Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ



tải về 1.5 Mb.
trang11/28
Chuyển đổi dữ liệu08.05.2018
Kích1.5 Mb.
#37804
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   28

ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI


Nếu kẻ thù ngoại tại bị tiêu diệt trong khi không kiềm chế

Kẻ thù là lòng thù hận của chính một người, kẻ thù ngoại tại sẽ gia tăng.

Vì thế, đấy là sự thực tập của những vị Bồ tát để chinh phục

Tâm thức của chính họ với đội quân của từ ái và bi mẫn.

 Dịch kệ:

20. Diệt nội thù

      Sân ẩn trong tâm bị lãng quên

      Lại chuyển ngược ra ngoại thù nhân,

      Cố tiêu diệt họ, giết hàng vạn,

      Vạn kẻ thù khác lại hành hạ.

      Thấy rõ bạo hành chẳng giải trừ

      Hãy dụng lực nhân ái khoan từ;

      Nội hướng điều phục tâm động loạn -

      Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Tất cả những kẻ thù ngoại tại chúng ta đánh bại sẽ được thay thế một cách không chấm dứt bởi những người khác nếu chúng ta không thuần hóa lòng thù hận trong chúng ta. Trong Hướng dẫn Đời sống Bồ tát đạo nói rằng:



Nơi nào tôi có thể tìm đủ da

Với nó để phủ trên bề mặt của trái đất?

Nhưng (mang) da duy chỉ trên đôi giày của tôi

Là đủ để phủ trên mặt đất với nó.

Nghĩa là:



Những chúng sinh ngang ngược (không giới hạn) như hư không:

Không thể vượt thắng tất cả họ.

Nhưng nếu tôi chỉ vượt thắng những tư tưởng sân hận mà thôi,

Điều này sẽ đồng như chiến thắng tất cả kẻ thù.

Làm thế nào chúng ta chinh phục tất cả những kẻ thù của chúng ta trong cõi trần gian này của ba nghìn thế giới? Điều đó là không thể. Tuy thế, thuần hóa kẻ thù nội tại của sân hận là đồng với việc thuần hóa tất cả những kẻ thù ngoại tại. Nếu chúng ta lưu tâm đến tình cảnh này từ quan điểm của Phật pháp, chúng ta có thể thấy rằng trong khi sân hận nội tại vẫn chưa được thuần hóa chúng ta thiếu chịu đựng hay kém kiên nhẫn. Mọi việc có thể trôi chảy trong vài ngày hay vài tháng; rồi thì rối rắm xảy ra mà chúng ta phải đối phó, và rồi thì một vấn đề khác nổi lên thế vào vị trí ấy.

Có nhiều rắc rối trong môi trường xã hội một cách thông thường, cội nguồn của nó là sự sân hận nội tại không được thuần hóa. Như một kết quả người ta không thể vượt thắng kẻ thù ngoại tại ở chung quanh họ, hãy để riêng những kẻ thù của một khu vực khác. Những khó khăn sinh khởi bởi vì người ta tranh đua để khống chế lẫn nhau. Câu trả lời cho điều này là phải kiểm soát trên những kẻ thù nội tại của sân hận. Nhưng làm thế nào chúng ta đạt được điều này?

Không vận dụng một mũi tên, vũ khí và tấm chắn (cái mộc)

Một người chinh phục một tỉ Ma vương hoàn toàn do chính mình,

Ai biết kỹ năng của trận chiến này hơn là quý vị?

Chúng ta phải thuần hóa kẻ thù nội tại bằng sự tiếp nhận áo giáp của từ ái và năng lực bao la của bi mẫn. Vì thế, trong bất cứ cộng đồng nào, chúng ta nên bộc trực, ngay thẳng, và lịch sự với nhau, nói chuyện mặt đối mặt và làm một sự phân biệt rõ ràng giữa đúng và sai. Bằng việc hành động trong một cung cách như thế chúng ta có thể dần dần khắc phục sự bùng nổ cơn giận của những người khác và làm dịu chúng dần. Nếu chúng ta trả đũa bằng sân hận khi những người khác biểu lộ giận dữ đối với chúng ta, điều ấy chỉ làm vấn đề tệ hại hơn, giống như quậy nước bùn sẽ làm nó đục ngầu lên, vấn đề sẽ tối tăm, âm u hơn chẳng lợi ích cho ai. Nhưng sự cư xử một cách lịch sự sẽ gỡ ngòi nổ của sân hận sau một khoảng thời gian nào đấy. Một cơn thịnh nộ chẳng phục vụ cho một mục tiêu nào ngoại trừ làm gia tăng sân hận, tự hào, ghen tỵ, và tính tranh đua  của con người.

Làm những sự phân chia mạnh mẽ giữa chính chúng ta và phe phái chúng ta như để chống lại những người khác và phe phái của họ làm tăng thêm khả năng đồng thời bùng nổ sân hận. Trên bình diện của sân hận, chúng ta nên cho một sự giải thích hợp lý nếu người kia tiếp nhận. Nhưng nếu người kia không muốn nghe, thế thì chúng ta để nó cho thời gian.

Sân hận là một cảm xúc hay thay đổi. Nó phát sinh không báo trước và biến dần sau một lúc. Mặc dù người ấy là một người mà người ấy luôn luôn là như thế nào ấy, lúc người ấy sân hận sẽ không hề bị lay chuyển khi thân nhân cố gắng để an ủi. Người ấy sẽ vẫn đấm vào đầu kẻ thù của mình. Sau này, khi cơn giận dữ của người ấy đã phai nhạt, họ thậm chí có thể là bạn của nhau.

Chúng ta có thể thấy từ thí dụ này rằng kẻ thù nội tại là cực kỳ nguy hại. Những giải thích khác nhau được đưa ra trong thảo luận này về thuần háo kẻ thù phiền não của chúng ta trên vấn đề làm thế nào để đem sự hóa giải đến giận dữ và thù hận. Điều được nhấn mạnh là nguy hại vô cùng nếu để tâm thức nhiễm ô với thù hận. Trong đoạn kệ tới, chúng ta được chỉ cho thấy làm thế nào để đem thuốc giải đến vướng mắc.
---o0o---

ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI MỐT


Cảm giác khoái lạc, như nước mặn, làm tăng thêm khát dục

Không cần biết bao nhiêu họ được thọ hưởng.

Vì thế sự thực tập của những vị Bồ tát là hãy từ bỏ chúng ngay lập tức

Tất cả những đối tượng phát sinh tham dục đối với họ.

Dịch kệ:


 21. Lìa buông lung căn trần

      Buông thả các căn theo các trần

      Và uống nước muối cũng như nhau.

      Càng dùng nhiều vào cho thỏa thích,

      Càng tăng tham muốn và khao khát.

      Nên khi chớm bị cuốn hút vào

      Bất cứ vật gì các căn ưa,

      Cắt nhanh không chút chi do dự -

      Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Điều này liên hệ đến những đối tượng của tham dục chẳng hạn như hình sắc, âm thinh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm. Tuy nhiên, càng thụ hưởng khoái lạc của những đối tượng tham dục này, giống như là chúng ta đang uống nước muối, nó chỉ làm chúng ta khao khát thêm nước. Giống như thế, say sưa trong sự thích thú tham dục chỉ làm chúng ta tăng thêm đam mê. Nó giống như chứng ngứa trên da, chúng ta muốn gãi cho đã ngứa và hết ngứa. Điều này cũng có tác dụng trong một lúc, nhưng rồi thì chúng ta phải tiếp tục cho đến khi toạt da chảy máu. Như được nói trong “Tràng hoa Quý báu”:

      Gãi làn da ngứa ngái làm khoái chí

      Nhưng tốt hơn đừng có ngứa mà chi

      Tương tự thế nhân ham khoái lạc

      Nhưng an lạc hơn tự tại chẳng tham cầu.

Chẳng bao giờ có sự thỏa mãn trường cửu trong sự hài lòng với tham dục. Tuy thế, càng thụ hưởng chúng nhiều hơn, càng gia tăng thêm sự vướng mắc của chúng ta. Đấy là sự thực hành của những vị Bồ tát để phản chiếu trên những sự bất lợi về những phẩm chất của tham dục và đối tượng của chúng là những điều sẽ làm tăng tiến tham dục trong chúng ta và vì thế nhắc lại là hãy từ bỏ những đối tượng này.

Trước điều này luận bản đã đối diện với những sự thực tập liên hệ đến tâm giác ngộ (bodhicitta) quy ước thông thường. Ở đây dường như nó đang thảo luận cánh cửa đi vào sự thực tập tâm giác ngộ căn bản, mà nó bao gồm hai khía cạnh: Sự thực hành cân bằng không gian trong thiền quán và sự thực hành trụ thiền tỉnh giác về bản chất tự nhiên huyển hóa của những hiện tượng.


---o0o---

ĐIỀU THỨ HAI MƯƠI HAI


Bất cứ điều gì xuất hiện là (sự biểu hiện của) tâm thức chính người ấy;

Tính bản nhiên của tâm thức nguyên sơ tự do với biến chuyển huyển hóa (hành)

Biết điều này, đấy là sự thực hành của những vị Bồ tát

Không vọng tưởng những biểu hiện của chủ thể và đối tượng.

Dịch kệ:


22. Phá niềm tin hữu cố nhiên

      Vật trông như hiện hữu chân thật

      Chỉ do tâm ảo cấu tạo tác;

      Tâm của ta từ thuở uyên nguyên

      Nào có tinh túy thật cố nhiên.

      Thức giác Chân đế vượt suy niệm

      Từ vật được biết với người biết,

      Giải phá niềm tin cố nhiên hữu -

      Chư Bồ tát trọn hành cách đó.

Bất cứ điều gì xuất hiện đến chúng ta chỉ là tâm thức – cả những hiện tượng của cõi luân hồi lẫn những thế giới ngoài vòng sinh tử. Điều này cũng là một cách nói rằng những hiện tượng ngoại tại là một phần của tâm thức, là điều được liên hệ với trường phái Duy tâm hay duy thức (Mind only – Chittamtrin) hay quan điểm của Du già Trung quán Tự quản tông (Yogacharya Svatantrika Madhyamika).

Nếu chúng tôi giải thích theo quan điểm được cho là của Nguyệt Xứng (Chandrakirti), nó có nghĩa là những hiện tượng của thế gian lẫn xuất thế gian xuất hiện trong những phương diện đa dạng thanh tịnh và nhiễm ô của chúng tất cả là trống rỗng sự tồn tại cố hữu (không có tự tính). Quan điểm này hàm ý rằng chúng được tạo nên một cách chủ quan bởi tâm thức quy ước (thế đế) và tồn tại một cách đơn thuần bởi vọng tưởng được mệnh danh. Nếu những hiện tượng tồn tại một cách thật sự và cụ thể từ chính nó như chúng xuất hiện đến chúng ta, thế thì sự tồn tại thật sự của chúng trở nên rõ ràng hơn chứ không như chúng ta khám phá rằng bản tính tự nhiên của nó không thể tìm thấy.

Có phải chúng ta thất bại trong việc tìm ra bản chất tự nhiên của chúng bởi vì những hiện tượng thật sự tồn tại hay bởi vì chúng không tồn tại? Không phải bởi vì sự không tồn tại của nó mà chúng ta không thể tìm ra. Nó có một chức năng và vì thế nó phải tồn tại. Ảnh hưởng không lành mạnh hay không lành mạnh mà nó có trên môi trường của chúng ta và trên con người cũng chứng tỏ sự tồn tại của nó. Chúng ta có thể thấy nó bởi vì nó tồn tại trong tầm nhìn của chúng ta. Thế nên chúng ta có thể suy ra rằng không phải do bởi sự không tồn tại của nó mà chúng ta không thể định rõ tính tự nhiên của nó. Chúng ta có thể hoàn toàn chắc chắn rằng nó thật tồn tại.

Nhưng nếu chúng ta tiếp tục khám phá, tìm kiếm sự tồn tại khách quan của nó, chúng ta không tìm được. Chúng ta có thể tìm thấy nó nếu nó có một sự tồn tại độc lập; vì thế chúng ta có thể suy ra rằng nó không thể tồn tại một cách khách quan, nhưng đúng hơn là nó hình thành sự tồn tại một cách tự nhiên qua tâm thức quy ước (thế đế).

Sự tinh khiết hay nhiễm ô của những hiện tượng xuất hiện đến tâm thức hiện tại của chúng ta, có phải chúng xuất hiện từ chính chúng hay làm thế nào chúng xuất hiện tới chúng ta? Với cách suy nghĩ của chúng ta, sự xuất hiện của đối tượng dường như phát sinh từ phía của chúng, và trong cách này, tâm thức chúng ta tiếp nhận một khái niệm sai lầm. Như đức Đạt Lai Lạt Ma thứ bảy nói:



Đến một tâm thức bị chế ngự bởi mê ngủ

Một đối tượng mộng ảo xuất hiện. Tuy thế, không có một đối tượng thật sự ở đấy

Chỉ đơn thuần là một hình thể được biểu hiện bởi tâm thức.

Đưa ra thí dụ về giấc mộng và sự xuất hiện huyễn thuật, bất cứ điều gì xuất hiện vào lúc ấy cũng không có sự tồn tại cố hữu. Thí dụ, chúng ta có thể mơ thấy một đàn voi, nhưng không thật sự có một đàn voi ở đấy. Hay chúng ta có thể mộng về Tây Tạng, nhưng giấc mơ ấy, quê hương Tây Tạng, không thật sự hiện hữu; nó chỉ đơn thuần là sự biểu hiện. Như được nói là:



Không có điều gì thật sự tồn tại trong căn bản của

Sự đổ thừa. Chỉ có danh xưng được đặt để

Bởi ý thức lừa dối trên những sự tồn tại như

Tự ngã và nhứng thứ khác, vòng luân hồi, niết bàn, và v.v…

Dường như rằng vòng luân hồi, niết bàn, và v.v… tồn tại trong căn bản lừa dối, chúng không có sự tồn tại khách quan mà chúng ta có thể chỉ tay và nói, “Cái này là cái này,” hay, “Cái này là cái kia.”

Rồi thì nó được nói rằng:

Sự mệt mỏi trì độn của si mê trong

Ý thức của một phàm phu quy cho

Một sự tồn tại vững chắc và thật sự đến những đối tượng.

Hãy nhìn hành vi của tâm thức ghê tởm này của chúng ta.

Một tâm thức bị phiền não bởi si mê, giống như sự hôn mê xâm chiếm ý thức của một phàm phu, bám lấy [việc tin tưởng] những hiện tượng như tồn tại một cách khách quan từ chính phía của chúng. Chúng ta được mời gọi để thể nghiệm điều này trong ánh sáng của kinh nghiệm chính chúng ta, để khám phá tâm thức bệnh hoạn ấy của chúng ta, mà nó quen thuộc với si mê từ thời vô thủy, nó bám lấy tất cả những đối tượng như sự tồn tại độc lập. Chúng ta không thể thấy chúng như sự tồn tại qua năng lực của danh xưng và sự định nghĩa của thế gian.

Những đối tượng mà chúng ta chỉ đến, nói rằng, “Cái này là cái này,” hay “Cái này là cái kia,” xuất hiện để tồn tại từ phía của chúng trong một kiểu mẫu rắn chắc, cụ thể, và độc lập. Chúng xuất hiện thế, mà không có một sự tồn tại như vậy. Như được nói:

Sự tồn tại của “cái tôi”, đã xuất hiện

Đến tâm thức lừa dối từ ngay thời vô thủy,

Là đối tượng vi tế cần được phủ nhận. [Sự phủ nhận này] là đầy sức sống

Hoàn toàn bác bẻ lại khái niệm sai lầm trong tâm thức một người.

Những khía cạnh tinh khiết và nhiễm ô của [hình thể] xuất hiện chỉ toàn là tâm thức, hay tồn tại qua tâm thức, và cũng hiện hữu qua danh xưng và tâm thức, mà không phải tồn tại từ phía của chính những đối tượng.

Giống như thế, tự tâm thức cũng được bao hàm trong tất cả những hiện tượng khác. Nếu chúng ta điều nghiên tâm thức, phân chia nó thành những khoảnh khắc trước và sau và tìm kiếm nó theo danh xưng của nó, chúng ta không thể tìm ra nó. Lấy cái thấy của mắt [nhãn thức] làm thí dụ, đấy là điều xuất hiện cụ thể đến tâm thức chúng ta, chúng ta có thể phân chia nó thành những phần của nó và thấy rằng nó không hoàn toàn tách biệt khỏi những phần này. Mỗi phần cũng không thể nói là giống như toàn bộ thực thể, bởi vì toàn bộ thực thể và những phần tử là khác nhau. Trong một cách tương tự, nếu chúng ta phân chia chân tay của thân thể thành những phần tách biệt của chúng, chúng ta không thể thấy người sở hữu của những chân tay này. Mặc dù nó tồn tại, nó không như chỉ trong sự liên hệ trên chính những chân tay mà thôi.

Khám phá một cách kỹ càng trong cách này, chúng ta tiến đến một cấp độ mà không có một vật gì mà chúng ta chỉ ra một cách cách chắc chắn, và chúng ta kết luận rằng tự chính tâm thức là tinh khiết từ ngay thời vô thủy và tự do với những cực đoan.



Nó không tồn tại cũng không phải không tồn tại,

Nó cũng không phải không cả hai

Cũng không tách biệt khỏi chúng.

Mọi vật trong thiên nhiên chỉ đơn thuần không tự tính (tồn tại cố hữu) và tự do khỏi những cực đoan như được diễn tả ở đây:



Tất cả mọi hiện tượng của thế gian và xuất thế gian

Chỉ đơn thuần được quy định bởi tâm thức nội tại,

Khám phá tâm thức ấy cũng thế, nó tự do khỏi sự sinh khởi và

Ngừng dứt. Vì thế, tự nhiên của thực tại là kỳ diệu.

Tất cả những hiện tượng thế gian và xuất thế gian chỉ đơn thuần là danh xưng bởi tâm thức và tự tâm thức, khi nó được khám phá, nó tự do (giải thoát) khỏi sự sinh khởi [sinh] và ngừng dứt [diệt]. Giống như thế, tính tự nhiên của con người được phú cho một tâm thức không sinh khởi cố hữu (tâm bất sinh). “Tôi, tính trống rỗng không thật sự tồn tại của một hành giả, thấy rằng trong thực tế không điều gì tồn tại một cách thực chất. Tất cả những sự xuất hiện về cái thấy hay cái nghe được khám phá như những hình ảnh của vọng tưởng, và từ liên hợp thú vị của hình thể và tính không, tôi bị thuyết phục một cách không thể chối cải về tính tương duyên sinh khởi (duyên sinh)”. Thật tuyệt, đúng là một hành giả du già không tự tính, khi thấy rõ tướng mạo của tất cả cái thấy, cái nghe và nhận thức, thấy rằng chúng không tồn tại.

Nếu tất cả những hình thể này sở hữu một sự tồn tại cố hữu (tự tính), có thể không có sự mâu thuẫn trong chúng [chứ?]  Hãy đề chúng ta lấy  một thí dụ về cây cối: Trong mùa hè, có sự tăng trưởng về bộ lá, và v.v… Rồi thì mùa mưa tiếp theo là mùa đông, thời tiết lạnh và khô. Vào mùa hè cây cối rất xinh đẹp, nhưng trong mùa đông nó thật là xấu xí. Nếu những phẩm chất của cây cối thật sự tồn tại trong chính nó, làm thế nào có sự thay đổi này xảy ra? Làm thế nào một cây hấp dẫn bị biến thành một cây xấu xí?

Tương tự thế, làm thế nào một người hiện tại là xinh đẹp trẻ trung lại trở nên già yếu bệnh hoạn? Cũng thế, nếu tâm thức lừa dối của chúng ta thật sự tồn tại, làm thế nào nó có thể được chuyển hóa thành tâm giác ngộ, một tâm sở hữu kiến thức toàn hảo và vứt bỏ mọi thứ tiêu cực? Một người bị nhiễm ô với những lỗi lầm và chính tự những lỗi lầm, những phẩm chất hấp dẫn và những thứ đối lập của nó, về đẹp đẽ và xấu xa – tất cả những khía cạnh đa dạng này có thể tồn tại mà không mâu thuẫn do bởi sự không tự tính (không tồn tại cố hữu).

Nếu có sự tồn tại cố hữu (tự tính), làm thế nào những nguyên nhân (nhân) và những điều kiện (duyên) có thể ảnh hưởng nó? Làm  thế nào những kết quả có thể tích lũy? Làm thế nào những hiệu quả dựa vào những nguyên nhân? Rõ ràng rằng có nhân và duyên [những nguyên nhân và những điều kiện], cùng tốt và xấu. Những điều này chỉ có thể xảy ra do bởi không có sự tồn tại cố hữu và vì thế nó chứng tỏ một cách dứt khoát rằng những hiện tượng thiếu chân thực hay không tự tính (không có sự tồn tại cố hữu). Do thế, trích dẫn phía trước: “Tôi, sự trống rỗng của một hành giả không thực sự tồn tại, thấy rằng trong thực tế không có gì tồn tại một cách thực chất. Tất cả sự xuất hiện của cái thấy, cái nghe được khám phá như những hình ảnh của vọng tưởng, và từ liên hợp thú vị này của hình thể và tính không tôi bị thuyết phục một cách không thể chối cải về tính tương duyên khởi thủy (duyên sinh)”.

Sự sinh khởi những tướng mạo không sai lầm chứng tỏ rằng sắc là không [vì chỉ tính không mới có tính hoàn hảo ấy]. Đấy là bởi vì những hiện tượng thiếu vắng sự tồn tại cố hữu (tự tính) rằng một sự chuyển hóa xảy ra tùy thuộc trên những điều kiện (duyên) của chúng, vì thế những khía cạnh đa dạng của những hiện tượng có thể biểu hiện tới chúng ta. Do vậy, rõ ràng rằng hình thể không phủ nhận tính không, tính không cũng không phủ nhận hỉnh thể (sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc).



Chỉ bằng việc thấy duyên sinh không thể bàn cải,

Đồng thời và không có bất cứ một nỗ lực nào

Những cung cách trước đây về nắm bắt đối tượng hoàn toàn tan biến và

Sự khám phá về những khái niệm hoàn toàn hoàn tất.

Mặc dù tôi không hiểu điều này một cách chính xác, tuy thế tôi nghĩ rằng đây là trường hợp của nó.

Chúng ta cần có một sự quen thuộc tường tận với quan điểm này trong tâm thức chúng ta nhầm để nắm bắt hình sắc và tính không mà không mâu thuẫn và trong một quan hệ bổ sung với nhau. Chúng ta cần phát triển sự tin chắc trong cả khía cạnh tính không, không có tự tính (không có sự tồn tại cố hữu), và trong khía cạnh hình thể (sắc) của hiện tượng. Chúng ta phải thể nghiệm khía cạnh tính không lần này đến lần khác để tiến sâu vào sự tin chắc của chúng ta. Khi chúng ta thông hiểu một số kỹ năng trong nhận thức duyên sinh chúng ta nên phân tích làm thế nào tâm thức chúng ta nắm bắt đối tượng phủ định (không tồn tại). Rồi thì khi đối tượng phủ định trở nên rõ ràng hơn, chúng ta phân tích sự không tồn tại cố hữu (vô tự tính) của hiện tượng, dùng lý trí của tư tưởng nhận thức thông thường ứng dụng vào những hiện tượng này.

Chúng ta nên sử dụng những kỹ năng bổ sung này để suy tư và khám phá những khía cạnh của tính không và hình sắc, không chỉ trong một ngày hay hai ngày mà liên tục. Nếu chúng ta làm như thế, thì có một cơ hội mà chúng ta sẽ đi đến thấy hai điều này, tính không và hình sắc, như một sự bổ sung cho nhau. Nhận thức thông hiểu quy nạp trong cách như thế là lợi ích cao độ.

Nếu một đối tượng tồn tại bởi chính nó mà không nương vào tâm thức, nó sẽ phải xuất hiện và tồn tại trong một cách đặc biệt. Nhưng chúng ta thấy rằng nó không tồn tại trong một kiểu mẫu đặc biệt nào khi chúng ta khảo sát nó. Sự thực rằng nó không thật sự tồn tại giống như điều này sinh khởi [độc lập] một cách thuyết phục từ trong chiều sâu của tâm thức chúng ta và tại lúc ấy sự tồn tại cụ thể của đối tượng có thể tan biến, giống như chúng ta đã thông hiểu một cách chân thực tính tự nhiên của thực tại.

Thêm nữa, chúng ta có thể an trụ tâm thức chúng ta trên sự thông hiểu ấy với sự tĩnh lặng. Không có một sự vững vàng tuyệt hảo của tâm thức chúng ta sẽ cảm thấy nó khó khăn để an trụ tâm thức chúng ta lâu dài mà không đánh mất tiếp xúc với sự thông hiểu mà chúng ta đã đạt được. An trụ tâm thức chúng ta một cách nhất thời có thể cho phép một thoáng tính không sinh khởi, nhưng nó không thể cho những khía cạnh đa dạng của những hiện tượng xuất hiện trong khoảnh khắc ấy. Thế nên, bằng sự hiểu biết tính không:



Chúng ta không nắm giữ những biểu hiện của cả

Người biết và cái được biết trong tâm thức chúng ta.

Ý nghĩa của tính không được giải thích ở đây. Nó nói rằng không thấy (trong cách lừa dối) là cái thấy siêu việt. An trụ tâm thức chúng ta với sự thanh thoát trên thực tại như thế là một cách thực hành quân bình không quán thiền tập.

Bây giờ chúng ta có thể lưu tâm đến sự thực tập trụ thiền tỉnh giác về sự xuất hiện mầu nhiệm của những hiện tượng. Tác giả thảo luận chủ đề này trong sự liên hệ đến hai đối tượng của vướng mắc và sân hận.
---o0o---



tải về 1.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   28




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương