Ban quản lý CÁc dự Án lâm nghiệP



tải về 3.22 Mb.
trang10/25
Chuyển đổi dữ liệu20.10.2017
Kích3.22 Mb.
#33829
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   25

3.1.2 Phân tách giới


  1. Trong số 321 người được hỏi có 165 người được phỏng vấn là nam giới (51%) và 156 người được phỏng vấn nữ (49%). Cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng phụ nữ trong khu vực dự án có nhận thức tốt về các vấn đề kinh tế-xã hội và tham gia rất tích cực vào các hoạt động trong cộng đồng địa phương, vị trí của người phụ nữ đã được thay đổi và nâng lên cao hơn. Trong những năm gần đây, do sự hỗ trợ của Hội phụ nữ, sự tham gia của họ đã tăng lên trong các cuộc họp cộng đồng. Phụ nữ địa phương, chủ động hơn trong việc tham gia ra quyết định trong cả các vấn đề nội bộ gia đình (chi tiêu và tiết kiệm cho gia đình, giáo dục và công việc của con cái) và các vấn đề xã hội của cộng đồng (thảo luận về lựa chọn kỹ thuật cho các công trình đề xuất).

3.1.3. Nghề nghiệp


  1. Cơ cấu nghề nghiệp của những người được phỏng vấn cho thấy 31,4% số người tham gia đã tham gia các hoạt động nông-lâm nghiệp và thủy sản, trong đó nông nghiệp có số lượng cao nhất (20,21%), tiếp theo là đánh bắt cá với 7,03% và sau đó là lâm nghiệp với 4,15% . Sau ngành nghề sản xuất chính, ngành nghề cao thứ hai là nghiên cứu/đi học (17,65%) và sau đó các ngành nghề bao gồm cả nhân viên/cán bộ, công nhân, thương mại/dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp và nội trợ chiếm khoảng 5% hoặc ít hơn.

Bảng 16: Nghề nghiệp của các thành viên trong các hộ gia đình được phỏng vấn (người)

 

Quảng Ninh

Hải Phòng

Thanh Hóa

Nghệ An

Hà Tĩnh

Quảng Bình

Quảng Trị

TT Huế

Tổng

%

Nông nghiệp

30

7

7

20

21

67

66

35

253

20,21

Lâm nghiệp

24

4

5

2

6

4

2

5

52

4,15

Ngư nghiệp

16

8

7

3

13

17

16

8

88

7,03

Thương mại, dịch vụ

9

5

14

12

3

3

6

7

59

4,71

Nhân viên VP

2

6

7

2

1

11

18

7

54

4,31

Công nhân

3

6

4

4

3

8

19

18

65

5,19

Làm thuê

5

14

18

21

9

25

11

21

124

9,90

Học sinh, sinh viên

7

12

22

32

17

29

55

47

221

17,65

Về hưu, già yếu

3

23

14

13

12

2

6

10

83

6,63

Không nghề, không nghiệp

7

26

7

24

7

10

14

17

112

8,95

Dưới 6 tuổi

5

10

11

15

8

13

12

7

81

6,47

Nghề khác

5

3

4

8

23

3

2

12

60

4,79

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. Phát triển rừng ở khu vực ven biển phải đi kèm với nỗ lực phát triển cộng đồng của cư dân ven biển. Phát triển của các mô hình nuôi trồng bền vững và thích nghi với biến đổi khí hậu; giao đất rừng dài hạn và hợp đồng cung cấp ưu đãi cho sự tham gia của cộng đồng; tạo điều kiện thị trường để tối đa hóa lợi ích của các dịch vụ hệ sinh thái rừng (nghĩa là thông qua sản xuất bền vững lâm-thủy sản và nông-lâm sản); hỗ trợ sự hợp tác giữa các cộng đồng và các thị trường thông qua các mô hình phát triển hợp tác xã; và phát triển chuỗi giá trị minh bạch và mô hình kinh doanh toàn diện để tăng mức thu nhập của các hộ gia đình trong vùng dự án.

3.1.4. Nghèo đói


  1. Theo số liệu khảo sát, 47,3% số hộ gia đình được phân loại là hộ cận nghèo hoặc nghèo, trong khi 41,1% hộ gia đình được phân loại là trung bình và 11,5% hộ gia đình được phân loại là khá giả.

Bảng 17: Tình hình kinh tế của các hộ gia đình (hộ)

Tỉnh/Thành phố

Tình hình kinh tế của các hộ được phỏng vấn

Khá giả

Trung bình

Cận nghèo

Nghèo

Quảng Ninh

3

24

1

4

Hải Phòng

4

19

5

6

Thanh Hóa

3

11

11

4

Nghệ An

2

16

5

21

Hà Tĩnh

0

17

3

17

Quảng Bình

5

5

17

20

Quảng Trị

10

25

6

9

Thừa Thiên Huế

10

15

7

16

Tổng trên toàn vùng

37

132

55

97

Tỷ lệ %

11,5

41,1

17,1

30,2

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. Các kết quả từ 19 hộ dân tộc thiểu số được phỏng vấn, 12 hộ gia đình được phân loại là có tình trạng kinh tế tốt hoặc trung bình và 7 hộ gia đình dân tộc được phân loại là nghèo hoặc cận nghèo.

Bảng 18: Tình hình kinh tế của các hộ dân tộc thiểu số (hộ)

TT

Dân tộc

Tình hình kinh tế của các hộ được phỏng vấn

Khá giả

Trung bình

Cận nghèo

Nghèo

1

Dân tộc Kinh

36

121

52

92

2

Dân tộc thiểu số

1

11

3

4

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016


Hình 6. Thu nhập bình quân đầu người của các hộ được khảo sát (1000 VND)


3.1.5. Thu nhập và chi tiêu


a. Thu nhập

  1. Thông thường rất khó để có được con số chính xác về thu nhập. Tuy nhiên, qua quan sát thực tế và phỏng vấn chi tiết về điều kiện sống hộ gia đình, các điều tra viên đã thu thập thông tin khá chi tiết về các nguồn thu nhập hộ gia đình của người được phỏng vấn. Kết quả khảo sát cho thấy thu nhập trung bình của các hộ gia đình tham gia là 1.902.600 đồng/tháng, thấp hơn mức trung bình quốc gia năm 2015. Trong số các tỉnh dự án, các hộ gia đình tại các tỉnh Hà Tĩnh và Thanh Hóa có thu nhập thấp nhất (khoảng 1,6 triệu đồng/tháng), trong khi thu nhập cho các hộ gia đình tại các tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng là hơn 2,3 triệu đồng mỗi tháng.

b. Nguồn thu nhập


  1. Hình 7. Các nguồn thu nhập theo nông lâm nghiệp và thuỷ sản, phi NLN và thuỷ sản, và lao động và tiền lương


    Các nguồn thu nhập của các hộ gia đình được khảo sát rất đa dạng và phụ thuộc vào các tính năng và lợi thế của từng tỉnh. Khu vực khảo sát là một khu vực ven biển, thu nhập được chia đều giữa nông-lâm nghiệp và ngư nghiệp, phi nông lâm nghiệp và thủy sản và doanh nghiệp và tiền lương, tiền công.

  2. Nhìn chung, nông - lâm nghiệp và thủy sản là ngành chủ chốt trong nền kinh tế của khu vực dự án. Như trong bảng dưới đây cho thấy nông nghiệp là nguồn thu nhập chủ yếu (56,06%), tiếp theo là thủy sản (31,20%) và sau đó là ngành lâm nghiệp (12,74%). Thu nhập từ các ngành lâm nghiệp nói chung là thấp hơn so với nông nghiệp hoặc nghề cá vì diện tích rừng được quản lý bởi các hộ gia đình thường nhỏ và người dân sống dọc theo bờ biển không thường sử dụng đất lâm nghiệp cho các mục đích sản xuất.

Bảng 19: Cơ cấu thu nhập của các hộ được khảo sát (%)

Tỉnh

Cơ cấu (%)

Nông nghiệp

Lâm nghiệp

Thuỷ sản

Quảng Ninh

50,6

21,6

27,8

Hải Phòng

65,2

10,5

24,3

Thanh Hóa

58,1

13,6

28,3

Nghệ An

53,4

12,2

34,4

Hà Tĩnh

61,6

9,2

29,2

Quảng Bình

51,8

12,8

35,4

Quảng Trị

52,9

9,4

37,7

Thừa Thiên Huế

54,9

12,6

32,5

Average

56,06

12,74

31,20

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. Hơn nữa, đối với rừng trên đất cát thu nhập trực tiếp thấp do năng suất trên các loại đất này thấp. Tuy nhiên, các hộ dân sinh sống tại các khu vực này đã lưu ý rằng, khi rừng phòng hộ được thiết lập, năng suất nông nghiệp (như trồng lúa, khoai lang, bắp, vv) cao hơn và ổn định hơn các khu vực không có rừng phòng hộ. Các khu rừng bảo vệ chống cát bay, cát chảy, gió khô nóng và muối từ biển.

  2. Điều này cho thấy tầm quan trọng của rừng để gia tăng và ổn định phát triển kinh tế hộ gia đình. Do đó, 100% hộ gia đình được phỏng vấn đang mong đợi dự án FMCR được thực hiện để mọi người có thể hưởng lợi trực tiếp từ dự án thông qua trồng rừng, chăm sóc và giao đất, khoán dài hạn (20 năm).

  3. Đối với các khu vực rừng ngập mặn, rừng ngập mặn thực hiện một vai trò quan trọng trong việc sản xuất các hệ sinh thái đất ngập nước năng động cao, cung cấp phần lớn kinh tế-xã hội được xác định như nuôi trồng thủy sản ở các xã Vạn Ninh và Đồng Rui. Theo các dữ liệu sau khi tham khảo ý kiến ​​của các nhà lãnh đạo cấp huyện và cấp xã, cũng như phỏng vấn người dân sống xung quanh khu rừng ngập mặn, các hoạt động đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản dưới tán rừng là sinh kế chính của họ. Đặc biệt, tại xã Đồng Rúi, huyện Tiên Yên, có khoảng 60-70% người dân gắn bó với rừng ngập mặn. Người lớn tận dụng thời gian rảnh rỗi, nhiều phụ nữ bắt hải sản quanh năm. Vào mùa hè hoặc sau giờ học, nhiều trẻ em giúp cha mẹ mình đánh bắt hải sản, thậm chí có những gia đình có 4 người đánh bắt hải sản. Tính trung bình, người dân xã Đồng Rui có thể kiếm được 150,000 - 200,000 VND/ngày từ việc đánh bắt thủy sản dưới tán rừng ngập mặn. Hầu hết các hộ dân xóa đói giảm nghèo bằng cách thúc đẩy tiềm năng của rừng ngập mặn và cho đến nay trên địa bàn xã, 70-80% người dân có nhà ở cao tầng, thu nhập ổn định từ 3-4 triệu đồng/tháng. Không chỉ ở Đồng Rúi, kết quả tham vấn tại xã Vạn Ninh, huyện Móng Cái cũng cho thấy, thu nhập trung bình từ các nguồn tài nguyên rừng ngập mặn là 200,000 - 250,000 VND/ngày; tương đương với 1,5 - 2 triệu đồng/tháng. Công việc đánh bắt thu hút sinh viên ngoài giờ học. Các hoạt động chính là bắt ngao, sá sùng, cá giò, nuôi cua trong rừng ngập mặn. Lao động chủ yếu là phụ nữ trong gia đình. Tính trung bình, thời gian đánh bắt là 10-15 ngày/tháng (tùy thuộc vào thời gian nấu ăn); làm việc trong nửa ngày (từ 5h sáng đến 11h trưa). Qua đó, lợi ích của người dân sống dọc bờ biển với thu nhập nhất định dưới tán rừng là rõ ràng và các dự án giao rừng cho người dân quản lý và bảo vệ lâu dài và sử dụng bền vững các giá trị hệ sinh thái rừng là phù hợp với điều kiện địa phương.

c. Chi tiêu

  1. Chi tiêu trung bình hộ gia đình mỗi tháng khoảng từ 2.000.000 - 2,800,000 VND và giá trị trung bình là 2,400,000 VND (chi tiêu này không bao gồm các gia đình có con đang học các trường đại học hoặc cao đẳng tại các thành phố như Hà Nội hay Hồ Chí Minh). Nhìn chung, hầu hết các gia đình có con em đang theo học trung học chuyên nghiệp đều phải vay vốn.

  2. Mặc dù có một khoảng cách nhỏ giữa thu nhập (thu nhập bình quân hộ gia đình là 1,902,600 VND mỗi tháng) và chi phí (từ 2.000.000 - 2,800,000 VND) trong các hộ gia đình được phỏng vấn, thực tế kết quả của cuộc khảo sát cho thấy mức sống của người dân trong vùng dự án được tăng lên, thể hiện qua các đồ dùng được sử dụng trong các hộ gia đình như ti vi, tủ lạnh, xe máy, bếp gas, vv, cho thấy rằng các hộ gia đình đang ngày càng quan tâm đến niềm vui và sức khỏe của họ.

  3. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp vẫn là ngành kinh tế trọng điểm để tạo ra công ăn việc làm cho người dân địa phương, nhưng năng suất vẫn còn hạn chế. Gần đây, sự kiện ô nhiễm môi trường của Formosa (công ty Đài Loan) trên biển dọc bờ biển của tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế là một trong những nguyên nhân gây ra thiệt hại đáng kể về sinh kế cho cư dân ven biển ở các tỉnh này. Do đó, dự án sẽ cần tiếp cận các biến đổi sinh kế nông thôn bằng cách hỗ trợ người dân địa phương bảo vệ và quản lý bền vững rừng ven biển.

3.1.6. Giáo dục


  1. Khoảng 91% dân số trong vùng dự án đã nhận được giáo dục từ tiểu học đến đại học. Sinh viên tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp và trung học cơ sở chiếm hơn 68% dân số của dự án. Tỷ lệ dân số không đi học trong toàn bộ khu vực dự án là 5%. Tỷ lệ học sinh bỏ học cao nhất là ở tỉnh Quảng Trị (10%) và Thừa Thiên Huế (15%). Ba lý do chính là: chi phí, cần phải làm việc ở nhà và không thích đi học.

  2. Tỷ lệ không đi học ở các tỉnh dự án là cao hơn so với trung bình toàn quốc (Tỷ lệ trung bình toàn quốc không đi học là 1,78% theo tuyên bố của Bộ Giáo dục và Đào tạo (2). Tỷ lệ này không có sự khác biệt lớn giữa các tỉnh dự án, trừ trường hợp của tỉnh Quảng Bình nơi có một số lượng lớn trước tuổi đi học (18,5%).

  3. Nhìn chung, trình độ học vấn của người dân trong vùng dự án là tương đối cao. Các cuộc khảo sát và thảo luận nhóm với người dân địa phương cho thấy khả năng của cộng đồng tham gia và đóng góp ý kiến ​​cho dự án. Do đó, trong quá trình phổ biến các thông tin liên quan đến dự án cũng như tham khảo ý kiến ​​của công chúng về các phương án kỹ thuật đề xuất, cách tiếp cận đúng cần được chuẩn bị để cộng đồng hiểu được bản chất và ý nghĩa của dự án cũng như tham gia và hỗ trợ dự án.

Bảng 20: Tỷ lệ trẻ ở tuổi đến trường không được đi học (%)

Tỉnh/Thành phố

Trẻ ở tuổi đến trường không được đi học

Tỷ lệ % trên tổng số mẫu

Dân tộc

Kinh

Dân tộc thiểu số

Quảng Ninh

0

0

0

0

Hải Phòng

0

0

0

0

Thanh Hóa

0

0

0

0

Nghệ An

2

5%

2

0

Hà Tĩnh

2

5%

2

0

Quảng Bình

1

2%

0

1

Quảng Trị

5

10%

2

3

Thừa Thiên Huế

7

15%

7

0

Tổng

17

5%

13

4

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. Trong 17 trẻ ở tuổi đến trường không được đi học thì có 13 trẻ là người Kinh và 4 là các dân tộc thiểu số khác.

Bảng 21: Lý do không đi học tiểu học và cấp hai (học sinh)

Tỉnh/Thành phố

Lý do bỏ học

Gia đình neo người, phải ở nhà làm

Chi phí học quá tốn kém

Bỏ học vì học kém

Trường học quá xa

Khó đi lại

Quảng Ninh

0

0

0

0

0

Hải Phòng

0

0

0

0

0

Thanh Hóa

0

0

0

0

0

Nghệ An

0

2

0

0

0

Hà Tĩnh

0

2

0

0

0

Quảng Bình

1

0

0

0

0

Quảng Trị

0

5

0

0

0

Thừa Thiên Huế

1

4

2

0

0

Tổng

2

13

2

0

0

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

3.1.7. Sức khoẻ


  1. Theo kết quả điều tra, có 252 hộ gia đình (chiếm 80,8%) được phỏng vấn đã khẳng định rằng dịch vụ y tế ngày càng tốt lên trong những năm vừa qua. Có 3 lý do chính có tác động tiêu cực đối với tình hình sức khỏe hiện với mức độ từ cao đến thấp là: (1) nguồn nước ô nhiễm, (2) ô nhiễm khu vực ở, và (3) mất an ninh lương thực. Các bệnh thường gặp ở 8 tỉnh dự án là tiêu chảy, cảm lạnh, sốt, sốt xuất huyết, bệnh tay-chân-miệng, đau mắt đỏ, với hàng trăm người dân trong vùng dự án bị lây nhiễm mỗi năm. Nguyên nhân chính vẫn do động vật ký sinh, sinh vật gây bệnh phát triển trong nước bị ô nhiễm, truyền sang người thông qua ăn uống và sinh hoạt hàng ngày.

  2. Bên cạnh đó, không có sự khác biệt lớn về các chỉ số sức khoẻ giữa các nhóm thu nhập giàu và nghèo và theo thành phần dân tộc. Tỷ lệ có bảo hiểm y tế các loại trong các hộ gia đình được khảo sát là khá cao, chiếm trên 85,3%. Đáng chú ý là tất cả các hộ dân tộc thiểu số được phỏng vấn đều có BHYT

3.1.8. Cấp nước


  1. Nguồn nước tắm giặt: Đa số các hộ vùng dự án được khảo sát đều sử dụng nguồn nước tắm giặt sinh hoạt là nước giếng đào/giếng khoan (78,85%), tỷ lệ sử dụng các nguồn nước khác là thấp: 5,13% dùng nước ao hồ-sông suối; 5,77% dùng vòi nước máy riêng, 4,17% dùng nguồn nước công cộng, 3,21% dùng nguồn nước khác và 5,77% dùng nước mưa. Thật không may, 94,56% nguồn nước dùng cho sinh hoạt tắm giặt được xem là không hợp vệ sinh.

Bảng 22: Dịch vụ cung cấp nước cho sinh hoạt tắm giặt

TT

Tỉnh/Thành phố

Vòi nước máy riêng trong gia đình

Vòi nước máy công cộng

Giếng đào, giếng khoan

Bể nước mưa

Ao hồ, sông suối

Nguồn khác

1

Quảng Ninh

2

0

30

0

0

0

2

Hải Phòng

5

4

24

1

0

0

3

Thanh Hóa

0

0

29

0

0

0

4

Nghệ An

2

2

28

12

0

0

5

Hà Tĩnh

1

0

33

3

0

0

6

Quảng Bình

0

0

46

0

0

1

7

Quảng Trị

2

0

46

2

0

0

8

Thừa Thiên Huế

6

7

10

0

16

9

Tổng cộng (hộ)

18

13

246

18

16

10

Tỷ lệ %

5.77

4.17

78.85

5.77

5.13

3.21

Nhóm DTTS



















 

Kinh (hộ)

17

13

229

17

16

10

 

DTTS (hộ)

1

0

17

1

0

0

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. So với nước sinh hoạt tắm giặt, nguồn nước dùng cho ăn uống có khó khăn hơn thể hiện ở các chỉ số cụ thể sau: 56,4% dùng nước giếng đào/giếng khoan, 30,1% dùng nước mưa, 5,8% dùng nước máy, 2,6% dùng nước ao hồ- sông suối, 4,5% dùng nước công cộng, 3,5% dùng nước nguồn khác. Nếu quan niệm về nước sạch một cách tương đối ở nông thôn, như vậy các nguồn được tính bao gồm: nước máy, nước giếng khoan/đào, nước mưa thì mới có 92,3% người dân ở vùng dự án được tương đối đảm bảo về nguồn nước dùng cho ăn uống. Như vậy, ở các vùng dự án được khảo sát, nguồn nước dùng cho ăn uống và sinh hoạt đã đạt được mục tiêu về nước sạch nông thôn trong Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn đến năm 2020.

Bảng 23: Nguồn nước dùng cho ăn uống

TT

Tỉnh/Thành phố

Vòi nước máy riêng trong gia đình

Vòi nước máy công cộng

Giếng đào, giếng khoan

Bể nước mưa

Ao hồ, sông suối

Nguồn khác

1

Quảng Ninh

2

0

15

15

0

0

2

Hải Phòng

4

4

13

13

0

0

3

Thanh Hóa

0

0

24

1

4

0

4

Nghệ An

2

2

12

27

0

1

5

Hà Tĩnh

2

1

11

23

0

0

6

Quảng Bình

0

0

41

5

0

1

7

Quảng Trị

2

0

46

2

0

0

8

Thừa Thiên Huế

6

7

14

8

4

9

Tổng cộng

18

14

176

94

8

11

Tỷ lệ

5.8

4.5

56.4

30.1

2.6

3.5

Theo nhóm dân tộc



















 

Kinh (hộ)

17

14

164

92

4

11

 

DTTS (hộ)

1

0

12

3

3

0

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. Tương tự, việc sử dụng nước sạch cho ăn uống của các hộ dân tộc thiểu số cũng đạt tỉ lệ cao. Cụ thể, 16 hộ dân tộc thiểu số trên tổng số 19 hộ được phỏng vấn sử dụng nước sạch hợp vệ sinh để nấu ăn.

3.1.9. Vệ sinh


  1. Từ số liệu điều tra, khảo sát cho thấy tại các vùng được khảo sát có tới 94,9% hộ gia đình dùng hố xí hợp vệ sinh, trong đó có 58% hộ có nhà vệ sinh tự hoại/bán tự hoại, 25% hộ dùng nhà vệ sinh 2 ngăn, và 11,9% hộ gia đình dùng nhà vệ sinh đơn giản (đào hố trong vườn, bắc cầu trên ao hồ, sông suối), và có 3,8% hộ gia đình chưa có nhà vệ sinh. Địa phương có tỷ lệ nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn (Nhà vệ sinh tự hoại/bán tự hoại và Nhà vệ sinh hai ngăn) có tỷ lệ cao hơn số liệu điều tra là Hải Phòng đạt 99,9% và Thanh Hóa đạt 98,7%. Các tỉnh có tỷ lệ đạt thấp hơn kết quả điều tra là Quảng Ninh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa thiên Huế với tỉ lệ lần lượt tương ứng 91,8%, 88,7%, 89,27% và 92,5% (Niên giám thống kê các tỉnh năm 2014). Tỷ lệ các hộ không nhà vệ sinh thấp nhất là Nghệ An (41,91%) và Hà Tĩnh (66,1%).

Bảng 24: Các loại nhà vệ sinh (hộ)

TT

Tỉnh/Thành phố

Không có nhà cầu riêng

Nhà cầu tự hoại và bán tự hoại

Nhà cầu 2 ngăn

Nhà cầu đơn giản (đào, một ngăn)

Nhà cầu trên ao, sông suối

Loại khác

1

Quảng Ninh

0

22

4

6

0

0

2

Hải Phòng

2

31

0

0

1

0

3

Thanh Hóa

3

11

12

0

3

0

4

Nghệ An

3

18

12

8

0

3

5

Hà Tĩnh

2

16

15

0

4

0

6

Quảng Bình

0

14

32

1

0

0

7

Quảng Trị

2

33

2

12

1

0

8

Thừa Thiên Huế

0

36

1

10

0

1

Tổng cộng

12

181

78

37

9

4

Tỷ lệ %

3.8

58.0

25.0

11.9

2.9

1.3

Theo dân tộc

 

 

 

 

 

 

 

Kinh

9

176

75

34

5

3

 

DTTS

3

5

3

3

4

1

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

3.1.10. Một số vấn đề về sinh kế và an sinh xã hội


  1. Vay mượn: Vay mượn là thực trạng thường xuyên có tính phổ biến trong hoạt động sống của các cộng đồng dân cư trong nông thôn. Khảo sát dân cư vùng dự án cho thấy một thực tế về tình hình vay mượn. Đa số hộ gia đình được phỏng vấn hiện đang có vay nợ, chiếm 71,5% tổng số người trả lời, trong đó Quảng Trị có tỷ lệ số hộ vay cao nhất, xấp xỉ 89%. Về quy mô vay nợ, có đến 85,6% số hộ dân chỉ vay với số tiền nhỏ hơn 60 triệu đồng. Lý do các hộ vay với số tiền nhỏ hơn 60 triệu đồng chủ yếu là vay cho con, cháu ăn học. Các hộ gia đình thường không đưa ra các khoản vay lớn hơn do điều kiện sản xuất không ổn định và lợi nhuận ít ỏi thu được từ sản xuất nông nghiệp với khả năng thấp để hoàn trả vốn và lãi tiền vay.

  2. Ngân hàng chính sách xã hội là đơn vị cung cấp nhiều nhất lượng vốn đang vay bởi các hộ dân, chiếm đến 75% lượng vốn các hộ đang vay. Tiếp đến là Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT, cung cấp khoảng 20% lượng vốn mà các hộ dân đang vay, 5% lượng vốn còn lại các hộ vay chủ yếu từ các Quỹ tín dụng do hội phụ nữ và hội nông dân đang quản lý. Lãi suất vay vốn của ngân hàng Ngân hàng chính sách – xã hội là thấp nhất từ 0,65% đến 0,8% trên 1 tháng (tùy vào tình trạng kinh tế-xã hội của đối tượng vay). Các hộ dân thường vay trong khoảng thời gian 3 năm để đầu tư cho chăn nuôi (mua bò, heo, dê) hoặc kinh doanh buôn bán.

  3. An sinh xã hội: kết quả điều tra cho thấy người dân chủ yếu dựa vào hỗ trợ của anh em ruột thịt, thứ đến là từ bố mẹ hai bên, con cái, chính quyền/đoàn thể; sự hỗ trợ từ bạn bè và hàng xóm là không đáng kể khi chỉ chiếm tỉ lệ 1 - 2%.

  4. Người kinh có tỷ lệ không có ai giúp đỡ cao gấp 4 lần so với các dân tộc thiểu số khác. Tỷ lệ hỗ trợ vật chất cao nhất của người Kinh là anh chị em ruột thịt, họ hàng nội ngoại. Trong khi đó, tỷ lệ hỗ trợ vật chất ở các dân tộc thiểu số chủ yếu là chính quyền đoàn thể. Khảo sát định tính cho thấy, trong thực tế, sự trợ giúp về vật chất đối với bà con DTTS là không đáng kể, một mặt các cộng đồng huyết thống người dân tộc là ít kết dính hơn người kinh, vả lại họ sinh sống cũng khá phân tán. Mặt khác, cũng là điều quan trọng nhất là, bà con ruột thịt, họ hàng người DTTS cũng rất khó khăn nên ít trợ giúp đáng kể cho nhau về vật chất.

  5. Đa số người dân được phỏng vấn đều có ý định trước mắt đầu tư thêm cho chăn nuôi, trồng trọt và đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản (trên 65%) tiếp theo là: tìm thêm nghề mới, đầu tư thêm cho buôn bán/dịch vụ, học thêm nghề mới, thay đổi chỗ ở và thay đổi việc làm. Rõ ràng là người dân vùng dự án đang có nhiều suy tính và ý tưởng về đời sống và sinh kế cho gia đình trong một tương lai gần. Tại các khu vực nông thôn, tỷ lệ cao nhất về sinh kế là đầu tư thêm cho sản xuất nông nghiệp, bộ phận dân cư vốn đã có nghề buôn bán/dịch vụ cũng có dự định đầu tư thêm để mong tăng thêm thu nhập gia đình. Do đó, việc tăng cường năng lực cho người dân về trồng rừng, phát triển các loại hình sinh kế dưới tán rừng là việc làm hết sức cần thiết cho bà còn vùng dự án

3.2. Các nhóm dễ bị tổn thương


  1. Các hộ gia đình dễ bị tổn thương (các hộ nghèo, hộ do phụ nữ làm chủ hộ có người phụ thuộc, hộ có người tàn tật, người dân vô gia cư, người dân tộc thiểu số, gia đình chính sách, gia đình có người già không làm việc được, và người dân có khả năng lao động hạn chế) có khả năng ít hơn để khôi phục lại điều kiện sống, sinh kế, và mức thu nhập của họ. Vì vậy, để đảm bảo rằng những người dễ bị tổn thương sẽ được nhận đầy đủ lợi ích từ dự án và/hoặc để tránh những tác động bất lợi cho các nhóm dễ bị tổn thương trong quá trình thực hiện dự án, cần khuyến khích họ tham gia vào tất cả các chu trình dự án, đồng thời phải tiến hành đào tạo hội thảo và thiết lập các chương trình phục hồi thu nhập (s) cho phép các cộng đồng địa phương, đặc biệt là nhóm dễ bị tổn thương không chỉ biết về các thông tin dự án cơ bản, tham gia vào việc chuẩn bị và thực hiện dự án, để họ có thể hưởng lợi trực tiếp từ dự án, mà còn cải thiện sinh kế và điều kiện cuộc sống của họ.

3.3. Giới


  1. Phần ghi chú về giới được thực hiện sử dụng số liệu điều tra và số liệu thứ cấp. Phần này được là phụ lục của báo cáo này.

3.4. Dân tộc thiểu số (EM)


  1. Tại 8 tỉnh dự án, người dân tộc thiểu số phần lớn sinh sống chủ yếu tại các huyện/xã vùng núi cao. Theo số liệu thống kê, các xã thuộc dự án đều nằm ở vùng ven biển, tỷ lệ dân tộc thiểu số không đáng kể với tổng số 22.088 người (chủ yếu là người Thái, Tày, Dao), chiếm 0,61% dân số vùng dự án. Trong số này, người DTTS chủ yếu tập trung ở các huyện ven biển của tỉnh Quảng Ninh và Thanh Hóa. Quảng Ninh bao gồm huyện Tiên Yên, Vân Đồn, Hải Hà và Móng Cái với khoảng 21.685 người và Thanh Hóa bao gồm huyện Tĩnh Gia và Hoằng Hóa với 186 người. Kết quả từ đánh giá xã hội cho thấy các cộng đồng DTTS sinh sống ở các xã ven biển của các tỉnh dự án có truyền thống di cư từ các vùng khác nhau và định cư tại các xã ven biển từ những năm 1970-80.. Họ sử dụng cả hai thứ tiếng (tiếng Việt và ngôn ngữ riêng của họ) và duy trì các đặc điểm văn hoá và xã hội riêng của họ

Bảng 25: Người dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh và Thanh Hoá, năm 2015 (người)

Tỉnh/Huyện

Dân số

Quảng Ninh

21.685

Tiên Yên

10.898

Vân Đồn

3.456

Hải Hà

5.193

Móng Cái

2.138

Thanh Hóa

186

Tĩnh Gia

126

Hoằng Hóa

60

Nguồn: Kết quả khảo sát thực địa tháng 8, 9/2016

  1. Thông tin về các nhóm dân tộc thiểu số được tóm tắt như sau:

  1. Về quy mô hộ gia đình, số liệu khảo sát cho biết quy mô hộ gia đình của người dân tộc thiểu số nhiều hơn gia đình người Kinh. quy mô nhân khẩu trung bình của gia đình người Kinh là 3,79 người so với 4,48 người của các hộ dân tộc thiểu số.

  2. Về nghề nghiệp, tỷ lệ hộ có nghề nông-lâm-ngư nghiệp ở dân tộc Kinh là thấp hơn so với các dân tộc thiểu số. Ngược lại, tỷ lệ hộ có nghề phi nông nghiệp ở dân tộc Kinh là cao hơn các dân tộc thiểu số

  3. Về học vấn, các hộ dân tộc thiểu số có tỷ lệ mù chữ cao hơn các hộ dân tộc Kinh và tỷ lệ trẻ không đi học cũng cao hơn ; tương ứng với 76,5% so với 23,5% tổng số trẻ không được đến trường.

Bảng 26: Tỷ lệ trẻ em DTTS không được đến trường

Tỉnh/Thành phố

Trẻ ở độ tuổi đi học không được đến trường

Tỷ lệ phần trăm trong tổng mẫu

Dân tộc

Không phải người DTTS

DTTS

Trẻ không được đến trường

17

5%

13

4



  1. Về vệ sinh, tỷ lệ các hộ gia đình dân tộc Kinh không có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn thấp hơn so với các hộ dân tộc thiểu số (Bảng 23).

  2. Mức sống, trong tổng số 19 hộ dân tộc thiểu số được phỏng vấn thì có 12 hộ có mức sống khá và trung bình, và 7 hộ ở nhóm nghèo và cận nghèo

  1. Tỷ lệ phần trăm các hộ dân tộc thiểu số có từ 5 người trở lên là 45,1% và số lao động không có kỹ năng cao hơn. Ví dụ, theo đánh giá của lãnh đạo xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh, tại xã của họ có hộ DTTS đăng ký một thành viên có trình độ trung cấp trở lên. Quá trình rà soát đã xác nhận sự hiện diện của người DTTS trong vùng dự án và khởi động chính sách OP/PB 4.10, xác định đòi hỏi phải chuẩn bị một EMPF để hướng dẫn cách chuẩn bị EMDP trong quá trình thực hiện dự án khi xác định được các tiểu dự án. Mục tiêu của EMPF là đưa ra hướng dẫn về chuẩn bị EMDP cho các tỉnh Quảng Ninh và Thanh Hóa, để đảm bảo rằng (a) những người DTTS bị ảnh hưởng nhận được lợi ích kinh tế xã hội phù hợp với văn hóa; và (b) nếu có tác động bất lợi tới người DTTS, thì tác động phải được xác định, tránh, giảm thiểu, giảm nhẹ, hoặc bồi thường và (c) tham vấn trên nguyên tắc tự nguyện, được thông báo trước và cung cấp đầy đủ thông tin phải được thực hiện

3.5. Quyền sử dụng rừng và đất lâm nghiệp ở các xã dự án

3.5.1. Hiện trạng rừng ở các tỉnh dự án


  1. Trong 257 xã ở 47 huyện, tổng diện tích đất lâm nghiệp là 235.009 ha, trong đó 161.102 ha rừng, chiếm 69% tổng diện tích. Tổng diện tích đất không có rừng và đất chuyên dùng khác là 73.907 ha chiếm 31% tổng diện tích. Trong khu vực dự án, có 72.080 ha đất rừng được quản lý chiếm 31% tổng diện tích đất lâm nghiệp ở 257 xã. Trong đó, 50.277 ha sẽ thực hiện các hoạt động để tăng cường quản lý và bảo vệ rừng, và 11.803 ha diện tích rừng rất nghèo sẽ thực hiện các hoạt động trồng làm giàu rừng.

Bảng 27: Hiện trạng đất lâm nghiệp theo 3 loại rừng trong các xã dự án

Tỉnh

Diện tích thuộc quy hoạch 3 loại rừng

Diện tích nằm ngoài quy hoạch 3 loại rừng

Tổng diện tích đất lâm nghiệp

Tổng

Rừng đặc dụng

Rừng phòng hộ

Rừng sản xuất

Quảng Ninh

91.768

3.187

32.065

56.516

2.539

94.307

Hải Phòng

9.270

1.205

8.065




5

9.275

Thanh Hóa

4.167

135

2.093

1.939

542

4.709

Nghệ An

13.108




7.452

5.655

2.026

15.133

Hà Tĩnh

30.312

8.019

14.588

7.705




30.312

Quảng Bình

11.726




2.826

8.901

15.538

27.264

Quảng Trị

14.852




10.280

4.572

2.263

17.116

Thừa Thiên Huế

31.584

5.447

11.803

14.334

5.309

36.893

Tổng các xã dự án

206.787

17.993

89.172

99.622

28.222

235.009

Tổng 8 tỉnh DA

3.912.774

645.245

1.191.544

2.075.985

200.963

4.113.737

Nguồn: Dữ liệu khảo sát của FIPI, năm 2016

3.5.2. Quyền sử dụng đất lâm nghiệp trong các xã dự án


  1. Diện tích đất lâm nghiệp (72.080 ha) sẽ được đưa vào các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng của dự án, trong đó diện tích rừng đặc dụng là 134 ha; rừng phòng hộ là 71.016 ha; diện tích không nằm trong quy hoạch ba loại rừng là 929 ha. (Tại sao ???) 98,7% diện tích đất lâm nghiệp sẽ được đưa vào dự án đối với rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Những loại rừng đã được ưu tiên quản lý và thiết lập bằng ngân sách Nhà nước (Nghị định 119/2016/NĐ-CP). Điều này sẽ làm tăng tính bền vững của dự án.

Bảng 28: Các đơn vị quản lý rừng

TT

Đơn vị quản lý

Diện tích (ha)

Tỷ lệ %




Tổng

72.080

100,00

1

Ban quản lý rừng đặc dụng

134

0,6

2

Ban quản lý rừng phòng hộ

28.783

39,7

3

Công ty lâm nghiệp

904

1,2

4

Doanh nghiệp tư nhân

274

0,40

5

Các đơn vị vũ trang/quân đội

218

0,30

6

Uỷ ban nhân dân xã

36.199

50,00

7

Nhóm hộ gia đình, cộng đồng

848

1,17

8

Hộ gia đình và cá nhân

4.318

6,00

9

Các nhóm thanh niên tình nguyện và hợp tác xã nông nghiệp khác

401

0,60

Nguồn: Số liệu khảo sát của FIPI, năm 2016

  1. Trong vùng dự án, rừng và rừng ven biển chủ yếu do Ủy ban nhân dân xã (CPC) quản lý. Thông qua UBND xã, đất lâm nghiệp được giao cho các hộ gia đình, các nhóm cộng đồng hoặc cho cán bộ của Mặt trận tổ quốc, Hội Thanh niên, Hội Nông dân (Hội phụ nữ thì thế nào???) hoặc các cán bộ biên phòng và an ninh xã. Toàn bộ 72,080 ha đang được quản lý bởi các đơn vị công.

  2. Trong số các chủ thể hiện đang quản lý 72.080 ha đất lâm nghiệp, có 134 ha (0,6%) thuộc Ban quản lý rừng đặc dụng (BQLRĐD); 28.783 ha (39,7%) thuộc Ban quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH); 904 ha (1,2%) thuộc các công ty lâm nghiệp; 274 ha (0,4%) thuộc các doanh nghiệp tư nhân; 218 ha (0,3%) thuộc các đơn vị vũ trang; 36.199 ha (50,0%) thuộc UBND các xã; 848 ha (1,2%) thuộc các nhóm hộ hay các cộng đồng; 4.318 ha (6,0%) thuộc các hộ gia đình và cá nhân; 401 ha (0,6%) thuộc các đơn vị/tổ chức khác (như tổng đội thanh niên xung phong hoặc hợp tác xã nông nghiệp).

  3. Các BQLRPH và UBND các xã hiện đang quản lý 89,7% tổng diện tích đất lâm nghiệp được đề xuất tham gia dự án. Dự kiến, những diện tích đất lâm nghiệp này sẽ được giao khoán cho các nhóm cộng đồng ở giai đoạn sau. Điều này sẽ giúp tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng ven biển, đồng thời góp phần làm tăng tính bền vững của dự án sau khi dự án kết thúc.

Bảng 29: Thống kê sơ bộ các hộ dân địa phương xen lấn vào khu vực rừng được bảo vệ

Stt

Hoạt động chính

Diện tích dự kiến (ha)

Số hộ dân có hoạt động xen lấn

Diện tích đất dự kiến bị xen lấn để sản xuất nông nghiệp

Lưu ý

1

Bảo vệ rừng ngập mặn

15.784

0

0

Ở một số nơi, người dân địa phương xen lấn vào các khu vực rừng suy giảm chưa có rừng để canh tác nông nghiệp

2

Bảo vệ rừng trên cạn ven biển

31.400

0

0

3

Phục hồi rừng ngập mặn

6.532

0

0

4

Phục hồi rừng trên cạn ven biển

6.894

135

27.000

5

Trồng rừng ngập mặn

5.791

0

0

6

Trồng rừng trên cạn ven biển

4.246

101

20.200




Tổng

70.647

236

47.200




Nguồn: Dữ liệu của các tỉnh dự án và cuộc khảo sát xã hội

  1. Kết quả khảo sát và tham vấn với cán bộ địa phương cho thấy hầu hết diện tích đất thổ cư và đất lâm nghiệp của các hộ dân và các chủ rừng trong vùng dự án đã được cấp Giấy chứng nhận sử dụng đất (sổ đỏ); việc quy hoạch sử dụng đất ở cấp xã cũng đã được thực hiện đầy đủ và đất đai đã được phân định ranh giới rõ ràng. Kết quả tham vấn ở xã, huyện cho thấy hiện tại vấn đề tranh chấp đất đai tại các khu vực dự án đã không còn xảy ra. Các tranh chấp thường chỉ xảy ra khoảng 10 năm trước đây khi mà chưa có quy hoạch và phân định ranh giới rõ ràng. Tuy nhiên, các kết quả kháo sát và tham vấn với 10 huyện và 16 xã cho thấy có 236 hộ dân địa phương đã có hoạt động xen lấn vào rừng phòng hộ trên cạn tại những khu vực rừng bị suy giảm hoặc không có rừng của các khu vực rừng phòng hộ để trồng cây và hoa màu.

  2. Theo ý kiến của các huyện và cộng đồng địa phương, cần tiến hành kiểm tra tài liệu giao khoán đất lâm nghiệp trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện quy hoạch rừng dự án. Dự án cũng cần thực hiện tuyên truyền giáo dục, tổ chức các khóa đào tạo/tập huấn về quản lý rừng, thực hiện các hoạt động hỗ trợ sinh kế và nâng cao thu nhập cho cộng đồng địa phương cũng như cho các hoạt động trồng rừng và phục hồi rừng của Dự án, những diện tích này sẽ bị thu hồi mà không được bồi thường vì đã được quy định là rừng phòng hộ. Tuy nhiên, cây trồng và hoa màu sẽ được bồi thường theo Kế Hoạch Hành Động Tái Định Cư (RAP).

3.6. Nguyên nhân chính gây mất và suy thoái rừng


  1. Hệ sinh thái rừng ven biển có vai trò đặc biệt quan trọng. Khả năng thích ứng dựa vào sự kết hợp giữa việc sử dụng đa dạng sinh học và các dịch vụ sinh thái với chiến lược tổng thể ứng phó với những tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, rừng ven biển trong khu vực dự án đã giảm cả về số lượng và chất lượng. Các nguyên nhân chủ quan và khách quan (nguyên nhân chính) gây ra mất rừng và suy thoái rừng bao gồm:

    1. Mất rừng là do cả hai quá trình chuyển đổi diện tích rừng sang nuôi trồng thủy hải sản đã được lập kế hoạch trước và không được lập kế hoạch trước. Rừng ven biển và đất rừng ven biển vẫn chưa được giao cho người dân/cộng đồng địa phương quản lý lâu dài gắn với sản xuất nông lâm nghiệp và phát triển sinh kế;

    2. Mất rừng là do thay đổi mục đích sử dụng rừng và thiếu kế hoạch bảo vệ rừng rõ ràng trong dài hạn;

    3. Suy thoái rừng là do khai thác gỗ không bền vững và sự xâm lấn đất rừng để canh tác nông nghiệp;

    4. Rừng bị suy thoái và suy giảm là do không có phương pháp quản lý phù hợp;

    5. Do sự hạn chế về đầu tư, các điều kiện khó khăn về địa hình, đất đai, khí hậu và xói mòn ở các vùng ven biển;

    6. Mất rừng và suy thoái rừng do các tác động của bão và cháy rừng.

  2. Việc thiết lập rừng ngập mặn và rừng ven biển trên cạn đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn và cần thực hiện ở các xã ven biển - nơi có điều kiện lập địa phức tạp và khó khăn và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố thiên tai như bão, lũ lụt và thủy triều. Điều này cho thấy sự tham gia của cộng đồng trong quá trình thực hiện dự án cùng với việc nâng cao nhận thức và cải thiện điều kiện sống là cần thiết để có thể quản lý bền vững rừng phòng hộ trong vùng dự án. Sự có mặt của cộng đồng địa phương trong vùng dự án cùng với việc tăng cường sinh kế là cần thiết cho công tác quản lý rừng trong vùng dự án.

  3. Vốn đầu tư của Dự án sẽ được cấp cho các tỉnh có cam kết lập kế hoạch “bảo vệ và phục hồi rừng ven biển bền vững”; các cơ quan quản lý cấp tỉnh (UBND tỉnh, Sở NN&PTNT, Sở TN&MT) hỗ trợ và thúc đẩy các lợi ích lâu dài cho các bên liên quan ở địa phương. Hầu hết rừng và đất rừng đều thuộc sự quản lý của UBND các xã và các BQLRPH nhưng không có nhân sự/cán bộ để thúc đẩy tiềm năng phát triển kinh tế rừng gắn với các lợi ích về môi trường. Dự án cần tập trung vào sự tham gia của người dân/cộng đồng địa phương để bảo vệ rừng trong dài hạn.


tải về 3.22 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương