay ông ta. Nhưng, khi Lenin 
mất, Trosky thì đang đi xa. Ở Moscow, Stalin bí mật chuẩn bị tang lễ và chuẩn bị một bài diễn văn mà khi đọc lên đã khiến 
cho công chúng nghĩ Stalin chính là người mà Lenin gửi gắm.
434
Giáo sư Trần Phương, khi trả lời phỏng vấn tác giả, đã cho rằng: “Những quyết định của ông Lê Duẩn cho dù hậu thế 
đánh giá thế nào thì cũng đều là những cố gắng sáng tạo từ sự nung nấu trong tư duy, là những sản phẩm của một bộ óc luôn 
luôn trăn trở, đầy trách nhiệm, đầy lo toan cho lợi ích của Đảng, của nước, và của dân”.
435
Theo Giáo sư Trần Phương: “Nghị quyết Đại hội IV đã được anh Lê Duẩn chuẩn bị từ năm 1969. Trong vòng gần một 
năm trời, anh Lê Duẩn đã tập hợp một số chuyên gia như Hoàng Tùng, Trần Quỳnh, tôi, Đậu Ngọc Xuân, Đống Ngạc, Đào 
Duy Tùng, Nguyễn Khánh và có lúc xuất hiện Nguyễn Đức Bình, rồi đưa xuống Đồ Sơn. Tại đây, anh Lê Duẩn phác ra ý 
tưởng, bọn này chất vấn, thảo luận hoặc đồng tình. Khi viết gần xong, anh bảo: “Khoan đã, chờ kết thúc cuộc chiến thế nào 
đã”. Việc chuẩn bị vì thế tạm ngưng vào năm 1970. Đến 1973-1974 công việc lại được khởi động lại, đến năm 1975 thì 
hoàn chỉnh”. 
436
Lược ghi phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 
tập 37-1976, trang 350.
437
“Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc 
cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng, trong đó cách mạng 
khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ…”.
438
“Một nước nhỏ, đánh với một đế quốc to, giàu mạnh và ngoan cố, cầm đầu phe đế quốc như Mỹ, [lại] trong điều kiện phe 
ta mất đoàn kết nghiêm trọng, mà đã giành được thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn và triệt để thì thật lạ lùng. Thắng lợi vĩ đại 
của ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là một điều hết sức bất ngờ với kẻ thù. Thế giới khâm phục và ngạc nhiên lắm” 
(Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 36-1976, trang 334).
439
Phát biểu của Lê Duẩn, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 379.
440
Khẩu hiệu của Tỉnh Nghệ Tĩnh


441
Tỉnh ghép: Nghệ An-Hà Tĩnh.
442
Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý, tác giả của các bài “địa phương ca” được đưa đến Quỳnh Lưu để viết một ca khúc mà cuối thập 
niên 1970, gần như trên hệ thống phát thanh, ngày nào cũng được cặp song ca tài danh Kiều Hưng-Thu Hiền hát đi hát lại: 
“Ai đi qua Nghệ Tĩnh / Mà không dừng Quỳnh Lưu / Đời hôm nay rộng mở / Xa bát ngát chân trời / Mảnh vườn xưa ngăn 
chia / Đèn nhà ai nấy rạng / Ruộng đồng xưa phân chia / Chắn tầm xa phóng khoáng…”.
443
Giáo sư Phạm Như Cương kể: “Tư tưởng làm chủ tập thể… được sử dụng như một rường cột cho mọi quan hệ chính trị
và xã hội. Đích thân anh Ba đã có nhiều buổi trình bày về tư tưởng đó ở trường Nguyễn Ái Quốc, ở Học viện Chính trị 
Trung-Cao…Các ‘cây lý luận’ đương thời đều được phân công đi giảng bài, viết bài để phổ biến tư tưởng đó. Riêng ở Viện 
Triết học thì chúng tôi không tích cực lắm… Tôi biết rằng hình như Tổng Bí thư không được vui khi thấy một tư tưởng lớn 
mà ông rất tâm đắc như thế mà tôi và viện triết lại không tích cực hưởng ứng, không chịu triển khai nghiên cứu. Nhưng anh 
Lê Duẩn là người độ lượng, không có tiểu khí, không hay có thành kiến cá nhân,… nếu có ai không đồng tình với anh thì
tuy không vui, nhưng anh không thù ghét, trù dập. Có một lần nhân tôi lên làm việc với anh Trường Chinh, anh Trường 
Chinh cũng hỏi tôi về khái niệm làm chủ tập thể của đại đội IV. Tôi thưa với anh Trường Chinh rằng về vấn đề này báo chí 
cũng như các đoàn cán bộ của Trung ương đã trình bày rất nhiều và đầy đủ lắm rồi. Tôi đã trình bày thẳng thắn với anh rằng 
theo tôi nếu nhìn từ lý luận triết học thì có lẽ những cách giải thích hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Anh Trường Chinh gật đầu 
và im lặng…Tôi hiểu rằng có lẽ chính anh Trường Chinh cũng băn khoăn như tôi” (Đặng Phong, 2008, trang 81-82). Triết 
gia Trần Đức Thảo cũng từng được ông Lê Duẩn gọi đến để tìm sự chia sẻ “tư tưởng lớn” này. Giáo sư Trần Đức Thảo nhớ 
lại: Một lần ở Hà Nội, tôi đang đạp xe đi chợ, bỗng có xe ô tô xịch đến bảo tôi lên xe ngay để đi gặp Tổng Bí thư Lê Duẩn. 
Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng cũng phải tuân lệnh lên xe đi theo anh em, mà chưa rõ có việc gì. Chiếc xe đạp của tôi có người 
nhận và hứa sẽ đem về tận nhà cho tôi. Đến nhà Tổng Bí thư, được ông tiếp đón rất trân trọng. Ông nói rằng ông muốn trình 
bày cho tôi nghe một tư tưởng triết học lớn của ông là tư tưởng làm chủ tập thế. Tôi lễ phép lắng nghe. Sau khoảng 2 giờ 
liền, ông nói say sưa, tôi chỉ im lặng, không dám hỏi han gì. Sau cùng, ông thấy nói mãi mà chẳng thấy tôi khen chê gì cả, 
ông phải nhắc tôi: “Tôi biết anh là một nhà triết học lớn, tôi muốn nghe ý kiến của anh”. Tôi bèn trả lời rất chân thành: 
“Thưa anh tôi thấy khó hiểu quá, xin nói thật là tôi không hiểu”. Ông có vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn từ tốn hỏi lại: “Ô hay! 
Có thật là anh không hiểu gì không?” Tôi lại thưa: “Thưa anh quả thật là tôi không hiểu gì cả. Sau đó ông thất vọng và bảo 
tôi đi về”(trang 83).
444
“Bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại lớp chính trị Trung cao cấp ngày 13-3-1977 tại trường Nguyễn Ái Quốc”, “Hồ sơ lãnh 
tụ Lê Duẩn”, lưu trữ tại kho Lưu trữ Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh.
445
Năm 1973, sau chín năm xung phong vào chiến trường miền Nam, bà Nguyễn Thụy Nga từ chiến trường Khu IX ra Bắc 
và nhận thấy ông Lê Duẩn đã yếu đi rất nhiều. Bà Nga kể: “Khi miền Nam giải phóng anh mổ tiền liệt tuyến, suốt ngày phải 
mang một túi ni lông bên hông. Sáng nào cũng ba, bốn bác sỹ bu quanh làm thuốc. Vậy mà anh đi hết nơi này, nơi khác để 
tìm hiểu tình hình” (Hồi ký Nguyễn Thụy Nga, Bên Nhau Trọn Đời, bản thảo viết năm 1998, tr 187-188).
446
Theo ông Trần Việt Phương: Khi Lê Duẩn sang dự Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô, Brejenev kể với ông rằng để chuẩn 
bị cho Đại hội, Liên Xô phải huy động hàng trăm viện nghiên cứu, hàng nghìn nhà khoa học của nhiều lĩnh vực khác nhau. 
Lê Duẩn liền nói với Brejenev: “còn tôi, tôi chỉ cần mấy chú thư ký thôi”. Một trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, viết 
trong hồi ký: “Lê Duẩn là người tự mình suy nghĩ lấy những vấn đề cần giải quyết, chả bao giờ nghe ý kiến của người khác, 
tự bản thân Lê Duẩn thể nghiệm sự đúng đắn của những những ý kiến đó... Khi nói chuyện tay đôi với tôi, Lê Duẩn thường 
coi tôi là một đối tượng nghe giùm, để định hình ý nghĩ của mình, chứ không phải là người mà Lê Duẩn cần nghe ý kiến”.
447
Bí thư Trung ương Đảng Khóa VI, viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương 1977-1987.
448
Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 40.
449
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 25, Lê Duẩn nói: “Stalin vốn là người trung thực, khiêm tốn, đọc tài liệu ta thấy trước 
đây đồng chí ra đứng tận cổng đón từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị tới họp hoặc tới gặp gỡ đồng chí, thế mà vào cuối đời 
mình vẫn phạm sai lầm. Vì vậy, cần phải có một cơ cấu bảo đảm làm chủ tập thể, không để một cá nhân nào đó chen vào,
trồi lên, độc đoán, chuyên quyền. Thế giới có những kinh nghiệm phức tạp, có hiện tượng đảng là một người. Đảng là tôi, 
nhà nước là tôi. Ta cần rút kinh nghiệm để tránh” (Phát biểu của Lê Duẩn, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính 
trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 403).
450
Phát biểu trước Hội nghị Trung ương 25, Bí thư Lê Duẩn nói: “Triều Tiên làm rất găng trong việc phát huy sức lao động. 
Ta cũng phải làm thế nhưng phải phát huy tính tự giác của nhân dân hơn. Trong làm chủ tập thể, có cái tự nguyện, có cái 
phải thuyết phục, có cái phải bắt buộc” (Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà 
Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, tr 361).
451
Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-
1976, trang 403-404.
452
Sài Gòn Giải Phóng, 24-3-1978. 
453
Một biến cố khác xảy ra trong những ngày đó đã mang lại cho ông Sơn cả “rủi” lẫn “may”. Năm 1978, Văn phòng Trung 
ương Đảng vào tiếp quản An Phú, nhà ông Huỳnh Bửu Sơn nằm trong phạm vi bị trưng dụng. Sau khi vợ ông Lê Quang 
Uyển đi Pháp, ngôi biệt thự của ông Uyển, khi ấy đang đi “học tập”, được T78 lấy làm nơi ở cho ông Nguyễn Văn Linh. 
Ông Huỳnh Bửu Sơn được đổi sang chỗ mới là một căn nhà trên đường Phạm Văn Hai, bản thân ông thì được chiếu cố cho 
về làm việc ở Ngân hàng Nhà nước Thành phố. Ở đây, ông may mắn được làm việc với ông Lữ Minh Châu, một “Việt 


Cộng” đã từng làm nhân viên ngân hàng ở Sài Gòn trước 30-4 nên hiểu năng lực và tâm tư của những chuyên viên cũ.
454
Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh 1975-1979.
455
Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 15-2-1978 viết: “Thể theo nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động, từ ngày 1-12-
1977, Thành phố ta đã mở đợt chống gian thương và đã thu được nhiều thắng lợi tốt đẹp… Ta đã tóm cổ nhiều tên chủ vựa 
cá ác ôn, tịch thu trên mười tấn cá đồng và cá biển; tóm gọn nhiều chủ vựa rau, nhiều lái rau đường dài chở rau Đà Lạt về 
TP… Chỉ trong hai tuần lễ giáp tết, từ 23-1 đến 6-2-1978, ta đã bắt trên sáu mươi vụ gian thương… Nhân dân và lực lượng 
kiểm soát kinh tế các quận, huyện, đã xóa bỏ hàng chục vựa giết mổ heo lậu, trong đó có nhiều lò mổ lớn như ở Xa Cảng 
miền Tây, Bình Thạnh, Gò Vấp… Về mặt hàng chất đốt, ta đã xóa được một số vựa củi ở Quận 11, chặn bắt nhiều xe chở 
củi lậu ở Quận 10, ngăn chặn được một bước hoạt động của bọn gian thương chất đốt trong dịp tết”.
456
Sài Gòn Giải Phóng, 17-4-1978.
457
70% số đầu máy bị xếp xó vì hư hỏng, phụ tùng thay thế không có; khoảng 1,8 triệu hecta trong số bảy triệu hecta đất bị 
bỏ hoang. Năm 1976, sản lượng lúa cả nước đạt 11,8 triệu tấn. Năm 1980, sau một “kế hoạch 5 năm”, sản lượng lúa chỉ còn 
11,6 triệu tấn. Tưởng sẽ có lương thực dư thừa cho xuất khẩu, năm 1980, Việt Nam phải nhập khẩu lương thực nhiều nhất 
trong lịch sử: 1.570.000 tấn. Về thủy sản, năm 1980 cũng chỉ đánh bắt được 500 nghìn tấn cá biển, thua xa kế hoạch và thấp 
hơn sản lượng đánh bắt của năm 1976, 600 nghìn tấn.
458
Phó giám đốc sở kiêm giám đốc công ty Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 1978-1991.
459
Chuyện kể về chị Ba Thi, Ban tuyên giáo tỉnh ủy Cửu Long xuất bản năm 1992.
460
Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 4-1-1978, của Bộ chính trị: “Giá thu mua thóc tính theo tiền miền Bắc trong tình hình 
hiện nay ở các vùng như sau: Vùng 1: giá mua 0,32 đ/1kg, ở những nơi điều kiện sản xuất có khó khăn hơn là 0,35đ/1kg; 
Vùng 2: giá mua 0,40 đ/1kg, ở những nơi chưa có công trình thủy lợi là 0,43đ/1kg… Giá mua 1 kg lợn thịt ở các tỉnh miền 
bắc tương đương với giá mua từ 7-7,5kg thóc. Ở các tỉnh miền Nam: giá 1 kg lợn thịt là 3 đồng; gạo 0,40đ/1kg tiền miền 
Bắc; thịt lớn xô 2,50đ/1kg tiền miền Bắc” (Văn Kiện Đảng Toàn Tập, tập 38-1978, trang 10-11).
461
Theo ông Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam: “Giữa tháng 4-1978, anh Nguyễn Duy Trinh phải thay mặt 
Ban Bí Thư điện yêu cầu các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hà Nam Ninh, Hà Sơn Bình, Hà Bắc nỗ lực cung ứng lương thực 
cho Hà Nội, sao sớm có được một nửa khẩu phần gạo hoặc tối thiểu được khoảng 40% gạo trong khẩu phần lương thực. 
Điện nói rõ tháng 3-1978, Thủ đô chỉ được 30% gạo trong khẩu phần lương thực và sang tháng 4-1978 dân Hà Nội sẽ 
không còn được như tháng 3, trong khi các thực phẩm thông thường như rau, đậu phụ, mỡ, cá cũng không đủ để bán theo 
tem phiếu” (Đỗ Phượng, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 9-10).
462
Đỗ Phượng, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 9-10.
463
Đinh Thị Vận, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang (?).
464
Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 21-22.
465
Thu Hà, Chuyện thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 21-22.
466
Chuyện của cựu trung tá công an Phùng Duy Mận, ngụ tại nhà 123 Hàng Buồm: Thời đó, ông được phân phối đôi dép 
nhựa Tiền Phong, đi không vừa nhưng cũng không dám bán cho “con phe” sợ mang tiếng. Phải khi vào Huế công tác ông 
mới đem bán được năm nghìn rưỡi, đủ mua một vé máy bay, giá bao cấp, ra Bắc (Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản 
Thông Tấn 2011, trang ?).
467
Chuyện của ông Lê Gia Thụy, nhà số 8, ngách 12/21, ngõ 12, phố Lương Khánh Thiện, chủ nhân của chiếc xe đạp Thống 
Nhất trưng bày tại Triển lãm Thời Bao cấp diễn ra tại Bảo tàng Dân tộc học.
468
Cho đến năm 1978, mỗi khi đi công tác, ông Trần Thắng, Đoàn 871, Tổng Cục Chính trị, phải làm “giấy ủy quyền” cho 
vợ là chị Nguyễn Thị Sinh thì chị Sinh mới được dùng cái đài National đứng tên anh. Để có pin, Ban đại diện tiểu khu nơi 
anh chị cư trú còn phải chứng nhận anh chị là vợ chồng thì Công ty Bách hóa thành phố mới bán pin cho chị Sinh (Chuyện 
Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang ?).
469
Đầu thập niên 1980 là hiệu trưởng Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
470
Nay là đường Phạm Ngọc Thạch.
471
Đỗ Phượng, Chuyện Thời Bao cấp, Nhà Xuất bản Thông Tấn 2011, trang 10.
472
La Lâm Gia.
473
Bà Ba Thi Nguyễn Thị Ráo cùng quê Vĩnh Long với ông Võ Văn Kiệt và ông Phạm Hùng, tham gia cách mạng khi còn
thiếu niên, có nhiều năm hoạt động dưới quyền ông Nguyễn Văn Linh, và đã từng gặp gỡ ông Lê Duẩn thời kháng Pháp. 
Chồng bà Ba Thi, ông Nguyễn Trọng Tuyển, bí thư Tỉnh ủy Gia Định, chết vào tháng 7-1959, trên đường ra cứ đón Trần 
Bạch Đằng, đặc phái viên Xứ ủy, để tiếp thu Nghị quyết 15. Bà Ba Thi chính là người phụ nữ cười rất tươi trong tấm ảnh 
chụp bốn người thuộc “Phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam” ra thăm miền Bắc và “được gặp Bác Hồ” vào 
ngày 5-3-1969. Bà từng được gọi là “tư lệnh sân bay Lộc Ninh” do vai trò khá nổi bật của mình trong “ban đón tiếp tù binh” 
của Mặt trận sau Hiệp định Paris.
474
Nguyễn Thành Thơ, Cuối Đời Nhìn Lại, Bản thảo năm 2004.
475
Chuyện Kể Về Chị Ba Thi, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cửu Long, 1992, trang 117.
476
Theo ông Phạm Văn Hùng thư ký riêng của ông Võ Văn Kiệt.
477
Nghị quyết Trung ương 6 phê phán cung cách xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu, thiếu căn cứ thực tế và khoa học; 
trì trệ bảo thủ trong xây dựng những chính sách cụ thể; nóng vội, giản đơn trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền 


Nam; chưa chú ý sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc ở miền Nam; “khuynh hướng tả 
khuynh”, muốn sớm đưa cá thể vào hợp tác xã, đưa hợp tác xã lên quốc doanh; phê phán cách làm coi thị trường là bất hợp 
pháp.
478
Văn kiện Đại hội II Thành phố Hồ Chí Minh, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thành phố.
479
Báo Sài Gòn Giải Phóng, 1-12-1980.
480
Ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 25-CP công nhận điều mà ông Võ Văn Kiệt đã cho phép các 
doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh làm từ cuối năm 1978. Quyết định 25-CP bắt đầu cho phép áp dụng chế độ ba kế
hoạch: kế hoạch “chỉ tiêu pháp lệnh” do Trung ương giao, kế hoạch liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau 
nhằm thực hiện kế hoạch thứ nhất, kế hoạch do xí nghiệp tự xây dựng. Như vậy, Quyết định 25-CP có thể hiểu là đã “hợp 
pháp hóa” sự liên kết giữa các đơn vị kinh doanh, điều mà trước đó có thể bị bỏ tù vì bị coi là “móc ngoặc”.
481
Tuổi Trẻ, 19-4-2009.
482
Đặng Phong, 2009, trang 174.
483
Ngày 6-11-1968, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh về Vĩnh Phú, yêu cầu tổ chức một cuộc họp Tỉnh ủy mở rộng; tại đây,
ông đã đọc một bài phát biểu, phê phán Vĩnh Phú: “Trong một thời gian dài đã không thấu suốt tinh thần đấu tranh triệt để 
giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa hai phương thức lao động tập thể và lao động cá thể ở nông 
thôn. Cán bộ và quần chúng nông dân hiểu biết vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp một cách nông cạn và đơn giản… nên khi 
vận dụng vào hoàn cảnh của địa phương đã đi chệch sang phương thức sản xuất cá thể, chuyển một phần tư liệu sản xuất 
của hợp tác xã cho các hộ xã viên, khôi phục dần cách làm ăn riêng lẽ” (Tạp chí Học Tập tháng 2-1969, trang 19). Ngày 12-
12-1968, Ban Bí thư có Thông tri số 224 về việc “chấn chỉnh ba khoán, kiên quyết sửa sai chống khoán hộ”, lập “ban chỉ 
đạo” huy động lực lượng cán bộ để truyền đạt thông tri của Trung ương và thảo luận bài “Phê phán của đồng chí Trường 
Chinh”; kiểm tra lại tất cả việc khoán để chấn chỉnh lại. Bí thư Kim Ngọc, sau đó đã phải làm “tự kiểm điểm” đăng trên Tạp 
chí Học Tập thể hiện tinh thần “quyết tâm sửa chữa”.
484
Theo ông Nguyễn Văn Tôn: “Sản lượng hoa màu quy ra thóc: năm 1960, đạt 28.520 tấn; năm 1968 lên được 32.782 tấn; 
năm 1970 xuống còn 25.468 tấn và năm 1975 xuống còn 18.565 tấn” (Đặng Phong, 2009, trang 191).
485
Tại Trung Quốc, năm 1962, sau khi chính sách tập thể hóa “Đại nhảy vọt” (từ 1959-1961) làm chết hàng chục triệu người 
do đói kém (khoảng 15-17 triệu người theo số liệu chính thức của Trung Quốc; khoảng 45 triệu theo các nhà nghiên cứu 
nước ngoài, Ezra F. Vogel, trang 41), Trần Vân (Chen Yun), một ủy viên Bộ chính trị đặc trách kinh tế đưa ra đề nghị 
khoán sản phẩm tới hộ cho nông dân. Đề nghị được Đặng Tiểu Bình ủng hộ nhưng ngay sau đó đã bị Mao Trạch Đông phê
phán là “đi theo con đường tư bản”(Ezra F. Vogel, 2011, trang 436). Mao chỉ trích nặng tới mức Trần Vân suy sụp đến nỗi 
không thể nói trong vài tuần và sau đó phục hồi rất chậm(Ezra F. Vogel, 2011, trang 723).
486
Đặng Phong, 2009, trang 197.
487
Theo đề nghị của xã viên, một vài đội của hợp tác xã Tiến Lập, xã Đoàn Xá, huyện An Thụy, đã “khoán ruộng cho các 
hộ”, cứ một sào ruộng khoán, xã viên phải nộp lại cho hợp tác xã 70kg thóc, tương đương với sản lượng đạt được khi ruộng 
vẫn ở trong tay hợp tác. Kết quả, ngay trong vụ mùa thứ nhất, mỗi sào ruộng khoán đã thu được 1,4-1,5 tạ thóc, xã viên 
kiếm được bảy, tám chục ký thóc một sào. Nhưng, đầu năm 1976, thì chuyện bại lộ, huyện cử cán bộ về thanh tra, Đảng ủy 
xã Đoàn Xá phải tổ chức kiểm điệm, tự nhận: “Khoán là sai đường lối, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc vận động đưa hợp tác 
xã lên quy mô toàn xã”.
488
Đặng Phong, 2009, trang 204.
489
Cải cách của Trung Quốc lại thường bắt đầu từ trên xuống, năm 1977 khi Wan Li được điều về Bí thư tỉnh An Huy 
(Anhui) nạn đói ở đây vẫn còn hoành hành. An Huy là nơi có khoảng từ 3-4 triệu người chết đói vì “Đại nhảy vọt”. Wan Li 
đã đưa ra “Đề nghị 6 điểm” theo đó giao khoán sản phẩm đến nhóm nhỏ, thậm chí tới từng cá nhân nông dân, người dân có 
quyền tự chủ trên ruộng khoán và được bán sản phẩm ra thị trường địa phương. Lúc này chính sách cấm khoán hộ vẫn còn 
có hiệu lực, “Đề nghị 6 điểm” bị nhiều người phản đối, nhưng Đặng Tiểu Bình người mới trở lại chính trường đã ủng hộ và 
Wan Li vẫn kiên quyết cho áp dụng và áp dụng thành công chính sách khoán ở An Huy. Năm 1978, mặc dù là người bổ 
nhiệm Wan Li về làm bí thư An Huy, Thủ tướng Hoa Quốc Phong vẫn bảo vệ mô hình hợp tác hóa Dazhai nghĩa là không 
chấp nhận khoán. Phó thủ tướng phụ trách nông nghiệp Chen Yonggui và người kế vị ông cũng bảo vệ mô hình hợp tác hóa 
Dazhai. Nhưng cả Đặng và Trần Vân vẫn ủng hộ An Huy. Mãi tới ngày 31-5-1980, sau khi củng cố được quyền bính Đặng 
mới chính thức công khai ủng hộ chính sách phi tập trung hóa trong nông nghiệp, khoán ruộng cho nông dân tới hộ (Ezra F. 
Vogel, 2011, trang 436-440).
490
Nhà báo Thái Duy, có mặt tại Hải Phòng trong thời điểm này, kể: Các đoàn đến Hải Phòng cũng chủ yếu là đi chui, 
không có giấy giới thiệu, không có công tác phí, Hải Phòng cưu mang hết. Có đoàn ở xa như Nghệ Tĩnh, còn được Hải
Phòng cung cấp lương thực, thực phẩm đủ ăn đến khi về tới nhà. Nhiều người ngạc nhiên vì có cả lãnh đạo huyện Thiệu 
Yên, Thanh Hóa. Thiệu Yên là nơi có hợp tác xã Định Công. Cùng với Vũ Thắng, Thái Bình, Định Công là một trong hai 
hợp tác xã điển hình toàn quốc. Trong giai đoạn hô hào hợp tác hóa, hàng nghìn đoàn đại biểu từ Nam, chí Bắc đã về “học 
tập Vũ Thắng, Định Công”. Té ra để có gạo nuôi sống xã viên và tiếp khách, Định Công cũng như Thiệu Yên đã phải âm 
thầm cho dân “khoán hộ”.
491
Đặng Phong, 2009, trang 227.
492
Sđd, trang 229-230.


493
Sđd, trang 231-232.
494
Đặng Phong, 2009, trang 233-234.
495
Năm 1978, trước khi ông Kim Ngọc nghỉ hưu, Thường vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phú cũng đã ra Nghị quyết 15: “Chính thức để 
các hợp tác xã khoán cho hộ gia đình và cho hộ gia đình mượn một số đất để làm thêm vụ đông”. Tuy nhiên, như con chim 
đã từng trúng tên, khoán ở Vĩnh Phú vẫn chỉ được tiến hành hết sức rụt rè. Sau đó không lâu, ông Võ Chí Công, ủy viên Bộ 
Chính trị, phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp đã về Thổ Tang, một xã hết sức năng động ở Vĩnh Phú. Theo ông Đinh 
Văn Niệm, thư ký của “anh Năm” Võ Chí Công: “Anh Năm so sánh năng suất đất 5% và đất hợp tác xã rồi nói: Hầu hết 
những người tham gia chiến đấu ở Khu V đều là dân Bắc, họ đã rất thông minh, dũng cảm. Chỉ vì cơ chế mà miền Bắc phải 
chịu nghèo thế này”. 
496
Nhà báo Thái Duy trả lời phỏng vấn tác giả.
497
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 41, trang 540.
498
Chánh Văn phòng Trung ương Khóa IV.
499
Trả lời phỏng vấn tác giả.
500
Trả lời phỏng vấn tác giả.
501
Trả lời phỏng vấn tác giả.
502
Trước phiên họp của Bộ Chính trị, ông Nguyễn Ngọc Ẩn nói: “Những gì các đồng chí phê phán chúng tôi tiếp thu và sửa 
chữa. Ở đây chúng tôi cần nói những vấn đề cụ thể các đồng chí phát hiện nhận xét như: Rượu ngoại các đồng chí nói là 
rượu chúng tôi mua hương liệu về cất, đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu tại chỗ, các đồng chí xem thử, không phân biệt được, 
chứng tỏ kỹ thuật chúng tôi tương đối. Về tàu chở hàng ra nước ngoài, chúng tôi bán hàng tươi sống, mướn tàu ta cả tháng 
mới được, hàng hư hỏng hết còn gì xuất khẩu, còn mướn tàu của nước ngoài, trong vòng hai mươi bốn giờ là có mặt, họ chở 
hàng ta đến nơi, đến chốn đúng hợp đồng, đảm bảo không hư hỏng. Về tiền chúng tôi vay của ngân hàng 800 triệu để mua 
bán, sau một chuyến chúng tôi phải giao trả tiền ngân hàng, rồi làm thủ tục vay mượn lại để tiếp tục mua bán chuyến mới, 
việc làm thủ tục vay mượn mỗi chuyến kéo dài cả tháng, làm sao chúng tôi mua bán liên tục đúng định kỳ được, nên đành 
phải giữ tiền chuyến trước cho chuyến sau, bây giờ cần trả tiền lại chúng tôi sẽ gom trong vòng một tuần lễ đủ 800 triệu”.
503
Theo Nguyễn Thành Thơ.
504
Năm tháng sau đó, ngày 4-3-1983, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh lại họp và ra một “nghị quyết quan trọng” khác, 
được gọi là “Nghị quyết 19”, cảnh báo: “Sau đợt cải tạo tư sản thương nghiệp tháng 3-1978, công tác cải tạo xã hội chủ 
nghĩa bị buông lỏng quá lâu. Một phần do quan điểm đánh giá đã hoàn thành cơ bản công tác cải tạo công thương nghiệp tư 
bản tư doanh, đã cơ bản xóa bỏ giai cấp tư sản, việc còn lại chỉ là củng cố quan hệ sản xuất mới. Cũng có quan điểm cho 
rằng, trong tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn ai làm tốt hơn thì nên duy trì miễn là có nhiều sản phẩm cho xã hội. Trong 
thực tế đây là buông lỏng đấu tranh giai cấp, buông lỏng chuyên chính vô sản tạo sơ hở lớn để cho các đối tượng cải tạo có
cơ hội phục hồi và tiến công lại trên nhiều mặt”.
505
Nhận xét của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương.
506
Bí thư Thành ủy Hà Nội lúc bấy giờ là ông Lê Văn Lương. Năm 1956, ông Lương bị mất chức ủy viên Bộ Chính trị do 
những “sai lầm trong việc chỉ đạo chiến dịch chỉnh đốn tổ chức” bắt đầu từ năm 1953. Được ông Lê Duẩn đưa vào Ban Bí 
thư năm 1960 và đưa trở lại Bộ Chính trị năm 1976.
507
Phóng viên Hà Nội Mới, ông Nguyễn Đức Thà, tả một ngôi nhà bị cải tạo ở Quận Hai Bà Trưng: “Bước vào nhà đã có 
cảm giác dễ chịu, nền gạch tráng men, nhà dưới, tầng trên đều có công trình vệ sinh riêng, có đèn neon, có gương soi. Các
phòng đều có tiện nghị sinh hoạt như tivi, tủ lạnh, máy quay băng, sập gụ, tủ chè, gường modec, quạt trần, quạt bàn, salon 
gỗ lát, salon đệm mút… Đó là sự vô đạo đức, nỗi bất công không thể kéo dài” (Hà Nội Mới, 17-5-1983). Trên cùng số báo 
này, phóng viên Quang Cát viết: “Ai cũng phải đặt câu hỏi: Trong lúc đời sống còn rất khó khăn, lương chỉ đủ ăn, cá nhân 
nào có thể có tiền xây một nếp nhà lớn khang trang như thế? Nhà hai tầng, trang trí cầu kỳ, có bao lơn hoa văn, cánh cửa 
dưới nhà, trên gác đều sơn màu vàng… Trải qua nhiêu năm chiến tranh đất nước còn nghèo, làm sao có được một cơ ngơi
như thế?... Một bà mẹ tóc đã hoa râm cương quyết nói: Phải xử lý chứ! Nó như cái gai trước mắt chúng tôi và nêu gương 
xấu cho mọi người”. Còn “bạn đọc” Nguyễn Ngọc Hiếu thì cho rằng, tịch thu tài sản bất minh là “nguyện vọng thiết tha của 
cán bộ và nhân dân lao động”... Chiến dịch Z-30 đã được một “luật gia” có tên là Phạm Ngọc Hải, lấy nguyên tắc của 
Lenin, “tước đoạt của những kẻ tước đoạt”, để phân tích: “Chính quyền đã thu hồi có chính sách rõ ràng phần tài sản bất 
minh để chuyển thành cơ sở phúc lợi công cộng. Các vật liệu chiến lược như xi măng, sắt, thép, gỗ… đều do nhà nước quản
lý và phân phối, thế mà số hộ bị kiểm tra thường là có đầy đủ các vật liệu ấy để xây dựng nhà cửa có giá trị lớn. Chúng ta 
cũng hoan nghênh tính chất nhân đạo trong quyết định của chính quyền thành phố. Chúng tôi mong rằng chính quyền Thủ 
đô tiếp tục cuộc đấu tranh rất được quần chúng đồng tình này. Chế độ chuyên chính vô sản của chúng ta không những phải 
trấn áp sự phản kháng của bọn bóc lột mà còn phải nghiêm trị cả những bọn gian thương, tham ô, trộm cướp, phá rối trật tự. 
Bọn chúng đều là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, hằng ngày đầu độc không khí trong lành của xã hội chúng ta” 
508
Đặng Phong, 2009, trang (?).
509
Giáo sư Trần Đình Bút, người dẫn đoàn giáo sư Liên Xô sang giảng dạy ở trường Quản lý Kinh tế Cao cấp Trung ương 
đến nghiên cứu kinh nghiệm “xé rào” của ông Năm Ve ở Xí nghiệp Đánh cá Côn Đảo-Vũng Tàu đầu thập niên 1980, kể: 
Sau khi nghe giới thiệu toàn bộ quá trình hình thành và hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp, trưởng đoàn Liên Xô đặt câu 
hỏi: “Đề nghị các nhà khoa học, các giáo sư Liên Xô và Việt Nam, hãy trả lời gọn trong một câu thôi: Nguyên nhân nào làm 


xí nghiệp quốc doanh Đánh cá Côn Đảo đã có những thành công đáng khâm phục như vậy?”. Mọi người im lặng, trưởng 
đoàn nửa đùa nửa thật nói: “Tại vì Năm Ve không học, không biết các nguyên tắc quản lý và hạch toán xã hội chủ nghĩa mà 
chúng ta vẫn giảng”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là cho đến khi trở thành ủy viên Bộ Chính trị, ông chưa thực sự học qua 
một trường lớp lý luận chính quy nào.
510
Đặng Phong, 2009, trang 66.
511
Nhân hai sự kiện: Tháng 7-1980, phi công Phạm Tuân được Liên Xô đưa vào vũ trụ trong một chuyến bay cùng với đại 
tá người Nga Gorbatko theo chương trình intercosmos; tháng 10-1980, nghệ sỹ Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất cuộc thi Piano 
Quốc tế Frédéric Chopin. Với Phạm Tuân thì dân chúng dễ dàng nhận thức ra vấn đề, nếu như truyền thông suốt ngày nói 
về “niềm tự hào dân tộc” thì người dân lại coi đó là một trường hợp “quá giang”. Sự hờ hững này được lột tả trong hai câu 
ca dao hiện đại: “Bo bo còn phải độn mì/ Mi lên vũ trụ làm gì hở Tuân”. Trường hợp của nghệ sỹ Đặng Thái Sơn thì khác. 
Khi ấy, Sơn đang học tại nhạc viện Tchaikovsky, Liên Xô. Thành tích của anh thật đáng để ngợi ca (Báo chí Việt Nam lúc 
đó hoàn toàn không biết sự kiện hai vị giám khảo Martha Argerich và Nikita Magaloff đã bỏ Hội đồng Giám khảo cuộc thi 
vì thí sinh mà theo họ là tài năng nhất, Ivo Pogorelich, không lọt vào vòng chung kết do bị một giám khảo người Nga cho 
điểm 0). Nhưng sự kiện Sơn đoạt giải và được tung hô càng khiến cho tầng lớp trí thức nhớ lại và xót thương cho thân phận
cha anh, ông Đặng Đình Hưng, một nhà thơ cách tân bị ghép vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Đặng Thái Sơn kể: “Nhờ có 
Concours Chopin 1980 mà bố tôi được sống thêm mười năm. Vì lúc ấy bố tôi bị ung thư phổi nặng, đang phải sống ở gầm 
cầu thang nhà một ông bạn, không nhà không cửa mà đưa vào viện thì cũng chỉ nằm chờ chết. Đúng hôm thi, bố tôi vào 
viện. Ở nhà điện sang nói tôi thi xong phải về ngay. Lúc đó tôi tính nếu ở trong nước mà không chạy chữa được cho bố thì 
tôi sẽ đưa ông ra nước ngoài. Cuối cùng, Giáo sư Tôn Thất Tùng và Giáo sư Hoàng Đình Cầu đã chữa chạy cho bố tôi, giúp 
ông sống thêm được mười năm nữa. Concours Chopin đã đem lại nhiều thay đổi không chỉ với cuộc đời tôi mà cả gia đình 
tôi”.
512
"Chinh" là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.
513
Ông Trường Chinh sinh ngày 9-2-1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, trong một gia đình 
được nói là hậu duệ của Đặng Tất, một danh tướng thời Hậu Trần (Ngày 28-12-1975, ông Trường Chinh, tên khai sinh là 
Đặng Xuân Khu đã về thắp hương cho tiên tổ Đặng Tất, Đặng Dung ở Hà Tĩnh, là sự kiện được coi như một động thái
“nhận họ” của ông Trường Chinh). Khi còn học ở bậc Thành Chung, Trường Chinh đã tham gia đấu tranh đòi ân xá cho 
Phan Bội Châu; ông cũng là một trong những người lãnh đạo cuộc bãi khóa ở Nam Định để truy điệu Phan Chu Trinh và bị
đuổi học. Năm 1927, khi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Thương mại, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng 
Đồng chí Hội rồi trở thành một trong những người đầu tiên vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc kỳ. Cuối 
năm 1930, Trường Chinh bị bắt cùng với Nguyễn Đức Cảnh, ông Cảnh sau đó bị kết án tử hình, còn Trường Chinh lãnh án 
tù mười hai năm. Trong tù, ông vẫn làm chủ bút một tờ báo để tranh luận với các “đối thủ Việt Nam Quốc dân Đảng”, năm 
1936 ông được tha trước thời hạn. Sau khi ra tù, ông trở thành xứ ủy viên Bắc kỳ, làm chủ bút tờ báo Cờ giải phóng, cơ 
quan của xứ ủy; ngoài ra, ông còn phụ trách các tờ báo tiếng Pháp như Le Travail, Rassemblement, En Avant và báo Tin 
tức. Ngày 26-9-1939, sau khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, Tổng thống Pháp Lebrun ban hành sắc lệnh "Giải tán Đảng 
Cộng sản ở Pháp cũng như ở các thuộc địa của Pháp” trong đó có Đông Dương. Ngay trong tháng đầu tiên sau chiến tranh, 
người Pháp đã bắt khoảng 2000 đảng viên cộng sản ở Việt Nam, riêng Nam Kỳ, hơn 800 đảng viên bị bắt. Ngày 17-1-1940, 
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, rồi tiếp đó, các Ủy viên Trung ương Lê Hồng Phong, Võ Văn Tần bị đưa vào ngục. Người
tiền nhiệm của ông Cừ là Hà Huy Tập thì đã bị người Pháp bắt từ ngày 1-5-1938. Ở Xứ ủy Bắc kỳ, Trường Chinh, Hạ Bá
Cang, Hoàng Văn Thụ, Lương Khánh Thiện chạy thoát trước khi các chiến dịch bắt bớ diễn ra. Trung ương Đảng, lúc ấy chỉ 
còn đúng một ủy viên là ông Phan Đăng Lưu, quyết định chuyển cơ quan trung ương từ Nam ra Bắc, đồng thời bàn việc 
phối hợp hành động với miền Bắc và miền Trung khi “Nam Kỳ khởi nghĩa”. Ở Hà Nội, Phan Đăng Lưu họp với Xứ ủy Bắc 
Kỳ, lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, bầu bổ sung Hoàng Văn Thụ, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) và Hạ Bá 
Cang (Hoàng Quốc Việt). Phan Đăng Lưu thay vì nhận chức tổng bí thư đã nhất trí cùng những người dự họp cử Trường 
Chinh làm quyền tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. 
514
Ngày 15-1-1942, Trường Chinh viết trên báo Cứu Quốc: “Hỡi các giới sĩ, nông, công, thương, binh! Hỡi các đoàn thể 
cứu quốc! Hỡi toàn thể đồng bào mất nước Việt Nam. Đã 80 năm, Tổ quốc kính yêu mất quyền độc lập, sa vào vòng nô lệ 
của giặc Pháp tham tàn. Đã 80 năm, dân tộc Việt Nam phải mang trên trán vết quốc sỉ nhuốc nhơ mà máu đào của bao nghĩa 
sĩ anh hùng tới nay vẫn chưa rửa sạch. Giờ đây, quốc sỉ tăng thêm nhục nhã, quốc thù tăng thêm căm hờn; giờ đây, giang 
sơn tổ tiên lại thêm giặc Nhật chà đạp, tấm thân trâu ngựa lại bị thêm 1 lần áp bức đọa đầy. Nhật khai chiến với Anh, Mỹ, 
lôi cuốn xứ sở ta vào vòng khói lửa binh đao. Trước cảnh nước mất, nhà tan thê thảm, Cứu Quốc, Cơ quan cổ động của Việt 
Nam Độc lập Đồng minh ra đời, thống thiết kêu gọi toàn quốc đồng bào mau hợp sức cùng lòng đánh đuổi Pháp, Nhật, rửa 
nhục cho non sông, đưa Tổ quốc tới chốn vinh quang độc lập”. Ông long trọng kêu gọi: “Cứu Quốc sẽ giải bày nỗi lầm than 
thống khổ của muôn dân. Cứu Quốc sẽ nêu cao những ý muốn thiết tha của trăm họ. Cứu Quốc sẽ là người chỉ lối trung 
thành cùng đồng bào cùng tiến lên trên đường giải phóng dân tộc… Toàn thể đồng bào yêu nước hãy tận tâm ủng hộ Cứu 
Quốc về mọi phương diện, hãy cương quyết tiến lên dưới bóng cờ sắc đỏ sao vàng!”.
515
Đêm 9-3-1945, khi vừa ra khỏi rừng từ chuyến “ngự săn” ở Quảng Trị, Hoàng đế Bảo Đại được người Nhật đưa “hồi 
cung” ngay. Một sỹ quan Nhật nói với quan Ngự tiền Văn phòng Tổng lý Phạm Khắc Hòe: “Quân đội Thiên Hoàng chỉ 
truất quyền của thực dân Pháp thôi, chớ không đụng chạm gì đến Nam Triều” (Phạm Khắc Hòe, Từ Triều đình Huế đến 


Chiến khu Việt Bắc, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2007). Hôm sau, Đại sứ Nhật ở Đông Dương Yokoyama vào “chầu 
và tâu lên nhã ý muốn công nhận nền độc lập” cho Việt Nam. Có mặt trong buổi “chầu” đó, Phạm Quỳnh nói với Đại sứ 
Nhật: “Chúng tôi cần phải có được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, và để đạt được điều đó, uy tín của chính phủ chúng tôi 
cần phải được tăng cường bằng một hành động long trọng tuyên cáo độc lập”. Yokohama cho rằng, tuyên cáo độc lập để 
chứng tỏ chủ quyền là công việc nội bộ mà và Chính phủ Việt Nam có “tự do tuyệt đối” để hành động. Ngày 11-3-1945, sau 
khi họp Hội Đồng Cơ Mật, vua Bảo Đại ký ban dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp 
năm 1884. Ngày 17-3-1945, Nhà Vua lại ra một Dụ khác tuyên bố sẽ tự tay mắm quyền trên cơ sở “dân vi quý”. Người 
Nhật cũng đã đưa nhà sử học Trần Trọng Kim ra Huế sau khi ông “nhận lời làm Thủ tướng”. Ngày 17-4-1945, nhà vua ban 
Đạo dụ thành lập Chính phủ. Khi ấy, nạn đói bắt đầu lan ra phía Bắc, trong khi đường sá thường xuyên bị máy bay và pháo 
hạm của Đồng Minh oanh tạc (tháng 5-1945, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh đã bị máy bay Mỹ bắn chết sau một chuyến kiểm tra 
các cơ sở y tế ở Thái Bình). Mặc dù tự nhận là “dân chúng đòi hỏi và chờ mong rất nhiều mà Chính phủ chưa làm được gì 
đáng kể”, những việc mà Chính phủ Trần Trọng Kim đã làm là rất ấn tượng: Yêu cầu Nhật chuyển giao tất cả các cơ sở 
hành chính cho các viên chức Việt Nam; Thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp; Ân xá toàn thể các 
phạm nhân chính trị; Cho phép thành lập các đảng phái chính trị; Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo; Thiết 
lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến Pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục. Chỉ trong gần 
5 tháng tại vị, Chính phủ Trần Trọng Kim đã: Đưa chương tiếng Việt vào chương trình giáo dục thay thế tiếng Pháp (có vai 
trò quan trọng của Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn); miễn thuế cho dân vô sản; hoãn nợ cho dân nghèo; 
đưa từ miền Nam ra miền Trung và miền Bắc gần hai nghìn tấn gạo; đại xá cho chính trị phạm; trừng trị một số quan lại 
tham nhũng; đề bạt một số quan lại trẻ… Tháng 8-1945, Nội các Trần Trọng Kim bắt đầu tan rã dần vì sự trỗi dậy mạnh mẽ 
của phong trào có vũ trang của Việt Minh.
516
Ngày 13-8-1945, người Nhật ở Hà Nội đã gặp Việt Minh tại phủ Khâm Sai, “mời Việt Minh tham gia chính phủ lâm thời 
Trần Trọng Kim” nhưng theo ông Trần Quốc Hương, phái viên của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Hà Nội, Việt Minh đã từ 
chối. Ngày 14-8-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố công khai “vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương cục Nhật”. 
Trước đó, ngày 12-8, Bộ trưởng Thanh Niên của Trần Trọng Kim, Luật sư Phan Anh, gửi điện cho các nơi nhắc nhở: “Chớ 
nhẹ dạ dễ bị lừa đảo vì bọn phiến loạn và bọn tuyên truyền có mục đích gieo sự loạn lạc vô trật tự”. Bọn “phiến loạn” mà 
ông Phan Anh nói trong bức điện trên đây được hiểu là “ám chỉ Việt minh”. Ngày 17-8-1945, khi “Tổng hội viên chức Hà 
Nội” tổ chức một cuộc biểu tình lớn tại Nhà hát Tây để ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim, những người cộng sản đã bí mật 
chuẩn bị để khi cuộc mit-tin vừa diễn ra, nhảy lên, cướp diễn đàn, biến cuộc mit-tin ủng hộ Trần Trọng Kim thành tố cáo 
Chính phủ của ông là “bù nhìn”. Một cuộc biểu tình khác được Xứ ủy quyết định sẽ tổ chức một hoạt động khác, lần này 
không chỉ là “cướp biểu tình” mà là chính thức “cướp chính quyền”. Ngày 19-8-1945, Việt Minh tràn ngập Bắc Bộ Phủ, nơi 
vốn là Phủ Thống sứ và khi ấy đang là văn phòng của Khâm sai Phan Kế Toại. Người Nhật sau đó đã triển khai một đơn vị 
xe tăng, hăm dọa cuộc biểu tình. Theo ông Mười Hương, đại diện Việt Minh đã nói với viên chỉ huy quân Nhật: “Nhật 
không nên can thiệp vào công việc nội bộ của người Việt Nam”. Câu nói ấy có thể chỉ tình cờ phát ra để ngăn chặn một mối 
đe dọa tức thời nhưng cũng chứa đựng biết bao dự báo. Ngay lúc ấy, Quốc Dân Đảng và những người tham gia Chính phủ 
Trần Trọng Kim đều được gọi là “Đại Việt gian”. Cuộc đấu tranh của những người cộng sản ở giai đoạn này chưa phải với 
ngoại xâm mà với những đảng phái không cộng sản.
517
An toàn khu.
518
Trần Nhâm, 2005, trang 14-15.
519
Nền kinh tế Liên Xô đã được Stalin thiết kế dựa trên nền tảng lý thuyết mà Preobrajensky và Bukharin đã viết trong cuốn 
ABC của Chủ nghĩa Cộng sản, xuất bản năm 1919. Cho dù cả Bunkharin và Preobrajensky đều đã bị Stalin thanh trừng vào 
giữa thập niên 1930 nhưng cuốn sách của hai ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng như Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, 
Trung Quốc. Từ lý thuyết của Preobrajensky và Bukharin và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô trong thập niên 
1930, năm 1952, Stalin viết cuốn Những Vấn Đề Kinh Tế Của Chủ Nghĩa Xã Hội ở Liên Xô. Năm 1953, các nhà lý luận Xô 
Viết đã dựa trên sách của Stalin để viết ra cuốn “Sách Giáo Khoa Kinh Tế Chính Trị Học”. Cả hai cuốn đã được in tới sáu 
triệu bản trong vòng hơn một năm và trở thành sách “gối đầu giường” của cán bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, 
năm 1953, Nhà Xuất bản Sự Thật đã dịch và xuất bản cuốn sách của Stalin; năm 1956, xuất bản cuốn Sách Giáo Khoa Kinh 
Tế Chính Trị Học.
520
Hệ thống được Đảng Lao động Việt Nam thiết lập từ đầu thập niên 1950 và được gọi là Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, 
khi dời từ trong Chiến khu về Hà Nội. Ngay sau khi giành được chiến thắng ở miền Nam, ngày 22-12-1975, Ban Bí thư đã 
quyết định “mở rộng quy mô trường Nguyễn Ái Quốc, theo đó Trường phải “liên tục mở các lớp nghiên cứu sinh” để đưa số 
học viên từ 1.500 trong năm học 1975-1976 lên 1.800 rồi 2.000 học viên trong hai năm kế tiếp. Năm 1976, Ban Bí thư đã ra
quyết định xây dựng trường Nguyễn Ái Quốc II tại Sài Gòn; Nguyễn Ái Quốc III tại Gia Lâm; Nguyễn Ái Quốc IV tại Đà 
Nẵng và, cuối năm 1976, cho xây dựng tại Hà Nội Trường Đảng Cao cấp Tại chức đảm bảo huấn luyện 3.000 học viên/năm. 
Ngoài ra, cũng trong năm 1976, Ban Bí thư còn ra quyết định mở rộng Trường Tuyên huấn Trung ương ở Hà Nội và hai 
tháng sau đó ra quyết định xây dựng trường Tuyên huấn Trung ương II với quy mô 1.000 học viên tại Đà Nẵng.
521
Như: Bộ trưởng, Thứ trưởng, Vụ trưởng, Trưởng ban các Ban của Trung Ương, Bí thư và Chủ tịch của các tỉnh, Bí thư 
và Chủ tịch của các huyện, giám đốc các xí nghiệp, Cục trưởng, Vụ trưởng, Viện trưởng...
522
Novaya Economishéskaya Potika


523
Theo Giáo sư Trần Nhâm, thư ký của ông Trường Chinh.
524
Lê Duẩn nhấn mạnh: “Trong chủ nghĩa tư bản, có tiền là mua được tất cả. Trong chủ nghĩa xã hội, đồng tiền không còn 
vị trí như vậy, cái quyết định là sử dụng lao động xã hội trên cơ sở làm chủ tập thể… Giá cả phải là giá có kế hoạch, hình 
thành từ trong sản xuất, chứ không phải hình thành do quan hệ cung cầu trên thị trường”. Ông đòi hỏi nhà nước phải nhanh 
chóng thống nhất quản lý và độc quyền kinh doanh những mặt hàng lớn. Lê Duẩn nói: “Phải chống khuynh hướng muốn lấy 
giá thị trường tự do làm tiêu chuẩn để định giá nhà nước, hoặc khóa tay chúng nó lại, không cho phép tự do mua bán lương 
thực, nông sản, hàng công nghiệp chủ yếu, tuyên chiến với bọn phá hoại, đầu cơ, buôn lậu, lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa 
trên thị trường”.
525
Trường Chinh chỉ ra bài toán về giá trước Hội nghị Trung ương: “Chúng ta đã bán vật tư với giá thấp, dưới 50% giá trị, 
khiến cho giá thành tính toán bị sai lệch rất xa so với thực tế, gây thiệt hại mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Với chính sách giá 
như vậy, hàng năm chúng ta đã để tuột ra khỏi tay mình một khối lượng lớn vật tư nhập khẩu. Đưa một tỷ rúp vật tư ra, ta 
chỉ thu về khoảng 20 tỷ đồng. Nếu tính theo tỷ giá hối đoái 100 đồng/ rúp thì số mất lại càng lớn hơn, tới 130 tỷ đồng. Điện 
là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, chỉ có Nhà nước độc quyền kinh doanh, nhưng ta đã bán với giá rất thấp hơn hàng chục 
lần so với giá thành sản xuất, làm thiệt hại hàng năm gần tới gần 40 tỷ đồng. Xăng dầu, than, sắt thép, xi măng…tình hình 
cũng tương tự. Nhà nước mất mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Từ cuối năm 1983 lại đây, ta mới vận động mua công trái chưa 
được 2 tỷ đồng… đủ thấy mất mát của chúng ta quá lớn, không có nguồn thu nào bù đắp được”.
526
Theo ông Trần Việt Phương: Trường Chinh và Lê Duẩn luôn thể hiện sự tôn trọng nhau. Tôi nghe cả hai ông kể về 
những ngày ở tù. Phía sau Hỏa Lò có một con đường chạy sang tòa án. Người Pháp thường đưa tù tử hình ra xử bắn ở đấy 
vào lúc 2-3 giờ sáng. Trường Chinh nói: “Có những lần chúng tôi đau mà không khóc, nhìn cảnh người ta xử tử ngay dưới
lòng đường”. Họ là những người đã từng gắn bó nhau sinh tử. Lúc bấy giờ những người trong Bộ Chính trị chuẩn bị phát 
biểu gì đều gửi cho các ủy viên Bộ Chính trị khác để xin ý kiến. Lê Duẩn có một chỉ thị: “Nếu các ủy viên khác có ý kiến về 
bài của tôi thì phải cho tôi biết, nếu anh Năm chữa gì thì cứ thế mà chấp hành”. Ông Lê Duẩn biết ông Trường Chinh rất 
thận trọng. Trường Chính biết có những điều mình và Lê Duẩn không hợp nhau, nhưng ông không bao giờ chữa, chỉ chữa 
những lỗi chữ nghĩa.
527
Nhiều tháng trước Hội nghị Trung ương 6, ông Lê Duẩn đã sử dụng mười chuyên gia giúp việc để chắp bút bản báo cáo
này. Theo ông Trần Phương, người có tham gia thảo luận trong quá trình hình thành “mười quy luật kinh tế” của ông Lê 
Duẩn, các ông Trần Phương, Trần Quỳnh, Hoàng Tùng, Đống Ngạc là người chấp bút chính bài phát biểu nói trên của ông 
Lê Duẩn.
528
Trần Nhâm, 2005, trang 117.
529
Sài Gòn Giải Phóng, 15-9-1985.
530
Tuổi Trẻ, 16-9-1985.
531
Trần Nhâm, 2005, trang 120-121.
532
Trần Nhâm, 2005, trang 119.
533
Sđd, trang 58-60.
534
Tài liệu lưu trữ cá nhân của Giáo sư Trần Đình Bút.
535
Nhà kinh tế học mà quan điểm của ông được áp dụng ở Tiệp Khắc hồi giữa thập niên 1960.
536
Những phát biểu của Paskar và các ý kiến liên quan đến bài báo của Giáo sư Đào Xuân Sâm trong đoạn này được trích từ 
biên bản họp Hội đồng Bộ trưởng ngày 8-5-1986. 
537
Trần Nhâm, 2005, trang 270.
538
Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 204. 
539
Theo ông Đoàn Duy Thành và Hoàng Tùng, tháng 12-1985, ông Lê Duẩn yếu dần và thường không còn tham gia họp Bộ 
Chính trị, Trường Chinh xử lý hầu hết các công việc trong Đảng. Thế nhưng, Lê Đức Thọ vẫn lên Hồ Tây thăm và xin Lê 
Duẩn: “Anh ốm, sức khỏe của anh bắt đầu hạn chế, anh giới thiệu với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương để tôi thay 
anh đi”. Ông Lê Duẩn nói: “Với tình hình Đảng ta bây giờ, anh chưa thay tôi được mà phải Trường Chinh”. Tháng 4-1986, 
Lê Đức Thọ lại đến, lần này đi hai vợ chồng. Ông Thọ, được tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê Duẩn hất ra:
“Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến 
thắng. Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”.
540
Bản ghi phát biểu của Lê Đức Thọ tại Hội nghị.
541
Trước Đại hội V, tháng 3-1982, Lê Đức Thọ chuẩn bị một đề án thiết lập chế định Chủ tịch Đoàn trong Đảng, theo đó: 
năm vị đang giữ cương vị cao nhất trong Đảng sẽ giữ chức chủ tịch Đảng; Lê Duẩn, nhà lãnh đạo cao nhất sẽ giữ chức danh 
Chủ tịch Đoàn Chủ tịch; một trong năm vị chủ tịch sẽ giữ chức tổng bí thư, vị trí được cho là của Lê Đức Thọ. Theo ông
Việt Phương, thư ký Tổng Bí thư Lê Duẩn, thì đấy là mô hình mô phỏng Trung Quốc; ở Trung Quốc khi áp dụng mô hình
này, Đặng Tiểu Bình, tuy không ở trong Chủ tịch Đoàn nhưng đã giữ chức tổng bí thư, một cương vị tuy thấp hơn nhưng có 
thực quyền vì xử lý thường vụ mọi vấn đề trong Đảng. Đề án của Lê Đức Thọ đã làm cho nhiều người lo lắng: sau khi “tôn 
vinh” Lê Duẩn làm chủ tịch, thực quyền sẽ thuộc về “Tổng Bí thư” Lê Đức Thọ. Tuy nhiên, Lê Duẩn đã dập tắt ý định này 
khi mở đầu cuộc họp, ông tuyên bố: “Ở Việt Nam chỉ có Bác xứng đáng làm chủ tịch Đảng. Ai muốn làm chủ tịch thì cứ 
làm, tôi không dám”.


542
Thoạt đầu, Tố Hữu được ông Lê Duẩn “bồi dưỡng” để kế nhiệm chức Tổng bí thư, nhưng thất bại của cải cách Giá-
Lương-Tiền đã đánh mất nốt chút uy tín còn lại của một “nhà thơ đi làm kinh tế”.
543
Tố Hữu không bị cách chức ông vẫn được đưa vào danh sách ứng cử vào Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VI 
nhưng thất cử (cùng với Hoàng Tùng).
544
Ông Phạm Văn Đồng được những người giúp việc đánh giá là “một nhà văn hóa hơn là một nhà kinh tế”. Ông thường tự 
tay soạn thảo các phát biểu của mình rồi mới đưa cho thư ký chữa thay vì thư ký chuẩn bị như những người khác. Theo Việt 
Phương: “Ông nghĩ sâu xa cân nhắc trước khi viết ra, nói ra”. Bằng một thứ tiếng Pháp lưu loát, ông Phạm Văn Đồng rất dễ 
gây cảm tình với các nhà báo và các đồng sự quốc tế. Bên trong, với tác phong giản dị, nhân hậu, ông cũng có được sự yêu 
mến của cấp dưới và công chúng.
Ông Phạm Văn Đồng sinh năm 1906 ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Thường được gọi là anh Tô. Sự 
nghiệp cách mạng của ông bắt đầu từ phong trào bãi khóa chống Pháp của học sinh, sinh viên năm 1925, nhân đám tang của 
nhà chí sỹ Phan Châu Trinh. Năm 1926, ông sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và 
gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 7-1929, ông bị người Pháp bắt, bị kết án mười năm tù và bị 
đày đi Côn Đảo. Mãi tới năm 1936, ông mới được ra tù để rồi năm 1940, cùng Võ Nguyên Giáp, bí mật sang Trung Quốc 
cùng gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ về nước xây dựng căn cứ địa ở biên 
giới Việt - Trung. Tại Quốc dân Đại hội Tân trào, năm 1945, ông được bầu vào Ủy ban Thường trực gồm năm người thuộc 
Ủy ban Dân tộc Giải phóng, chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám. 
Trong chính phủ đầu tiên của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng là bộ trưởng tài chính và sau đó kiêm thêm chức phó trưởng 
Ban Thường vụ Quốc hội. Tháng 6-1946, khi Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam từ chối đi Pháp dự Hội nghị 
Fontainebleau, ông được Hồ Chí Minh cử thay Nguyễn Tường Tam làm Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
tham gia hội nghị. Từ tháng 7-1949, ông là phó thủ tướng duy nhất trong chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu, mặc dù, mãi
tới Đại hội II, năm 1951, ông mới trở thành ủy viên Bộ Chính trị. Ông Đồng là người nhận lãnh sứ mệnh lịch sử khi được 
cử làm Trưởng phái đoàn Chính phủ dự Hội nghị Genève về Đông Dương, nơi, ông ký vào bản Hiệp định chia Việt Nam 
thành hai miền Nam - Bắc. Từ tháng 9-1955, ông làm thủ tướng rồi chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho đến năm 1987. Ông 
Phạm Văn Đồng đứng đầu chính phủ trong một giai đoạn mà nền kinh tế vận hành dựa trên nguyên tắc kế hoạch hóa tập 
trung. Cả miền Bắc như một cỗ máy đã được lập trình, vai trò hình thành chính sách gần như không đáng kể. Cho dù, ông là 
người ký các nghị định của chính phủ ban hành chính sách cải tạo công thương nghiệp ở cả miền Bắc, hồi năm 1958, và 
miền Nam, năm 1977, Phạm Văn Đồng chỉ là người thừa hành chứ không phải là tác giả. Cũng có một số chính sách xuất 
hiện khi ông Phạm Văn Đồng còn là thủ tướng có tác dụng tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất kinh doanh như: Nghị 
quyết Trung ương 6, khóa IV, tháng 6-1979; Quyết định 25-CP, 21-1-1981. Nhưng, vai trò của Phạm Văn Đồng trong đổi 
mới là rất mờ nhạt. Theo Hà Nghiệp, vào thời điểm ấy, xung quanh Phạm Văn Đồng không còn người giỏi nữa. Trợ lý xuất 
sắc nhất của ông là Việt Phương, sau khi xuất bản tập thơ “Cửa Mở” đã bị tách ra.
Về đời tư, ông Phạm Văn Đồng là một người không may mắn. Năm 1946, ông lấy vợ, bà Phạm Thị Cúc, nhưng chỉ một 
tuần sau khi cưới, chiến tranh bùng nổ, ông được cử làm đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung 
bộ. Cuối năm 1948, bà Cúc được đưa vào với chồng. Sau nhiều tháng đi bộ, tháng 3-1949, bà tới nơi nhưng gặp chồng chỉ 
được chưa đầy tuần thì Phạm Văn Đồng lại có lệnh ra Bắc. Năm ấy bà Cúc chỉ mới hai mươi ba tuổi. Có lẽ hoàn cảnh ấy đã 
tác động lớn tới tinh thần của bà, năm 1950 bà bắt đầu bị bệnh tâm thần phân liệt. Ông Trần Việt Phương kể: “Lúc đầu chỉ 
là một cơn kịch phát sau đến mức bị trầm uất, các bác sỹ Nga và Trung Quốc đều tận tình nhưng rồi không chữa được. Một 
lần, các bác sỹ nhận thấy chị Cúc rất nhớ chồng. Họ nói với tôi là nên đưa chị về để anh chị gần nhau, hy vọng là điều ấy có 
thể giúp cải thiện tình trạng bệnh tình của chị. Tôi về, nói với Phạm Văn Đồng, anh đồng ý, chỉ nhờ tôi tìm giúp các phương 
tiện tránh thai. Hai ngày sau, Phạm Văn Đồng mang trả tôi các bao cao su rồi lắc đầu: họ nhầm. Về sau, chị Cúc được đưa 
về một ngôi nhà ở phố Phúc Hạo. Mỗi lần Phạm Văn Đồng ra, anh đưa tay cho vợ, chị Cúc cũng đưa tay ra, nhưng hai bàn 
tay run lên bần bật, chới với, mong muốn mà không nắm nổi tay chồng. Tôi nhận thấy cả hai, một tỉnh, một không, đều rất 
đau đớn”. Ông Phạm Văn Đồng sống cô độc như thế cho đến tận cuối đời cho dù nhiều lần, nhiều người trong Trung ương 
có khuyên ông lấy vợ. Ông Việt Phương nói: “Hồ Chí Minh ủng hộ lựa chọn này của Phạm Văn Đồng”. Bà Cúc kịp sinh 
cho ông một người con trai tên là Phạm Sơn Dương trước khi bệnh tình của bà trở nên vô phương cứu chữa. 
545
Ngày 20-9-1986, trên tờ Pravda, Gorbachev nói về “Đổi mới, làm chủ và sáng tạo”. Ngày 1-10-1986, Gorbachev cho 
rằng: “Cái cũ không dễ dàng đầu hàng, phải dũng cảm để đưa ra cái mới”. Ngày 11-10-1986, các báo Việt Nam vừa đưa tin 
về cuộc gặp giữa Gorbachev và Tổng thống Mỹ Reagan tại Iceland vừa đăng phát biểu của Gorbachev trước đó tại Đảng 
Khu ủy Graxnoda: “Dân chủ như không khí, như đòn bẩy nâng cả xã hội vào công cuộc đổi mới”.
546
Chính những cải cách mà Gorbachev tiến hành vào tháng 2-1986 tại Đại hội 27 Đảng Cộng sản Liên Xô như glasnost 
(mở cửa), perestroika (cải tổ)… đã dẫn đến chấm dứt hoàn toàn chiến tranh lạnh và làm sụp đổ căn bản hệ thống xã hội chủ 
nghĩa chỉ trong một nhiệm kỳ của Gorbachev.
547
Theo Ogomolov: “Trong cải tổ kinh tế, có một số vấn đề then chốt mà, theo tôi, chúng ta sượng sùng lảng tránh. Đó là 
vấn đề thị trường dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Từ thị trường phần lớn được nhắc tới một các tiêu cực”. Sau khi phát biểu 
này đăng trên tờ Sự Thật, nhà kinh tế Clagoliev nói lại, cũng trên Sự Thật: “Trong tất cả các kiểu thổi phồng của tuyên 
truyền tư bản xét lại thì huyền thoại về thị trường là nguy hiểm hơn cả”.


548
Phần chủ yếu phải viết lại trong Báo cáo Chính trị là phần kinh tế. Ba vấn đề lớn mà Tổ Biên tập báo cáo xin ý kiến 
Trưởng Chinh: Đổi mới tư duy về cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, khắc phục khuynh hướng ham công nghiệp nặng và công 
trình lớn, chuyển hướng đầu tư và phát triển sản xuất vào ba mục tiêu cơ bản và cấp bách để vượt qua khủng hoảng kinh tế-
xã hội là lương thực, thực phẩm - hàng tiêu dùng - hàng xuất khẩu; Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế cá 
thể và tư nhân còn cần thiết và tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế 
tập thể và kinh tế gia đình gắn với nó hợp thành lực lượng kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế; 
việc cải tạo các thành phần kinh tế khác là nhiệm vụ lâu dài, gắn với yêu cầu sử dụng, phát huy khả năng của họ theo 
phương châm: sử dụng để cải tạo, cải tạo để sử dụng tốt hơn; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan 
liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Lúc này, mới 
chấp nhận kinh tế hàng hoá và sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ để xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, chưa giải thoát 
được nhận thức coi kinh tế thị trường và cơ chế thị trường không dung hợp với chủ nghĩa xã hội. 
549
Tướng Lê Trọng Tấn cùng với Tướng Hoàng Văn Thái là hai chỉ huy quân đội đã sát cánh với Tướng Giáp suốt hai cuộc
kháng chiến, cả hai người đều có mặt tại Điện Biên Phủ. Tướng Giáp cho rằng Lê Trọng Tấn là “một trong các vị tướng giỏi 
nhất Việt Nam qua các thời đại”. Chính Đại Đoàn 320 của Lê Trọng Tấn đã cắm cờ trên hầm De Castries, dành chiến thắng 
huy hoàng ở Điện Biên Phủ. Ba mươi mốt năm sau, cũng chính chiếc xe tăng 390 nằm trong Cánh Quân Phía Đông của Lê 
Trọng Tấn đã húc đổ cổng Dinh Độc Lập, kết thúc cuộc chiến tranh thống nhất hai miền Nam Bắc. Ngày 18-10-1986, tại 
Đại hội Đảng Toàn Quân, Lê Trọng Tấn được bầu làm trưởng đoàn đại biểu quân đội đi dự Đại hội Đảng lần thứ VI. 
550
Ông Lữ Minh Châu kể rằng, tháng 6-1986, khi đang làm giám đốc Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, trong 
một ngày, ông nhận được điện của Ban Tổ chức Trung ương gọi ra Hà Nội. Cầm bức điện mật trong tay mà ông không rõ là 
bị “triệu” bởi một việc lành hay dữ. Đến chiều, ông biết mình trở thành tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khi 
nghe Đài Tiếng nói Việt Nam đưa tin về Quyết định bổ nhiệm ông của Bộ Chính trị. Người mà ông Châu gặp khi ra tới Hà 
Nội không phải là nhân vật đứng đầu Chính phủ của ông mà là Lê Đức Thọ. Ông Đỗ Quốc Sam cũng được nhấc từ “ghế”
Hiệu trưởng trường Đại học Xây dựng về làm Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng Cơ bản Nhà nước vào tháng 6-1982 theo cách 
đột ngột như vậy. Ông Sam kể lại rằng, khi ông đến dự phiên họp Chính phủ đầu tiên, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã phải 
hỏi: “Anh là ai? Tại sao lại ngồi ở đây?”. Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Văn phòng, đang làm thư ký phiên họp, đã phải đỡ lời: 
“Thưa, đây là anh Đỗ Quốc Sam, thành viên mới của Chính phủ ạ”. 
551
Lê Đức Thọ, Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 69.
552
Trích Hồi ký của ông Nguyễn Thành Thơ: Trước Đại hội IV, anh Thọ kêu tôi đến gặp. Ngang Sở Nông nghiệp Thành 
phố, ngang đường Cách mạng Tháng Tám, có con đường đi sâu vô ruột khu phố, nơi có nhiều biệt thự do công an quản lý.
Tôi đến một biệt thự rộng lớn, anh Thọ bảo bảo vệ cán bộ nhân viên tản ra các biệt thự xung quanh, anh dắt tôi lên lầu, chỉ 
hai người ngồi bàn ngang nhau, anh có sổ và cầm viết ghi. Anh nói: “Tôi cần hỏi anh một số câu, để có quyết định về anh: 
quê anh thuộc về đảng bộ nào?”. Tôi nói, khi Châu Văn Liêm, thường vụ Xứ ủy, chuyển từ “Thanh niên Đồng chí Hội” 
sang lập “An Nam Cộng sản Đảng”, có đến công tác ở xã tôi. Anh Nhung ở Vĩnh Long làm thầy giáo ở Ô Môn, đã được
Châu Văn Liêm kết nạp vào Đảng một lượt với Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp. Cùng lúc thành lập chi bộ Cờ Đỏ. Ngày 
đầu, đảng bộ quê tôi thuộc về đảng bộ Châu Văn Liêm. Trả lời xong câu hỏi này, thấy anh Sáu Thọ trầm ngâm. Lê Đức Thọ 
hỏi tiếp: “Anh có quen biết Trần Văn Giàu không?”. Tôi nói: “Lúc nhỏ đọc báo nói về vụ Des Champs, Pháp đưa hơn năm 
mươi người cộng sản bị bắt ra tòa, có viết những câu hỏi của tòa và trả lời của Trần Văn Giàu, tôi rất thích, như: Tòa hỏi:
‘Anh làm nghề gì?’; anh Giàu trả lời: ‘Tôi đã nói, tôi làm cách mạng chuyên nghiệp, còn làm nghề gì nữa’. Tòa hỏi: ‘Làm 
sao anh đi Nga được?’. Anh Giàu trả lời: ‘Tôi có ý chí làm cách mạng là tôi đi được’. Sau này gặp anh Giàu tôi thuật lại, 
anh Giàu cười nói: ‘Trước tòa tôi khai dóc chứ từ Pháp đi Liên Xô có gì là khó”. Sau khi xác minh thấy tôi “không có quan
hệ gì với Trần Văn Giàu”, ông Lê Đức Thọ nói: “Tôi sẽ giới thiệu cho Đại hội, bầu anh vào Trung ương Đảng, sau khi đắc
cử sẽ rút anh đi khỏi thành phố”. Thế là ông Mười Thơ trở thành ủy viên Trung ương khóa IV.
Đến Đại hội V, tháng 3-1982, tôi được Ban Chấp hành Trung ương Đảng giới thiệu về tỉnh Hậu Giang ứng cử đại biểu đại 
hội V. Tôi dự cuộc họp Trung ương khóa IV, lần cuối, đóng góp dự thảo báo cáo Đại hội V và danh sách đề cử trung ương 
ủy viên, trong danh sách đầu tiên có tên tôi. Chiều lại, anh Sáu Thọ kêu tôi đến gặp. Tôi nói với các đồng chí trong Tổ: 
“Chắc tôi phải rút ra khỏi danh sách đề cử đây”; rồi cười xách cặp đi. Đến nhà khách của Ban Bí thư, tôi ngồi trên ghế salon 
cá nhân ngang mặt với Sáu Thọ, anh biểu qua ngồi ghế salon với anh, rồi nói: “Tôi đối với anh sao anh cũng biết, các đồng
chí Bộ Chính trị găng với anh lắm, trong cùng khóa Ban Chấp hành Trung ương mâu thuẫn nhau, sẽ ảnh hưởng lãnh đạo chỉ 
đạo của Trung ương. Tôi đề nghị anh vì sự nghiệp lớn của Đảng, anh hi sinh cho chúng tôi đưa tên anh ra khỏi danh sách 
giới thiệu vào Trung Ương Khóa V. Sau Đại hội, công tác của anh ra Bắc vô Nam thoải mái”. Tôi phát biểu: “Tôi tham gia 
cách mạng hồi mấy tuổi, luôn được điều đi nơi khó, và được giao trọng trách lúc khó. Tôi không nghĩ có thể sống đến độc 
lập thống nhứt. Giờ đương còn sống là lời quá sức rồi, có gì không hi sinh được. Nếu thấy tôi ở Trung ương làm mất đoàn 
kết, trở ngại cho Trung ương phát huy vai trò, tôi sẵn sàng rút tên, các anh cứ bôi tên tôi khỏi danh sách đề cử vào Trung 
ương đi”. Nói xong, tôi đứng dậy chào và về tổ họp. Đến khi họp Trung ương, danh sách giới thiệu ra ứng cử không có tên 
tôi. Mười Kỷ đi gặp Lê Duẩn hỏi về chuyện bôi tên Mười Thơ trong danh sách đề cử vào Trung ương, ông Ba Duẩn nói:
“Tôi không tán thành bôi tên Hai Văn, Mười Thơ, Năm Vận, Mười Kỷ”. Hôm khai mạc Đại hội Đảng lần V, trên đường vào 
hội trường, tôi gặp Mai Chí Thọ, anh ôm tôi rất tha thiết nói: “Trường đồ tri mã lực, cửu nhựt kiến nhân tâm” (Đường dài 
mới biết ngựa hay/ Lâu ngày lòng người mới tỏ). Giờ giải lao, anh Đinh Đức Thiện khều tôi ra sân nói: “Mầy cho tao kêu 


mầy bằng mầy, vì tao lớn hơn mầy nhiều tuổi. Tao đi hết các tỉnh miền Tây, nếu mầy như họ nói, không thể có miền Tây 
anh hùng như vậy. Tao nói với ông Sáu Thọ, giải quyết cán bộ như thế, sau nầy họ sẽ đào mồ, cuốc mả cha mẹ mình lên”. 
Tôi nắm chặt hai tay anh Thiện nói: “Tôi nhận anh là anh tôi”. Cũng trong thời gian họp, anh Hai Văn điện thoại kêu tôi đến
nơi ở đoàn đại biểu tỉnh Cửu Long gục đầu xuống bàn khóc, nước mắt chảy ướt mặt bàn. Sau Đại hội anh Nguyễn Văn Linh 
gặp tôi nói: Tôi có hỏi anh Sáu Thọ về việc bôi tên anh trong danh sách đề cử vào Trung ương, anh Sáu Thọ trả lời: “Tôi nói 
với nó, nó trả lời với tôi không đầy ba phút, đứng dậy đi, nếu nó năn nỉ tôi, tôi đã cho ở lại”. Tôi nói với anh Sáu Thọ: 
“Người cộng sản chân chính không bao giờ năn nỉ đâu”. Rồi anh Linh lại nói: “Tôi làm sao đấu tranh cho lẽ phải được, anh 
thấy hoàn cảnh tôi không, trong Đại hội nầy người ta vận động không bỏ thăm cho tôi, kết quả tôi đạt được số thăm đắc cử 
là may lắm”. 
553
Lê Đức Thọ Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 69.
554
Theo ông Nguyễn Đức Tâm, khi chưa thuyết phục được Bộ Chính trị rằng ai sẽ làm tổng bí thư, ông Tâm đã hỏi Lê Đức 
Thọ: “Tình hình khó khăn quá, anh nên nhận chức tổng bí thư đi, dễ thống nhất hơn?”. Lê Đức Thọ nói: “Mình đã nhiều 
tuổi, sức khỏe cũng kém, để đồng chí khác làm tốt hơn”(Bài viết của Nguyễn Đức Tâm do ông Nguyễn Đình Hương cung 
cấp).
555
Thư ký của ông Trường Chinh, ông Trần Nhâm nói, Trường Chinh đã chịu áp lực, kể cả đe dọa, để buộc phải rút lui, 
nhưng ông Nguyễn Khánh thì cho rằng không có sự đe dọa.
556
Bài phát biểu, còn được diễn đọc lại tại Đại hội Công khai vào ngày 18-12-1986, viết: “Chúng ta sắp bầu các ủy viên Ban 
Chấp hành Trung ương mới… Trong danh sách đề cử vào Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, thể theo đề nghị của đồng 
chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Lê Đức Thọ, Đoàn Chủ tịch Đại hội nhất trí tôn trọng quyền 
không ứng cử của ba đồng chí vì tuổi cao, sức đã yếu. Cử chỉ cao đẹp của ba đồng chí làm nổi bật truyền thống quý báu của 
dân tộc ta, của Đảng ta là: Thế hệ trước ân cần dìu dắt thế hệ sau và thế hệ sau kế tục trung thành sự nghiệp của thế hệ
trước”. Sau khi “long trọng truyên dương” cả “ba đồng chí”, ông Phạm Hùng đề nghị “Đại hội trao trách nhiệm cao cả” làm 
cố vấn cho cả ba bậc công thần của Đảng.
557
Lê Đức Thọ Người Cộng sản Kiên cường…, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2011, trang 70.
558
Đại Tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2005.
559
Phạm Văn Trà, 2009, trang 326-327.
560
Phạm Văn Trà, 2009, trang 327-328.
561
Mai Xuân Tần, 2005, trang 176.
562
Mai Xuân Tần, 2005, trang 176.
563
Sđd, trang 177.
564
Theo điệu bài hát Anh Ở Đầu Sông Em Cuối Sông, Phan Huỳnh Điểu.
565
Văn Lê, thơ.
566
Mìn zip và K58 thường không làm chết người. Mìn zip thì cắt đứt gót chân của những người đạp phải nó. Mìn K58 thì 
bật lên và nổ ở độ cao khoảng 80cm, sức sát thương đủ cắt đứt hai chân của người lính dẫm lên nó và còn có khả năng sát 
thương cả người đi phía sau, phía trước. 
567
Điều tra của Ben Kiernan trong cuốn The Pol Pot Regime cho rằng: 1,67 triệu người, tương đương với 21% dân số 
Campuchia lúc ấy (7,89 triệu người) đã bị chết dưới bàn tay Khmer Đỏ; 100% người Việt, với mười nghìn sống trong các 
đô thị và mười nghìn người khác sống ở các vùng nông thôn, đều bị Khmer Đỏ giết sạch. Tuy, được hậu thuẫn bởi Bắc 
Kinh, nhưng chế độ Khmer Đỏ cũng không tha mạng cho người Hoa. Khoảng 50% người Hoa sống ở Campuchia, tương 
đương với 215 nghìn người đã phải chết dưới bàn tay Pol Pot.
568
Đại sứ Việt Nam tại Campuchia giai đoạn 1979-1991.
569
Ngô Điền, 1992, trang 63.
570
Ngô Điền, 1992, trang 63.
571
Sđd, trang 60.
572
Ngô Điền, 1992, tr 60.
573
Hun Sen sinh năm 1952 (Năm sinh trong lý lịch là 1951) quê ở huyện Stưng Troong, Kongpong Cham. Khi còn học phổ 
thông, Hun Sen có tham gia phong trào học sinh, bị khủng bố, lánh về Kratie buôn hàng tiếp tế cho Quân Giải phóng miền 
Nam. Khi Lonnol đảo chính, Hun Sen chạy theo bộ đội Việt Nam và sau đó tham gia một đơn vị vũ trang Campuchia do bộ
đội Việt Nam huấn luyện. Năm 1972, Hun Sen đã lên đến tiểu đoàn trưởng. Năm 1975, khi tham gia “giải phóng Kompong 
Cham”, Hun Sen bị thương nặng và hỏng mắt trái. Thời Pol Pot, Hun Sen là trung đoàn phó, tham mưu trưởng Trung đoàn 
Vùng 21. Tháng 6-1977, trung đoàn của Hun Sen được lệnh chuẩn bị tác chiến, trinh sát về báo, mục tiêu được giao là đồn 
biên phòng Hoa Lư của Việt Nam. Sau khi một số cán bộ trung đoàn được gọi về quân khu học tập không thấy quay trở lại, 
Hun Sen cùng với một số cán bộ tâm phúc khác chạy thoát sang Việt Nam. Hun Sen đã được hai cán bộ Việt Nam tiếp đón 
và giúp đỡ trong thời kỳ đầu, ông Tám Quang và Ba Cung, đánh giá rất cao. Sau một số lớp huấn luyện đầu tiên, Hun Sen 
đã viết những kiến nghị có tầm chiến lược, được nói là, đã làm cho các cán bộ Việt Nam kinh ngạc. Khi trở thành bộ 
trưởng, biết mình bắt đầu từ số không, Hun Sen, với tư chất thông minh, đã nỗ lực hết mình để học tập. Theo ông Ngô Điền: 
“Bộ Ngoại giao Việt Nam nhanh chóng soạn một giáo trình sơ đẳng về ngoại giao, cử cán bộ sang giúp tôi mở lớp đào tạo 


cấp tốc. Hun Sen học trước, học riêng và học rất chăm, sau đó tự mình lên bục giảng lại bài cho các cán bộ Campuchia 
khác”. Cách làm này vừa giúp Hun Sen nắm bài chắc hơn vừa giúp ông kiến tạo uy tín trong hàng ngũ cán bộ Campuchia. 
Theo ông Ngô Điền, khác với Pen Sovan, muốn tỏ ra tự mình làm được, không chịu tranh thủ sự giúp đỡ của chuyên gia,
anh Hun Sen lúc đầu luôn khai thác chuyên gia, học rồi hỏi. Nhưng, những việc như chọn cán bộ, giải quyết các mối quan 
hệ nội bộ thì Hun Sen lại thường tự làm.
574
Ngô Điền, 1992, trang 65.
575
Sđd, trang 76.
576
Pen Sovan bị đưa trở lại Hà Nội giam giữ cho tới ngày 25-1-1992.
577
Theo Tướng Lê Đức Anh: “Trở về Hà Nội, Bộ Chính trị họp bàn xét vụ này. Lúc đó, tôi nhớ anh Tô (Phạm Văn Đồng) 
đã phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỷ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của Bộ Tư lệnh 479 và 719 có 
liên quan đến vụ việc. Tôi nghĩ, lúc đó bất cứ ai đứng vào cương vị và nhiệm vụ của tôi cũng cảm thấy rơi vào trạng thái
khó xử, vì nếu tình hình chỉ thuần túy là anh em tự động làm, sai đến đâu kiểm điểm kỷ luật đến đó thì không khó. Nhưng 
đằng này lại có chuyện đồng chí Hồ Quang Hóa có ra Hà Nội báo cáo cấp trên. Vậy thì mấy ông ‘cấp trên’ này trách nhiệm 
đến đâu phải do Bộ Chính trị định đoạt. Bởi vậy, tôi đề nghị với Bộ Chính trị là giao cho tôi xử lý thì tôi chỉ xin xử lý những 
việc cụ thể và những con người cụ thể của Bộ tư lệnh 719 và 479 có liên quan thôi. Bộ Chính trị chấp nhận. Tôi cũng đề
xuất Bộ Chính trị nên cử một đồng chí có cương vị cao, thay mặt Đảng ta sang xin lỗi Đảng bạn, Bộ Chính trị nhất trí cử 
anh Chu Huy Mân” (Đại tướng Lê Đức Anh, Nhà Xuất bản Quân Đội Nhân Dân, 2005, tr 186-187). Theo ông Lê Đức Anh: 
“Việc đầu tiên, tôi điện sang ngừng tất cả các cuộc bắt bớ và thả tất cả những người đã bắt. Tôi vào Thành phố Hồ Chí 
Minh, sang Camphuchia, yêu cầu các đồng chí có trách nhiệm, không chỉ của Mặt trận 479 mà cả các mặt trận khác lên báo 
cáo tình hình. Tôi nghe rất kỹ, hỏi rất kỹ và đi kiểm tra thực tế thì thấy rằng các đồng chí không hề có ác ý hay thủ đoạn gì ở 
đây, chẳng qua chỉ là do ấu trĩ và nôn nóng nên dẫn đến sai lầm… Không kỷ luật thì không được nhưng kỷ luật nặng quá 
cũng không nên. Cuối cùng chỉ kỷ luật hai người, mỗi người hạ một sao cho về nước” (Đại Tướng Lê Đức Anh, trang 188). 
Hai nhân vật mà ông Lê Đức Anh đề cập là Thiếu tướng Hồ Quang Hóa và Thiếu tướng Tư Thanh, tư lệnh Mặt trận 479, cả 
hai bị giáng cấp xuống đại tá. Ông Hồ Quang Hóa còn bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương, nơi ông chỉ vừa mới
được bầu vào hồi tháng 3-1982.
578
Tháng 10-1985, Tổng Bí thư Lê Duẩn tới Phnom Penh dự Đại hội lần thứ V Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia. 
Theo ông Ngô Điền: “Anh Lê Duẩn lúc đó đã bảy mươi tám tuổi, ăn uống phải theo chế độ cẩn thận. Anh Heng Samrin 
định đến ăn tối với đoàn nhưng do buổi tối anh Duẩn chỉ ăn nhẹ trong phòng riêng nên anh thu xếp ăn trưa cùng đoàn ở nhà 
khách Chamcar Mon. Suốt bữa ăn, anh Ba Duẩn nói say sưa về một số đề tài mà anh thường nhắc đi nhắc lại: làm chủ tập
thể, xây dựng 400 pháo đài cấp huyện… Anh Heng Samrin không nói chen vào được bao nhiêu, chủ yếu ngồi nghe. Anh Ba 
Duẩn ăn ít, xong phần mình, anh nói: ‘Thôi nhé, ta đi nghỉ’, rồi kéo ghế đứng dậy đi về buồng mình ở ngay sau chỗ anh 
ngồi. Anh Heng Samrin đành thôi ăn, đứng dậy… Chắc anh Lê Duẩn không nghĩ ngợi gì, cho là cách xử sự của mình là 
bình thường. Mới hay tư tưởng nước lớn của ta đối với bạn đã ăn sâu và trở thành tự nhiên đến vậy” (Ngô Điền, 1992, trang 
86).
579
Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
580
Tháng 8-1980, chiến sự xảy ra ác liệt ở điểm cao 1992, thuộc Sín Mần. Tháng 5-1981 Trung Quốc lại tiến đánh các cao 
điểm 1800A-1800B, thuộc Lao Chải, Hà Tuyên. Cũng tháng 5-1981, trên tuyến Đông Bắc, Trung Quốc tiến đánh bình độ 
400, thuộc Cao Lộc, cao điểm 820, 630, thuộc Thất Khê, Lạng Sơn. Tháng 2-1982 Trung Quốc đánh vào Đồng Văn, Mèo 
Vạc, tháng 4-1983, đánh Mường Khương… 
581
Ngày 26-3-1984, khi Quân Tình nguyện Việt Nam mở đợt tấn công lớn, phá vỡ các căn cứ của Khmer Đỏ tại biên giới 
Thái Lan, Trung Quốc liền điều quân và trong suốt hơn ba tuần lễ - từ ngày 2-4 đến 27-4-1984 - pháo kích cấp tập vào 205 
mục tiêu ở hai mươi khu vực thuộc sáu tỉnh biên giới Hà Tuyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn, Lai 
Châu. Có ngày, Trung Quốc bắn tới hơn 6.000 viên đạn pháo, có nơi phải chịu từ 1.000-3.000 viên đạn mỗi ngày. Nơi xa 
nhất bị bắn phá là thị xã Hà Giang, cách biên giới 18km. Trong các ngày từ 28-4 đến 30-4-1984, Trung Quốc bắn 12.000 
quả đạn pháo vào sáu điểm tựa của Việt Nam để chi viện cho bộ binh tấn công đánh chiếm hàng loạt điểm cao như 226, 
233, 772, 1509, bình độ 300-400. Ngày 15-5-1984, Trung Quốc dùng một trung đoàn tăng cường đánh xuống phía Đông 
sông Lô, ngay trong ngày chiếm được các điểm cao 1030, Si Cà Lá, 1250.
582
Trên biên giới Vị Xuyên-Yên Minh, chiến sự kéo dài từ tháng 4-1984 cho đến tháng 4-1989. Những điểm cao như 1545, 
1509, 1030 ở Vị Xuyên hay 1250, Núi Bạc ở Yên Minh, Hà Giang đã trở thành những địa danh máu lửa. Trên những cao 
điểm chủ yếu được đánh số ấy, hàng ngàn người lính Việt Nam đã ngã xuống để giành giật từng tấc đất với quân Trung 
Quốc.
583
Theo Ezra F. Vogel (2011): Hai tuần sau khi rút quân khỏi Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa đã gặp Đại sứ 
Liên Xô tại Bắc Kinh, đưa ra danh sách những vấn đề hai bên cần thảo luận để đi đến bình thường hóa quan hệ. Từ tháng 4 
đến tháng 10-1979, đã có 5 cuộc gặp ở cấp thứ trưởng giữa Liên Xô và Trung Quốc. Cho dù mục tiêu ép Trung Quốc rút 
quân khỏi vùng Ngoại Mông và thôi trợ viện trợ cho quân đội Việt Nam ở Campuchia không thành công nhưng Đặng Tiểu 
Bình đã dẹp được mối đe dọa quân sự từ Liên Xô(trang 536). Ba ngày sau khi rút quân, 19-3-1979, khi họp với Ủy ban quân 
sự đặc trách khoa học và công nghệ, Đặng nhận định rằng: “Ít nhất trong 10 năm tới sẽ không có chiến tranh quy mô trên 
thế giới. Chúng ta không cần phải vội như vậy. Quân số quá đông. Chúng ta phải giảm xuống”. Chi phí quốc phòng của 


Trung Quốc giảm từ 4,6% GDP năm 1979 xuống còn 1,4% năm 1991. Trong thập niên 1980s, lượng vũ khí nhập ngoại của 
Trung Quốc chỉ bằng 1/6 của Việt Nam (trang 540-541). Quân số Trung Quốc giảm từ 6,1 triệu năm 1975 xuống còn: 5,2 
triệu năm 1979; 4,2 triệu năm 1982; 3,2 triệu năm 1988 (trang 526).
584
Chiến cuộc đã giữ chân đội quân bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam lên tới 3 quân đoàn, 11 sư đoàn, 13 trung đoàn và 
70 tiểu đoàn độc lập.
585
Ezra F. Vogel, 2011, trang 534.
586
Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
587
Khuất Biên Hoà, 2005, trang 216.
588
Khuất Biên Hoà, 2005, trang 216.
589
Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
590
Sđd, trang (?).
591
Trần Quang Cơ, trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.
592
Theo ông Trần Quang Cơ, ngày 2-12-1989, ông Nguyễn Cơ Thạch đã đến Phnom Penh nói với Bộ Chính trị Campuchia: 
Chiến tranh ở Campuchia là một cuộc nội chiến, Việt Nam không thể đưa quân trở lại. Chỉ khi đạt được một giải pháp chính 
trị thì Trung Quốc mới thôi đứng sau lưng Khmer Đỏ, điều kiện cần thiết để lực lượng đe dọa Phnom Penh nhiều nhất này 
yếu đi.
593
Ngày 14-2-1988, Trung Quốc đưa 3 tàu chiến tới vùng biển Trường Sa. Vào lúc 1:30 ngày 15-2-1988, tàu HQ 701 nhận 
được lệnh của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam lao cắm vào đảo chìm Đá Lớn, lấy cả con tàu làm bia chủ quyền. Ngày 6-2-
1988, tàu HQ 701 khi trên đường đưa hàng Tết ra đảo Nam Yết, đã được lệnh neo lại đảo Đá Lớn, chờ. Đầu tháng 3-1988, 
Trung Quốc huy động hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa. Để bảo vệ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, Bộ 
Tư lệnh Hải quân Việt Nam đã điều đến đây các tàu của Lữ đoàn vận tải 125 mang theo một số phân đội của Trung đoàn 
Công binh 83 và Lữ đoàn 146. Ngày 12-3-1988, tàu HQ-605 được lệnh từ đảo Đá Đông đến đóng giữ đảo Len Đao trước 6 
giờ sáng ngày 14-3. Sau 29 tiếng hành quân, tàu HQ-605 đến Len Đao lúc 5 giờ ngày 14-3, cắm cờ Việt Nam trên đảo. Chín 
giờ sáng ngày 13-3, tàu HQ-604 và tàu HQ-505 được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc Ma, Cô Lin. Trong tình thế tàu 
Trung Quốc áp sát uy hiếp, đêm 13-3, Hải quân Việt Nam đã bí mật đổ bộ, cắm cờ Việt Nam trên đảo Gạc Ma. Sáng 14-3-
1988, bốn tàu lớn của Trung Quốc tiến gần đảo Gạc Ma, dùng loa nói ra mật danh của tàu HQ 604 và yêu cầu tàu rời đảo. 
Một tổ 3 người trên tàu HQ 604 được Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân Việt Nam, cử
lên đảo Gạc Ma bảo vệ Quốc kỳ. Hải quân Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên đảo, bắn chết Thiếu úy 
Trần Văn Phương và chiến sĩ Nguyễn Văn Tư, đâm trọng thương Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh. Từ hai chiến hạm của mình, 
Trung Quốc bắn pháo 100 mm làm chìm tàu HQ-604. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, Đại úy thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và 
nhiều sĩ quan, chiến sĩ đã hy sinh cùng tàu HQ-604. Sau khi thấy tàu HQ-604 bị bắn chìm, thuyền trưởng tàu HQ-505 Vũ 
Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, tăng tốc cho tàu ủi bãi. Tàu HQ-505 đã kịp trườn được hai phần ba thân lên đảo Co Lin trước khi bị 
bắn cháy. Cùng ngày, tàu HQ-605 của Hải Quân Việt Nam cũng bị tàu Trung Quốc bắn tại đảo Len Đao, thủy thủ đoàn bơi 
thoát về đảo Sinh Tồn. Trước đó, không ai nghĩ là Trung Quốc sẽ bắn. Các chiến sỹ Hải quân Việt Nam chỉ được trang bị
súng AK nhưng khi xuống đảo chìm, họ để hết vũ khí ở khoang hàng. Trung Quốc đã bắn như vãi đạn vào những người lính 
đang đứng giữa biển trong tay không tấc sắt. Trong trận chiến không cân sức ấy, Hải quân Việt Nam chịu tổn thất: 3 tàu bị 
cháy; 64 sĩ quan, chiến sĩ hy sinh; 11 người bị thương. Nhưng, chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao đã được bảo vệ. 
Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma.
594
Bộ trưởng Ngoại giao Nhật 1991-1993; Bộ trưởng Tài chánh 1980-1982.
595
Tổng Giám đốc Công ty kinh doanh ngoài nước (OFTC).
596
Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
597
Theo ông Trần Quang Cơ: Mãi tới ngày 19-6-1990, Tướng Lê Đức Anh mới nói trong cuộc họp Bộ Chính trị để đánh giá 
cuộc đàm phán giữa Trần Quang Cơ với Từ Đôn Tín, ông gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh nói
với đại sứ Trung Quốc hôm 5-6-1990: gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản 
Khmer nên nói chuyện với nhau. Cuộc gặp còn được viết trong cuốn tự truyện của ông Lê Đức Anh: “Ông (Lê Đức Anh) 
nói Cục trưởng Cục Đối ngoại quân sự Vũ Xuân Vinh đến mời Đại sứ Trương Đức Duy tới Nhà khách Bộ Quốc phòng ở số 
28 Cửa Đông để ông mời cơm. Bữa cơm và cuộc gặp bí mật đó chỉ có hai người, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông điểm lại quá 
trình Trung Quốc giúp Việt Nam… Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh đạo Trung Quốc. Ông mới nhậm chức nhưng 
cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam. Để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này… Hôm đó Đại sứ Trương 
Đức Duy vừa ngạc nhiên vừa vui mừng ra mặt khi nghe ông nói những lời như vậy. Trương nói: Vậy thì tôi phải về báo cáo 
với lãnh đạo bên tôi” (Khuất Biên Hoà, 2005, trang 220).
598
Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
599
Sđd, trang (?).
600
Trần Quang Cơ, 2003, trang (?).
601
Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, ngày 5-11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ 
Văn Kiệt đã đi thăm chính thức Bắc Kinh. Quan hệ Việt - Trung trở lại bình thường như hai quốc gia có quan hệ ngoại giao
với nhau. Nhưng, Trung Quốc không còn là một “đồng minh” như đã từng trong thập niên 1950s, 1960s nữa. Sau Đại hội 
Đảng lần thứ VII, tháng 6-1991: ông Nguyễn Văn Linh thôi chức Tổng Bí thư, ông Đỗ Mười thay thế; ông Lê Đức Anh, 


được xếp vào hàng thứ 2, từ năm 1992 sẽ làm Chủ tịch Nước kiêm Bí thư phụ trách quốc phòng-an ninh - ngoại giao; ông 
Võ Văn Kiệt làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; nhà lý luận Đào Duy Tùng giữ chức Thường trực Ban bí thư. Ông Nguyễn 
Cơ Thạch, người mà Trung Quốc đã đặt ra rìa trong các cuộc tiếp xúc song phương, bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị. Theo ông 
Trần Quang Cơ: “Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, Bí thư Trung ương, 
phụ trách đối ngoại - dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của Tổng Bí thư Đỗ Mười - 
quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ 
trì”. Theo ông Cơ: Ngày 5-8-1991, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: “Từ nay trong quan hệ với Trung 
Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc 
Kinh”. Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương từng đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua 
Trương Đức Duy. Đây không chỉ là bỏ qua nguyên tắc ngoại giao, theo ông Trần Quang Cơ, mà còn là vấn đề “danh dự và 
quốc thể”.
602
Đến năm 1991, lực lượng Khu 203 có 19/62 ủy viên Trung ương, 8/16 ủy viên Bộ Chính trị, trong khi lực lượng tập kết
chỉ có 5/62 ủy viên, 1/16 ủy viên Bộ Chính trị. Các chức vụ như tổng bí thư, thủ tướng, chủ tịch quốc hội, bí thư Thành ủy 
Phnom Penh, bộ trưởng Nội vụ, trưởng Ban Tổ chức Trung ương… đều là người của Khu 203. Phần còn lại trong chính 
trường Campuchia là lực lượng bắt đầu “tham gia cách mạng” sau ngày 7-1-1979: 24/62 ủy viên Trung ương; 2/16 ủy viên 
Bộ Chính trị, 40% ghế bộ trưởng, 28,5% số bí thư tỉnh, thành, 57,1% số chủ tịch tỉnh.
603
Mel Sam Ol là người Khmer nhưng gia nhập quân đội Việt Nam từ năm 17 tuổi. Năm 1979, từ một nữ y tá, chị được đưa
về Phnom Penh giữ chức cục phó Cục Cán bộ, Bộ Quốc phòng, rồi sau đó được đưa vào Ban Bí thư, giữ chức trưởng Ban 
Tuyên huấn.
604
Ngày 10-12-1991, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 05/CT-TW, xác định: “Quan hệ giữa Đảng ta với Đảng Nhân dân Campuchia 
theo những nguyên tắc tôn trọng độc lập tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, tôn trọng lẫn 
nhau và theo phương thức mới, chủ yếu là quan hệ nội bộ, tránh mọi sơ hở gây hậu quả xấu, không lợi cho quan hệ về mặt 
Nhà nước và việc thi hành Hiệp định Paris về Campuchia… Trước mắt, Đảng ta chỉ quan hệ với Đảng Nhân dân 
Campuchia; sẽ xem xét tình hình các đảng và lực lượng khác để quyết định vấn đề quan hệ tùy từng trường hợp. Hai bên 
duy trì quan hệ giữa các đoàn thể quần chúng, các hội hữu nghị, tổ chức xã hội, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân dân hai 
nước, phù hợp với Hiệp định Paris về Campuchia và tập quán quốc tế. Hai bên ngừng các quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh 
thành phố của hai nước, quan hệ giữa các tỉnh, thành phố sẽ được giải quyết trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Nhà nước”.
605
Ngày 16-11-1991, trong cuộc họp báo đầu tiên tại Hoàng Cung kể từ khi trở về, khi trả lời câu hỏi của phóng viên Tuổi
Trẻ về việc Việt Nam đưa quân tới Campuchia, Sihanouk nói: “Vấn đề có hai mặt (deux aspects). Tôi biết ơn Việt Nam đã 
cứu tôi, gia đình tôi và nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng. Mặt khác, tôi lên án việc thực dân hóa Campuchia của 
Việt Nam. Thà chết vì tay Pol Pot còn hơn là nước không có độc lập”.
606
Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 2004.
607
Ngày 11-6-1993, Khmer Đỏ tuyên bố không thừa nhận kết quả bầu cử và kêu gọi ám sát sáu nhân vật thuộc Đảng Nhân 
dân Campuchia. Trong khi, ông Hun Sen tố cáo cuộc bầu cử do UNTAC tổ chức là gian lận. Đảng Nhân dân Campuchia 
trong thế bị loại ra khỏi chính quyền đã dựng lên “phong trào ly khai đòi tự trị” trong nhiều vùng. Hai đại biểu của Đảng là 
Sinsong và Chakkrapong từ chối nhận chức đại biểu và đứng ra lãnh đạo phong trào này. Lo sợ đất nước bị chia cắt và nội 
chiến tái phát, Shihanouk đề nghị công thức chia quyền 45% + 45% + 10%. Funcinpec phải chấp nhận vì thắng lợi của họ là 
nhờ ảnh hưởng của ông hoàng Sihanouk.
608
Một lần suýt bị các đồng chí của ông ép từ chức. Một lần bị đảo chính hụt bởi Bộ trưởng Nội vụ Sin Song có sự hậu 
thuẫn của Chea Sim (2-7-1994). Một lần bị đảo chính bởi Funcinpec va lực lượng Khmer Đỏ: cuộc đảo chính được thực 
hiện ngày 5-7-1997 khi Hun Sen đang ở Vũng Tàu và Ranaridth thì lánh ra nước ngoài; ngày 6-7-1997, một ngày sau khi 
Hun Sen trở về, ông đập tan cuộc đảo chính; bảy tướng của Funcinpec bị giết.


tải về 1.89 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   88   89   90   91   92   93   94   95   96




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương