Ban biên tập chương I chức năNG, nhiệm vụ, quyền hạn ngành lao đỘng- thưƠng binh và XÃ HỘI


Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật



tải về 5.01 Mb.
trang42/48
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích5.01 Mb.
#19765
1   ...   38   39   40   41   42   43   44   45   ...   48

2. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là một biện pháp chiến lược trong thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới. Chính vì vậy, Luật Bình đẳng giới đã có Điều 21, Điều 22, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới có riêng 1 chương quy định về nội dung này. Cụ thể:



2.1. Yêu cầu và phạm vi lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 7 NĐ số 48/2009/NĐ-CP)

- Bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới trong nội dung, trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.

- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới được áp dụng đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới trong phạm vi điều chỉnh của văn bản.

2.2. Nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (Điều 8 NĐ số 48/2009/NĐ-CP)

Trong phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật:

- Xác định nội dung liên quan đến vấn đề bình đẳng giới hoặc vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới.

- Quy định các biện pháp cần thiết để thực hiện bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; dự báo tác động của các quy định đó đối với nam và nữ sau khi được ban hành.

- Xác định nguồn nhân lực, tài chính cần thiết để triển khai các biện pháp thực hiện bình đẳng giới hoặc để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới.

2.3. Trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật (Điều 10 NĐ số 48/2009/NĐ-CP)

Trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới, cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm:

- Thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo các nội dung quy định tại Điều 8 Nghị định này.

- Bảo đảm sự tham gia của đại diện cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật.

- Tham vấn, lấy ý kiến chuyên gia về giới, các cá nhân, tổ chức có liên quan hoặc chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật; tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý.

- Thể hiện trong tờ trình trình cơ quan có thẩm quyền về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật nội dung lồng ghép vấn đề bình đẳng giới; các phụ lục thông tin, số liệu về giới liên quan đến dự thảo văn bản (nếu có); báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của các đối tượng quy định tại khoản 3 Điều này và ý kiến phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam về chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.

Ngoài ra, Nghị định số 48/2009/NĐ-CP cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc đề nghị, kiến nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trách nhiệm của cơ quan thẩm định và cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới để bảo đảm quy định lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện.

3. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới

3.1. Khái niệm

Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được (khoản 6 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, khoản 1 Điều 14 Nghị định số 48/2009/NĐ-CP quy định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới).



3.2. Đặc điểm của Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới

- Được ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này;

- Do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ ban hành.

- Được ban hành dưới dạng văn bản;



3.3. Thời hiệu của Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới

Thời hiệu của Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng giới đã đạt được.



3.4. Chính phủ đã giao các Bộ: Nội vụ, Tài chính, Lao động- Thương binh và Xã hội, Giáo dục - Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, trình ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, đã được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 19 Luật Bình đẳng giới (Điều 16 Nghị định số 48/2009/NĐ-CP).

4. Nhận diện những hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới

4.1. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế và gia đình (Điều 40, 41 Luật Bình đẳng giới)

a) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:

- Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp vì định kiến giới;

- Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới;

- Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.

b) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:

- Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì định kiến giới;

- Tiến hành quảng cáo thương mại gây bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương nhân của một giới nhất định.

c) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:

- Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới;

- Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;

- Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính;

- Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao động nữ.

d) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:

- Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ;

- Vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính;

- Từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ;

- Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới.

e) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ bao gồm:

- Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ;

- Từ chối việc tham gia của một giới trong các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ.

g) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao bao gồm:

- Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các hoạt động văn hóa khác vì định kiến giới;

- Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới, định kiến giới;

- Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện hoặc xúi giục người khác thực hiện phong tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức.

h) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế bao gồm:

- Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới;

- Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi.

i) Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong gia đình

- Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính.

- Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới.

- Đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính.

- Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính.

- Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định.

Căn cứ quy định của Luật Bình đẳng giới về các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP đã có 8 điều quy định các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả (từ Điều 6 đến Điều 13).

4.2. Thẩm quyền và mức xử phạt hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới

Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bình đẳng giới được quy định tại các Điều 14, 15, 16 và 17 của Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới như sau:

- Thanh tra Lao động -Thương binh và Xã hội (gồm: Thanh tra viên, Chánh thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, Chánh thanh tra Bộ LĐTBXH): Bên cạnh các hình thức xử lý khác, tùy từng cấp khác nhau, Thanh tra LĐTBXH có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới với mức phạt tiền thấp nhất là 500 nghìn đồng và đến mức tối đa theo quy định là 40 triệu đồng.

- Thanh tra chuyên ngành khác (gồm: thanh tra viên đang thi hành công vụ, Chánh thanh tra cấp Sở, Chánh thanh tra cấp Bộ) có thẩm quyền xử phạt như Thanh tra Lao động- Thương binh và Xã hội nếu phát hiện có hành vi vi phạm chính về bình đẳng giới quy định tại Nghị định số 55/2009/NĐ-CP thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn quản lý của mình.

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới như sau: Bên cạnh các hình thức xử lý khác, UBND cấp xã có thẩm quyền xử phạt tiền đến mức 2 triệu đồng; UBND cấp huyện có thẩm quyền xử phạt tiền đến mức 30 triệu đồng; UBND cấp tỉnh có thẩm quyền xử phạt tiền đến mức tối đa theo quy định của Nghị định số 55/2009/NĐ-CP.

- Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm hành chính về bình đẳng giới liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quản lý.



Chuyên đề 3

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1. Quản lý nhà nước về bình đẳng giới

Luật Bình đẳng giới và Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới như sau:



1.1. Nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Điều 8)

- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.

- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới.

- Ban hành và tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới.

- Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về bình đẳng giới.

- Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động về bình đẳng giới.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.

- Thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về bình đẳng giới.

- Hợp tác quốc tế về bình đẳng giới.

1.2. Cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Điều 9 Luật Bình đẳng giới, Điều 2 Nghị định số 70/2008/NĐ-CP)

- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Điều 25 Luật Bình đẳng giới).

- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong phạm vi cả nước (Điều 3 Nghị định số 70/2008/NĐ-CP).

- Bộ, cơ quan ngang Bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Điều 4 Nghị định số 70/2008/NĐ-CP).

- Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ (điều 5, điều 6, điều 7 Nghị định số 70/2008/NĐ-CP).
Sơ đồ: Mô hình quản lý nhà nước về bình đẳng giới


Để giúp việc cho các cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới nêu trên, ở Trung ương, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thành lập Vụ Bình đẳng giới. Ở địa phương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ở cấp tỉnh, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội ở cấp huyện là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cùng cấp, có trách nhiệm giúp UBND cấp mình thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới. UBND cấp xã có 1 cán bộ làm công tác xã hội được phân công thực hiện nhiệm vụ này. Đối với cấp tỉnh, có thể thành lập Phòng Bình đẳng giới hoặc hình thành bộ phận làm công tác bình đẳng giới ghép với Văn phòng Sở.



1.3. Phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới

a) Nguyên tắc phối hợp

- Nội dung phối hợp phải liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan phối hợp.

- Bảo đảm tính khách quan trong quá trình phối hợp.

- Bảo đảm yêu cầu chuyên môn, chất lượng và thời hạn phối hợp

- Bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động phối hợp

b) Nội dung phối hợp

- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

- Thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật và kiến thức về giới và bình đẳng giới

- Thống kê, thu thập, cung cấp thông tin, số liệu về giới và bình đẳng giới

- Xây dựng các báo cáo quốc gia về bình đẳng giới

- Bảo đảm điều kiện về nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới

2. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới

2.1. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bình đẳng giới

Điều 7 Nghị định số 70/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới, đã quy định cụ thể trách nhiệm của UBND cấp xã như sau:

- Xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch về bình đẳng giới trong phạm vi địa phương.  

- Tổ chức thực hiện các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương; huy động nhân lực, kinh phí để thực hiện bình đẳng giới ở địa phương.

- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật về giới và bình đẳng giới cho nhân dân địa phương.

- Thu thập, xử lý thông tin, số liệu về bình đẳng giới trong phạm vi địa phương. Sơ kết, tổng kết, báo cáo đánh giá hàng năm và định kỳ về tình hình thực hiện bình đẳng giới trong phạm vi địa phương.

- Kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong phạm vi địa phương.

2.2. Trách nhiệm cụ thể của Ủy ban nhân dân cấp xã trong triển khai các Chương trình, Chiến lược về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020

Ngày 24 tháng 12 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2351/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu tổng quát: “Đến năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Chiến lược xác định 7 mục tiêu và 22 chỉ tiêu cụ thể trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động - việc làm, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, gia đình và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể bao gồm:

- Mục tiêu 1: Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị.

- Mục tiêu 2: Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động.

- Mục tiêu 3: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

- Mục tiêu 4: Bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

- Mục tiêu 5: Bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin.

- Mục tiêu 6: Bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới.

- Mục tiêu 7: Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới.

Để góp phần thúc đẩy thực hiện thành công các mục tiêu, chỉ tiêu của Chiến lược, ngày 22/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015, theo đó, Chương trình đã xác định 5 dự án gồm:

- Dự án truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới.

- Dự án nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới.

- Dự án nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, quản lý, lãnh đạo các cấp; nữ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020, cán bộ nữ thuộc diện quy hoạch.

- Dự án hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới trong những lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ cao bất bình đẳng giới.

- Dự án hỗ trợ xây dựng, phát triển dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về bình đẳng giới.

Để triển khai thực hiện Chiến lược và Chương trình quốc gia từ nay đến năm 2020, UBND cấp xã cần thực hiện các hoạt động sau:



a) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp đối với công tác bình đẳng giới.

b) Triển khai các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về bình đẳng giới

- Hàng năm, xây dựng và triển khai Kế hoạch truyền thông, giáo dục về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ và toàn thể nhân dân.

- Trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về bình đẳng giới cần chú trọng các đối tượng là học sinh, thanh thiếu niên, trong đó có hướng tới đối tượng là nam giới.

- Nội dung thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cần lựa chọn những nội dung sát với thực tế ở địa phương, những dẫn chứng cụ thể đễ hiểu, có tính thuyết phục cao.

- Hình thức thể hiện các thông điệp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về bình đẳng giới cần đa dạng, dễ hiểu, dễ thuộc ví dụ thông qua các hình thức văn nghệ dân gian, lồng ghép vào các cuộc họp, các hoạt động tuyên truyền ở các chương trình khác.

c) Xây dựng các chương trình, dự án, kế hoạch để thực hiện Chiến lược, Chương trình

- Xây dựng và ban hành Kế hoạch hành động về bình đẳng giới hằng năm và 5 năm.

- Xây dựng và tổ chức thực hiện các hoạt động, Dự án của Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015 tại địa phương.

- Thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để thực hiện nội dung này, cần chú ý việc tham vấn các đối tượng sẽ được thụ hưởng hoặc sẽ chịu sự tác động của các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các dự án sẽ triển khai ở địa phương.

- Bố trí hoặc đề xuất kinh phí cho việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp đề ra trong Kế hoạch.

d) Kiểm tra, thanh tra, tổng hợp tình hình thực hiện Chiến lược, Chương trình

- Xây dựng và triển khai kế hoạch kiểm tra về việc thực hiện Chiến lược, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới, công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ.

- Xây dựng cơ chế phối hợp liên tịch để thực hiện có hiệu quả công tác bình đẳng giới.

- Tổng hợp tình hình thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu về bình đẳng giới ở địa phương để báo cáo thường xuyên, đột xuất theo yêu cầu cảu cơ quan quản lý cấp trên.

- Tổ chức sơ kết tình hình thực hiện Chiến lược vào cuối năm 2015 và tổng kết tình hình thực hiện Chiến lược vào cuối năm 2020.

- Cập nhật thường xuyên các số liệu về giới, tình hình thực hiện Luật Bình đẳng giới tại địa phương.



e) Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác bình đẳng giới; chi ngân sách nhà nước cho công tác bình đẳng giới theo hướng dẫn và phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành; vận động các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đóng trên địa bàn hỗ trợ kinh phí, nguồn lực vật chất khác cho thực hiện các nội dung quản lý nhà nước và các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới của địa phương.

Chương XII

PHÒNG, CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI

Chuyên đề 1

KIẾN THỨC CHUNG VỀ PHÒNG, CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI

1. Mại dâm

1.1. Định nghĩa về mại dâm và các đối tượng liên quan đến mại dâm (Theo Pháp lệnh số: 10/2003/PL-UBTVQH11, ngày 14 tháng 03 năm 2003)



Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.

Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.

Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm.

Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm.

Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.

Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.

1.2. Thực trạng vấn đề mại dâm giai đoạn 2006-2010.



1.2.1. Quy mô và phạm vi

Tình hình tệ nạn mại dâm hiện nay còn diễn biến phức tạp. Hoạt động mại dâm tuy không công khai nhưng kín đáo, tinh vi, tổ chức nhỏ nhưng ở diện rộng lan tất cả khu vực cả nước. Những địa phương phức tạp nhất vẫn là ở các thành phố lớn, các tỉnh giáp ranh và các khu du lịch, nghỉ mát. Nhiều vùng quê có các khu công nghiệp mới hình thành nay không còn đất làm nông nghiệp chuyển sang kinh doanh dịch vụ ăn uống, giải khát, nhà nghỉ nhưng thực ra là kinh doanh mại dâm.

Hoạt động của bọn tội phạm về mại dâm không chỉ xảy ra ở khu vực thành thị và các khu du lịch nghỉ mát mà còn xảy ra ở vùng nông thôn và miền núi. Xuất hiện một số đối tượng là người nước ngoài, chúng lợi dụng triệt để những kẽ hở về mặt quản lý nhà nước đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ, hùn vốn thành lập các công ty, nhà hàng, khách sạn, karaoke, vũ trường phục vụ cho người nước ngoài ở các khu chế xuất, khu công nghiệp nhưng thực chất là tổ chức hoạt động mại dâm.

1.2.2. Phương thức hoạt động mại dâm rất đa dạng với nhiều hình thức biến tướng và sử dụng các thủ đoạn mới, tinh vi:

Về phương thức hoạt động mại dâm phổ biến vẫn là lợi dụng các dịch vụ: Ăn, nghỉ, vũ trường, karaoke, cà phê, tẩm quất, massage, mạng Internet hoặc thậm chí không làm nghề dịch vụ kinh doanh nhưng đứng ra tập hợp gái bán dâm phục vụ cho các nhà nghỉ, khách sạn, cung cấp gái mại dâm ra nước ngoài, hoặc khách mua dâm liên hệ trực tiếp để được đáp ứng. Hoạt động mại dâm trong các khách sạn liên doanh với người nước ngoài đang tiềm ẩn nhiều phức tạp, hoạt động một cách tinh vi theo một chu trình khép kín, chỉ bán dâm với người nước ngoài hoặc đi ra nước ngoài bán dâm thông qua điều hành, môi giới.

Hiện nay bọn tội phạm lợi dụng sự ham chơi, đua đòi của một số học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn và việc buông lỏng quản lý giáo dục của gia đình, nhà trường đã dụ dỗ, lôi kéo thậm chí còn dùng thủ đoạn ép buộc các cháu còn đang là học sinh chưa đến tuổi thành niên làm gái bán dâm. Hình thành các đường dây môi giới mại dâm tại địa bàn một số huyện, thành phố. Từ đó dẫn đến tình trạng khách mua dâm phạm tội bởi các hành vi mua dâm người chưa thành niên, hoặc cấu thành tội hiếp dâm trẻ em… Đây là một thực trạng đang gây nhiều bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân.

Đáng chú ý là hoạt động mại dâm không thông qua sự điều hành của chủ đường dây hay chủ nhà hàng, khách sạn và đối tượng môi giới mại dâm đang có chiều hướng gia tăng. Số gái bán dâm liên kết với nhau thành nhiều nhóm hoạt động liên kết đan xen với nhau hoặc hình thành các đường dây liên tỉnh, hoặc có sự móc nối với các hướng dẫn viên du lịch để cung cấp gái mại dâm cho khách đến các địa điểm du lịch trong nước hoặc nước ngoài. Hoạt động mại dâm qua Internet, điện thoại di động để nhắn tin đến điện thoại của, mời chào, quảng cáo, thỏa thuận, hẹn địa điểm mua bán dâm… đang lan rộng ở nhiều nơi.

1.3. Hậu quả của mại dâm trong đời sống và phát triển kinh tế- xã hội.

Tệ nạn MD gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều đó được thể hiện ở các mặt sau:

1.3.1. Đối với bản thân người bán dâm và gia đình họ:

Tệ nạn MD gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ của người bán dâm, làm gia tăng việc lây truyền các dịch bệnh nguy hiểm, nhất là HIV/AIDS. Mại dâm là con đường lây truyền bệnh dịch nguy hiểm không chỉ cho bản thân những người tham gia hoạt động MD (kể cả người mua và người bán dâm) và gia đình họ, mà còn tăng nguy cơ lây truyền các bệnh dịch nguy hiểm cho cộng đồng và xã hội. Thực tế cho thấy một số người bán dâm bị nhiễm HIV vẫn đang "hành nghề". Những người này sẽ "gieo rắc" mầm bệnh cho bao nhiêu khách làng chơi nữa? Đây là một vấn đề nhức nhối. Theo ước tính của Bộ Y tế, có khoảng 9,3% phụ nữ bán dâm Việt Nam bị nhiễm HIV dương tính vào năm 2012. Nguyên nhân chính của việc lây nhiễm HIV đang chuyển từ việc dùng chung các dụng cụ tiêm chích sang quan hệ tình dục không an toàn. Nếu không có hình thức hoặc phương thức ngăn chặn kịp thời tình trạng này thì có lẽ số người nhiễm HIV, đặc biệt là đối tượng gái bán dâm bị nhiễm HIV sẽ tăng nhanh. Bên cạnh đó, phần lớn người bán dâm đều mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STD), con số này lên khoảng 98% (kết quả của các cuộc điều tra xã hội học). Phần lớn gái bán dâm mắc một bệnh STD, nhưng có những trường hợp mắc từ 2, 3, 4 loại bệnh STD trở lên. Những bệnh này gây ảnh hưởng không những trước mắt mà về lâu dài nguy hại tới việc phát triển nòi giống của dân tộc và lực lượng lao động của đất nước trong tương lai.

Tệ nạn MD gây ảnh hưởng lớn về thể chất, tâm lý, tinh thần, sự phát triển nhân cách của đối tượng, làm mất danh dự của người bán dâm, thậm chí dẫn tới tình trạng suy thoái nhân cách của một số cá nhân. Điều đó có tác động xấu tới cuộc sống của chính họ, gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình, thậm chí có người không thể tìm được hạnh phúc cho mình.

1.3.2.Đối với xã hội: tệ nạn MD đã gây ra nhiều hậu quả ở các mặt dưới đây:



Thứ nhất, gây mất ổn định về trật tự, an toàn xã hội, làm băng hoại giá trị đạo đức truyền thống, hình thành lối sống ăn chơi, buông thả, coi trọng đồng tiền, coi rẻ nhân phẩm, danh dự con người, gây mất trật tự an ninh công cộng, đặc biệt tại các khu vực có nhiều ổ nhóm mại dâm hoặc các địa bàn MD công cộng, MD gần các trường học, bệnh viện gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với học sinh, sinh viên, người dân tại các khu vực này. MD phát triển đồng nghĩa với xuất hiện các tội phạm nguy hiểm như chứa chấp mại dâm, môi giới mại dâm, đặc biệt nghiêm trọng là hình thành các đường dây buôn bán phụ nữ, trẻ em trong nước cũng như ra nước ngoài để hoạt động MD. Tệ nạn MD cũng tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội khác phát sinh, phát triển như tham nhũng, hối lộ, góp phần hình thành các băng nhóm tội phạm... một bộ phận cán bộ công chức mua dâm, một số cán bộ có trách nhiệm phòng chống mại dâm thoái hoá, biến chất. Những biểu hiện này đã có ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội, tạo dư luận không tốt về bộ máy chính quyền, các cơ quan chuyên trách, cơ quan bảo vệ pháp luật dẫn đến tình trạng giảm lòng tin của nhân dân đối với chính quyền có nguy cơ gây bất ổn chính trị- xã hội, làm giảm sức hấp dẫn và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tới Việt Nam.

Thứ hai, tệ nạn MD gây thiệt hại lớn về kinh tế của Nhà nước: trung bình nhà nước phải chi hàng năm là 25 - 30 tỷ đồng cho công tác phòng chống tệ nạn MD. Khoản kinh phí này dành chi cho các hoạt động như: thực hiện các chính sách đối với đối tượng, tuyên truyền, giáo dục, triệt phá ổ nhóm (chưa kể tới ngân sách thường xuyên chi cho các đơn vị hành chính, sự nghiệp liên quan của các địa phương cho công tác này). Bên cạnh đó, hàng năm Nhà nước cũng phải chi một nguồn kinh phí khá lớn cho hệ thống Y tế trong việc thực hiện phòng ngừa, chữa trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho GMD, nhất là những người bị nhiễm HIV/AIDS. Ngoài ra, việc xây dựng cơ sở vật chất cho các trung tâm chữa trị, giáo dục dạy nghề, tái hoà nhập cộng đồng cho đối tượng hàng năm cũng tiêu tốn ngân sách Nhà nước được tính bằng tiền tỷ. trong khi nguồn lực cho giáo dục, y tế, các đối tượng chính sách khác còn đang thiếu thốn. Đây là những khoản kinh phí đã thấy rõ trong thực tế, còn các khoản chi phí khác không đo đếm được do các cán bộ công chức thoái hoá, biến chất tham ô của Nhà nước, của dân để có tiền dành cho những cuộc tiêu khiển trác táng của cá nhân họ. Đó là một vấn đề mà những người làm công tác PCTNXH nói chung, tệ nạn MD nói riêng cũng phải chú trọng. Những thiệt hại về mặt kinh tế trên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.4. Một số giải pháp chủ yếu về phòng chống mại dâm đã và đang được triển khai thực hiện ở Việt Nam

Chương trình hành động phòng chống tệ nạn mại dâm giai đoạn 2011 - 2015 (Quyết định 679/QĐ-TTg ngày 10/5/2011) đã đưa ra các giải pháp theo hướng tiếp tục triển khai đồng bộ các hoạt động phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống mại dâm như sau:

- Tăng cường nguồn lực về con người và kinh phí cho công tác phòng, chống mại dâm, ưu tiên cho các tỉnh, thành phố trọng điểm. Từng bước xã hội hóa công tác phòng, chống mại dâm, huy động sự tham gia của các tổ chức, cộng đồng và các cá nhân trong công tác này. Tạo điều kiện cho các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội khác tham gia các hoạt động hỗ trợ phòng ngừa, giảm hại, giảm phân biệt đối xử, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người bán dâm.

- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống tệ nạn mại dâm ở cấp xã, phường, thị trấn (Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Trưởng Công an). Lấy hiệu quả công tác phòng, chống tệ nạn mại dâm nói riêng và phòng, chống tệ nạn xã hội nói chung tại địa bàn quản lý làm chỉ tiêu thi đua, đánh giá hàng năm.

- Tăng cường hợp tác quốc tế, chú trọng hợp tác với các nước trong khu vực, các nước có chung biên giới trong công tác phòng, chống buôn bán người, phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán trẻ em vì mục đích bóc lột tình dục; thực hiện các Công ước Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ và quyền trẻ em và các khuyến nghị của Hội nghị toàn cầu năm 2008 về chống bóc lột tình dục trẻ em và người chưa thành niên.

- Tăng cường công tác phối hợp liên ngành trong phòng, chống mại dâm đảm bảo thực hiện đúng Quyết định số 155/2007/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp liên ngành phòng, chống mại dâm.

- Đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học nhằm đánh giá tác động của mại dâm trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta; tiếp tục nghiên cứu các mô hình phòng chống mại dâm của các nước trong khu vực và trên thế giới để học tập, áp dụng các mô hình hiệu quả trong phòng ngừa tệ nạn mại dâm, đặc biệt là việc ngăn chặn và xóa bỏ mại dâm trẻ em.

1.5. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cản trở đến hiệu quả công tác phòng, chống mại dâm trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay

1.5.1. Tồn tại, hạn chế

- Tệ nạn mại dâm hiện nay mới giảm ở bề nổi, mại dâm trẻ em và vị thành niên vẫn còn tồn tại, chưa giải quyết dứt điểm được đường dây hoạt động mại dâm liên tỉnh, đưa người ra nước ngoài hoạt động mại dâm; mại dâm nam, mại dâm đồng giới, buôn bán người vì mục đích mại dâm, mại dâm có yếu tố nước ngoài có chiều hướng gia tăng.

- Nhiều địa phương chưa quản lý tốt công tác phòng, chống mại dâm trên địa bàn, đặc biệt là địa bàn giáp ranh dẫn đến một số tụ điểm phức tạp để tồn tại lâu ngày, gây bức xúc trong nhân dân; còn biểu hiện xử lý thiếu kiên quyết, phạt cho tồn tại, thiếu sự phối hợp chặt chẽ trong xử lý các vụ việc phức tạp, liên quan đến quản lý của nhiều ngành. Hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chức năng quản lý ở khu vực biên giới chưa cao, khi phía Việt Nam truy quét mạnh thì đối tượng mại dâm chạy ra nước ngoài và ngược lại.

- Công tác tuyên truyền giáo dục còn hạn chế, chưa phù hợp đối với từng nhóm đối tượng khác nhau, nhận thức và điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân liên quan đến các giá trị đạo đức, vấn đề bình đẳng giới, phòng ngừa HIV, trách nhiệm xã hội và gia đình trong phòng, chống mại dâm, vì vậy tác động của truyền thông còn nhiều hạn chế. Công tác phòng ngừa thông qua lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và an sinh cho các vùng, miền, thành phố, nông thôn, thanh niên, học sinh, sinh viên và lao động di cư, đặc biệt là hỗ trợ phụ nữ, trẻ em gái có hoàn cảnh khó khăn, còn nhiều bất cập.

- Hoạt động giáo dục, dạy nghề và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng hiệu quả còn thấp. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở một số địa phương còn hạn chế. Chưa bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu, địa bàn cần tập trung quản lý. Sự phối hợp giữa các ngành, các đơn vị còn mang tính hình thức.

- Nguy cơ lây nhiễm HIV ra cộng đồng ngày càng cao từ quan hệ tình dục không an toàn, đặc biệt với sự xuất hiện của tệ nạn mại dâm nam, mại dâm đồng giới. Nhiều người bán dâm chưa tiếp cận được các dịch vụ xã hội, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, y tế, cũng như các chương trình can thiệp giảm hại và tình dục an toàn.



1.5.2. Nguyên nhân

- Do tính chất phức tạp của tệ nạn mại dâm. Hoạt động mại dâm ngày càng tinh vi hơn, với nhiều hình thức biến tướng mới, sử dụng công nghệ thông tin hiện đại, nên khó phát hiện để đấu tranh phòng, chống.

- Nhận thức chưa đầy đủ, thiếu thống nhất của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân dẫn đến thiếu kiên quyết trong chỉ đạo, điều hành và thực hiện. Trách nhiệm quản lý nhà nước của cấp chính quyền cơ sở, sự giám sát của mặt trận và các đoàn thể ở một số địa phương còn bị buông lỏng.

- Kỳ thị, phân biệt đối xử đối với phụ nữ mại dâm còn nặng nề là rào cản khi họ muốn thay đổi hành vi, lối sống, tái hòa nhập cộng đồng.

- Thiếu tập trung, hạn chế trong phối hợp thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Chưa có cơ chế chính sách sát hợp, thiếu nguồn lực để triển khai các chương trình trợ giúp nữ thanh niên, trẻ em gái thất học và phụ nữ bán dâm tái hòa nhập cộng đồng. Việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các cơ sở kinh doanh dịch vụ và kiểm soát việc sản xuất và lưu hành văn hóa phẩm, băng đĩa hình và trang web có nội dung không lành mạnh chưa thường xuyên, kiên quyết.

- Nguồn lực đầu tư cho công tác phòng, chống mại dâm hiện nay còn thấp và dàn trải. Tổng ngân sách đầu tư cho công tác phòng chống mại dâm trong 5 năm khoảng hơn 130 tỷ đồng (bao gồm ngân sách của các Bộ, ngành Trung ương và ngân sách bố trí của các địa phương). Nhiều Bộ, ngành, đoàn thể không bố trí kinh phí cho công tác này. Ở địa phương, đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, việc bố trí kinh phí cho hoạt động còn nhiều khó khăn, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao; nhiều tỉnh, thành phố không quan tâm, tập trung chỉ đạo giải quyết và ưu tiên ngân sách cho công tác này.

- Công tác quy hoạch, cấp giấy phép và quản lý hoạt động của các cơ sở kinh doanh dịch vụ nhạy cảm còn bất cập; việc kiểm soát sản xuất, lưu hành văn hóa phẩm, băng đĩa hình và trang web có nội dung khiêu dâm, kích dục còn hạn chế. Các chương trình liên quan như phòng, chống HIV/AIDS, vay vốn xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm thiếu lồng ghép nên kết quả còn hạn chế. Việc quy định và thực hiện các biện pháp phòng, chống mại dâm còn nặng về xử lý người bán dâm, chủ chứa, môi giới, chưa chú trọng đấu tranh và thiếu chế tài xử lý nghiêm khắc đối với người mua dâm và các đối tượng lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm.

- Một số quy định về Pháp lệnh và các văn bản pháp luật liên quan còn nhiều vướng mắc, khó thực hiện, làm giảm hiệu quả thi hành pháp luật.



Đối với Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm và các văn bản hướng dẫn thi hành: một số điều của Pháp lệnh không có tính khả thi; quy định về xử lý người mua dâm còn ở mức thấp, chưa công bằng với người bán dâm; thiếu chế tài xử lý các hành vi bị nghiêm cấm như bảo kê và môi giới mại dâm; thiếu quy định về chính sách và cơ chế thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, tố giác và đấu tranh trong phòng, chống mại dâm; thiếu quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính của chủ tịch UBND cấp tỉnh.

Đối với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan: Điều 23 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đưa ra các quy định khó thực thi như xử lý người bán dâm có tính chất thường xuyên, không có nơi cư trú nhất định, hoặc Nghị định 43/2005 quy định về hành vi bắt quả tang đối với người bán dâm; Các quy định về xử lý vi phạm hành chính trong phòng, chống mại dâm còn thiếu cụ thể, phân tán trong nhiều văn bản thuộc các lĩnh vực văn hoá, lao động, thương mại, du lịch, an ninh trật tự dẫn đến chồng chéo, mâu thuẫn, khó hoặc tuỳ tiện áp dụng.


tải về 5.01 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   38   39   40   41   42   43   44   45   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương