BỘ TƯ LỆnh vùng 5 HẢi quân lịch sử VÙng 5 HẢi quâN (1975 – 2015)


Phối hợp với các lực lượng của Quân chủng và Quân khu 9 bảo vệ vùng biển, đảo Tây Nam và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Cam pu chia



tải về 1.28 Mb.
trang4/12
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích1.28 Mb.
#24070
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Phối hợp với các lực lượng của Quân chủng và Quân khu 9 bảo vệ vùng biển, đảo Tây Nam và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế ở Cam pu chia


Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc bất ngờ mở cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, quân và dân các tỉnh biên giới kiên cường chiến đấu bảo vệ vững chắc vùng biên cương thiêng liêng của Tổ quốc. Song, cuộc chiến tranh xâm lấn ở qui mô nhỏ, cục bộ vẫn tiếp diễn trên biên giới phía Bắc. Trước tình hình mới, Quân chủng có bước điều chỉnh và phát triển lực lượng, nâng cao sức mạnh chiến đấu hải quân, tăng cường khả năng phòng thủ, bảo vệ vùng biển, đảo ở hai đầu đất nước và quần đảo Trường Sa

Cùng với tập trung cao độ cho nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nam, Vùng 5 Hải quân tiếp tục được điều chỉnh và phát triển lực lượng để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của Vùng cũng như của Quân chủng. Ngày 12 tháng 2 năm 1979, Hải đoàn 127 trực thuộc Vùng 5 được nâng cấp lên Lữ đoàn 127; ngày 25 tháng 2 năm 1979, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn 953 thay thế Lữ đoàn 101 phòng thủ đảo Phú Quốc và 4 tiểu đoàn phòng thủ bảo vệ các đảo Tây Nam trực thuộc Vùng 5. Giữa tháng 3 năm 1979, Tư lệnh Hải quân điều Tiểu đoàn 21 pháo 130 mi li mét thuộc Lữ đoàn 101, Vùng 5 về trực thuộc Vùng 1 Hải quân làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo Đông Bắc.

Chiến dịch Tây Nam mùa xuân 1979, các lực lượng vũ trang nhân dân ta phối hợp chặt chẽ với các lực lượng cách mạng chân chính và nhân dân Cam pu chia đã đánh đổ tập đoàn phản động Pôn pốt- Yêng xa ri, giành chính quyền về tay nhân dân, cách mạng Cam pu chia đã chuyển sang thời kỳ mới. Nhưng trước mắt lúc này, nhiệm vụ tiếp tục tiến công truy quét tàn quân địch, nhanh chóng xây dựng lực lượng cách mạng toàn diện cho Bạn đủ sức bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng đã giành được, đủ sức quản lý đất nước và tổ chức đời sống, thực sự làm chủ vận mệnh của mình là vấn đề hết sức cấp bách và to lớn.

Chế độ phản động của Pôn pốt - Yêng xa ri đã đưa đất nước Cam pu chia đi tới thảm họa diệt chủng, toàn bộ xã hội bị xáo trộn, nhân dân cả nước bị đọa đầy, lực lượng cách mạng chân chính bị tổn thất nghiêm trọng. Bộ máy thống trị quân phiệt, phát xít đã bị tan rã nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn, chúng còn âm mưu kéo dài chiến tranh du kích hòng chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân Cam pu chia, phá hoại mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết hai nước Việt nam, Cam pu chia.

Đáp ứng nguyện vọng của Đảng nhân dân cách mạng Cam pu chia và nhân dân Cam pu chia, một bộ phận lực lượng quân đội ta được Đảng, Nhà nước ta giao nhiệm vụ ở lại Cam pu chia tiếp tục làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, giúp Bạn tiến công truy quét tàn quân địch, xây dựng lực lượng cách mạng, lực lượng vũ trang, bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ và giúp đỡ nhân dân bạn khôi phục sản xuất, ổn định đời sống.

Cuối tháng 4 năm 1979, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nam, Vùng 5 Hải quân tiếp tục được Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc và nhiệm vụ quốc tế giúp cách mạng Cam pu chia. Mọi hoạt động chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu trên chiến trường Cam pu chia và nhiệm vụ giúp Bạn của Vùng 5 đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của Tiền phương Bộ Tổng Tham mưu.

Đầu tháng 5 năm 1979, Tiền phương Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tư lệnh Hải quân xác định nhiệm vụ quốc tế của Vùng 5 Hải quân, bao gồm:

1, Đảm nhiệm giúp Bạn bảo vệ toàn bộ vùng biển Cam pu chia tính từ đường hải biên Việt Nam – Cam pu chia đến đường hải biên Cam pu chia – Thái Lan bao gồm cả các đảo xa bờ

2, Bảo vệ thương cảng Công pông som, quân cảng Rean; bảo vệ an toàn tuyệt đối cho các tàu ra vào cảng và trong quá trình neo đậu, hoạt động tại cảng Công pông som; Bảo vệ thành phố Công pông xom, nhà máy lọc dầu, tuyến đường sắt từ nhà ga Công pông xom ( từ cây số 263 đến cây số 247), tuyến đường bộ số 4 từ cảng Công pông som đến cầu số 8.

3, Hiệp đồng chặt chẽ với các đợn vị bạn, với các lực lượng vũ trang địa phương tổ chức phòng thủ vững chắc địa bàn địa bàn được phân công phụ trách; giúp bạn bảo vệ cả phần trên bờ, trên biển và các đảo.

4, Thường xuyên tổ chức lực lượng truy quét tàn quân địch hoạt động lén lút trong rừng, truy quét trên biển; đồng thời cùng với địa phương phát động quần chúng đánh bọn địch ngầm cài cắm trong dân, không cho chúng móc nối xây dựng cơ sở hoạt động chống phá cách mạng. Trực tiếp giúp bạn Cam pu chia về mọi mặt xây dựng chính quyền cách mạng và cơ sở quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang.

5, Luôn luôn đề cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu phá hoại của địch như tổ chức gây bạo loạn, tập kích, phục kích hoặc tấn công bất ngờ vào ta.

Quán triệt nhiệm vụ mới, trong tháng 5 năm 1979, Vùng 5 nhanh chóng triển khai lực lượng Lữ đoàn 101 chốt giữ bảo vệ các khu vực được phân công, trọng điểm tập trung vào khu vực bán đảo Thamasô; Kông pông som và Ream. Tiểu đoàn 22 pháo binh, cao xạ, Lữ đoàn 101 ở Phú Quốc được đưa sang bố trí bảo vệ thành phố Kông pông xom. Lữ đoàn 127 tổ chức đứng chân tại cảng Kông pông som. Vùng tiếp tục củng cố các Tiểu đoàn 563 phòng thủ, bảo vệ đảo Pô lô vai, Tiểu đoàn 562 phòng thủ, bảo vệ đảo Kôtang sau khi được thành lập từ tháng 3 năm 1979; củng cố trạm ra đa 615 ở đảo Kô tang sau khi được khôi phục sử dụng từ tháng 2 năm 1979 và triển khai xây dựng trạm ra đa 620 Kô kông. Sở chỉ huy cơ bản Vùng cùng đại bộ phận cơ quan Bô Tư lệnh Vùng 5 chuyển sang đóng tại thành phố Kông pông xom (gần điểm cao 108). Về tổ chức công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, Vùng thành lập Đội trị 78 trực thuộc Vùng; thành lập Cảng vụ Kông pông som trực thuộc Bộ Tư lệnh Vùng 5 gồm có cảng bộ, hai đại đội cảnh vệ, đại đội vận tải, bốc xếp, đại đội quản lý kho, phân đội tàu, trạm sửa chữa xe, bộ phận ngoại vụ và trại giam cải tạo các quân nhân vi phạm kỷ luật.

Ngay sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong chiến dịch Tây Nam, đầu tháng 6 năm 1979, toàn bộ lực lượng Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126 trực thuộc Quân chủng rút về nước, chuyển ra Hải Phòng làm nhiệm vụ cơ động chiến đấu bảo vệ vùng biển, đảo phía Bắc. Vùng 5 Hải quân được trên giao nhiệm vụ tiếp nhận bàn giao địa bàn phụ trách của Lữ đoàn 126. Như vậy, địa bàn Vùng 5 đảm nhiệm bảo vệ lúc này gồm vùng biển, hải đảo, ven biển và một phần tuyến biên giới của Cam pu chia, phạm vi dài gần 300 ki lô mét, từ Kông pông som đến cao điểm 322, (biên giới Cam pu chia – Thái Lan) và chiều sâu từ 15 đến 25 ki lô mét.

Cũng thời gian này, chấp hành chỉ thị của trên, Vùng 5 gấp rút thành lập thêm Lữ đoàn bộ binh 950 trực thuộc Vùng để thay thế cho Lữ đoàn 126 bảo vệ khu vực Kô kông bao gồm cả thị xã Kô kông; triển khai thành lập Trung đoàn 953 bảo vệ Phú Quốc; tiếp nhận bàn giao Trung đoàn 6 công an biên phòng đang làm nhiệm vụ bảo vệ Kô kông và khu vực tây bắc bán đảo Tha ma sô phối thuộc với Vùng, khẩn trương triển khai lực lượng lên phía bắc truy quét địch, khóa tuyến biên giới Cam pu chia – Thái Lan, từ cao điểm 322 đến cao điểm 199.

Để nhanh chóng thành lập các đơn vị mới, Vùng điều động các tiểu đoàn bộ binh 2, 4, 6, 9 và một số đại đội pháo thuộc Lữ đoàn 101 về xây dựng các đơn vị này, đồng thời Bộ Tổng Tham mưu bổ sung cho Vùng 1886 quân của Quân khu 4 và của tỉnh Hà Sơn Bình; Vùng tiếp tục tuyển thêm 2000 tân binh của Quân khu 9.

Vừa khẩn trương thành lập lực lượng mới, tổ chức phòng thủ các khu vực được giao, trong mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1979, Vùng 5 tiếp tục tổ chức lực lượng mở các đợt hoạt động truy quét, phục kích, trinh sát phát hiện, tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy các căn cứ của chúng ở 4 khu vực: Dọc tuyến biên giới; thị xã Kô kông; bán đảo Tha ma sô và Kông pông xom, Ream.

Ở khu vực dọc tuyến biên giới Cam pu chia – Thái Lan, chủ yếu là phía tây, đông sông Mêtock bắc cao điểm 322 đến nam cao điểm 199, khu vực do Trung đoàn 6 công an vũ trang đảm nhiệm, ta thường xuyên truy quét, tuần tra, phục kích, đón lỏng, trinh sát dọc biên giới, nhất là các cửa khẩu, các tuyến đường quan trọng địch đi lại, hoạt động móc nối, vận chuyển tiếp tế vào nội địa. Kết quả, thực hiện truy quét 2339 lần, có 12 lần cấp tiểu đoàn, 144 lần cấp đại đội, 2083 lần cấp trung đội và tiểu đội; diệt 2 tên, bắt sống 99 tên, thu 6 súng.

Ở Khu vực Kô kông, ta tập trung truy quét trên hai hướng trọng điểm, đông đảm nhiệm, là địa hình rừng núi, có nhiều sình lầy, việc cơ động đánh địch khó khăn. Tuy mới thành lập, Lữ đoàn 950 đã nhanh chóng tổ chức lực lượng truy quét kịp thời và hiệu quả, bảo vệ an toàn thị xã Kô kông và khu vực phụ trách. 3 tháng mùa mưa, Lữ đoàn 950 tổ chức 229 lần hoạt động truy quét, phục kích, tiêu diệt 74 tên địch, bắt sống 16 tên, thu 32 súng các loại, giải phóng 260 dân; phân đội tàu tuần tiễu của lữ đoàn 127 phối thuộc với lữ đoàn 950 hiệp đồng với Bạn bắt 53 tàu cá Thái Lan xam phạm trái phép vùng biển.

Ở bán đảo Tha ma sô, do Tiễu đoàn 5, Lữ 101 đảm nhiệm, là khu vực địch hoạt động bu bám nhiều, thỉnh thoảng tập kích, phục kích lại ta, nên ta tập trung phòng thủ và lực lượng tại chỗ thường xuyên truy quét, cùng 2 lần kết hợp với lực lượng Tiểu đoàn 8 của lữ đoàn tăng cường truy quét sâu vào một số khu vực phát hiện nhiều dấu vết và hoạt động của địch, tiêu diệt 44 tên, bắt sống 16 tên, thu 35 súng.

Ở Khu vực Kông pông xom và Ream, do Lữ đoàn 101 phụ trách, ta hoạt động chủ yếu tập trung ở khu vực đông, đông bắc cảng Ream; ngã ba Phâng, ven sông Kép; đông, đông bắc cảng Dầu 10 -15 ki lô mét, đã bảo vệ an toàn cho các mục tiêu quan trọng được phân công, tiêu diệt 86 tên địch, bắt 12 tên, phá 5 xuồng , thu 32 súng các loại

Về tổ chức chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu phòng thủ tại chỗ bảo vệ các khu vực đảm nhiệm, trong mùa mưa năm 1979, dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Vùng, các đơn vị hoàn thành cơ bản các phương án chiến đấu phòng thủ từ lữ đoàn, trung đoàn đến các đại đội; triển khai bố trí lực lượng, điều chỉnh quân số, trang bị, xây dựng kế hoạch hỏa lực, kế hoạch trinh sát nắm địch, tổ chức thông tin liên lạc, tổ chức chỉ huy và thường xuyên luyên tập theo phương án; tích cực chuẩn công sự chiến đấu, hoàn thành một số công sự hầm chỉ huy, trận địa pháo, chốt chiến đấu; đào hàng vạn mét giao thông hào, làm hàng nghìn mét đường cơ động tuần tra.

Trên vùng biển Campu chia, thời gian này việc quản lý còn rất hạn chế do thiếu phương tiện, tàu thuyền hư hỏng nhiều sau chiến dịch. Vùng tập trung cố gắng sửa chữa tận dụng một số tàu thuyền hiện có để luân phiên đợi cơ, cánh giới các đảo ven biển ở những nơi trọng điểm, phục vụ truy quét, tuần tiễu, ngăn chặn các hoạt động bu bám của địch; bảo vệ các tàu ra vào cảng Kông pông som.

Kết thúc hoạt động chiến đấu mùa mưa năm 1979, Vùng chỉ ra một số vấn đề rút kinh nghiệm như, ta sử dụng lực lượng còn phân tán, mỏng; cách đánh chưa táo bạo, mạnh dạn, nắm địch chưa chắc, chưa kết hợp tốt công tác binh vận, nên hiệu suất chiến đấu thấp, ta còn bị thương vong nhiều; công tác chuẩn bị chiến đấu cho bộ đội thiếu tỉ mỉ, trang bị chưa thật phù hợp, mang vác còn nặng, phát triển chiến đấu chậm… Về địch, chúng xâm nhập móc nối thường không mang vũ khí, để tạo thế hợp pháp, không đi theo đường mòn cũ, mở đường mới qua các khu vực hiểm trở để tạo thế bất ngờ. Thủ đoạn của chúng khi gặp ta, thường tránh né, luồn lách về phía sau, phục kích, tập kích bất ngờ khi ta dừng lại, gài mìn trên đường ta đã đi qua; táo bạo hơn, có lúc chúng vào gần vị trí chốt của ta để phục kích.

Sang mùa khô 1979, quyết tâm của Vùng 5 là: Tích cực chủ động tấn công liên tục; tập trung ưu thế lực lượng, từng thời gian, từng khu vực, từng đợt hoạt động, đánh dứt điểm triệt để, trọng tâm là đông, đông bắc thị xã Kô kông, bán đảo Tha ma sô và vùng biển từ hải biên xuống Kô kông; Điều chỉnh lại đội hình chiến đấu ở những nơi rút bớt lực lượng, chốt giữ có trọng điểm, truy quét liên tục, bảo vệ vững chắc các mục tiêu được phân công.

Nhiệm vụ cụ thể giao cho các đơn vị là:

Lữ đoàn 101, có nhiệm vụ:

1, cùng với Quân khu 9 đánh địch ở tây bán đảo Tha ma sô, từ đông nam điểm cao 48 (00-01) đến nam sông Vai, dài 60-70 ki lô mét; từ mép biển chạy vào giữa bán đảo, khoảng 20 ki lô mét; lực lượng sử dụng gồm ba tiểu đoàn bộ binh 3, 5, 8.

2, điều chỉnh đội hình bố trí, Tiểu đoàn bộ binh 8 lực lượng cơ động của lữ phòng thủ phía bắc cảng Kông pông som, chốt chặt quốc lộ số 4; Tiểu đoàn 7, phòng thủ phía đông nam thành phố Kông pông xom; Tiểu đoàn 10 phòng thủ phía bắc, đông bắc Kông pông xom và nhà máy lọc dầu; Tiểu đoàn 3 phòng thủ khu vực từ ngã ba Phâng đến cảng Ream; Tiểu đoàn 5 phòng thủ ven biển phía nam bán đảo Tha ma sô và đảo Kô rông, Kôrông Sa lem, tây nam cao điểm 48, mõn tây nam Tha ma sô; Tiểu đoàn pháo binh, cao xạ 22 (có 3 đại đội pháo 105 mi li mét, C9, C10, C11, 1 đại đội pháo 85 mi li mét C82, 2 đại đội pháo cao xạ 37 mi li mét) bảo vệ cảng Kông pông som và thành phố Kông pông xom.

3, giúp đỡ Bạn xây dựng Tiểu đoàn bộ binh 12.

Lữ đoàn 950, được tăng cường 1 tàu LCM8, 1 tàu PCF, 3 tàu PGM có nhiệm vụ:

1, Cùng lữ đoàn 127 và lực lượng vũ trang bạn tuần tiễu, kiểm soát chặt chẽ vùng biển đoạn từ bắc đảo Kô kông đến hải biên Cam pu chia – Thái Lan; tổ chức phục kích (trọng tâm là cửa sông Pao, Kasaốp, sông Vai, bắn chìm, bắt sống mọi tàu thuyền địch từ ngoài xâm nhập vào hoặc chạy chốn từ trong ra.

2, Cùng Trung đoàn 6 công an biên phòng khóa chặt biên giới, đoạn từ cao điểm 199 đến Khlongyai; cùng Quân khu 9 và Quân đoàn 4 truy quét địch ở đông bắc, đông đông nam thị xã Kô kông, từ bắc sông Vai theo đường ranh giới của Vùng lên đến X26 và Giúp bạn xây dựng lực lượng vũ trang.

Lữ đoàn 127, lực lượng sử dụng gồm 2 đến 3 tàu PGM, 4 đến 6 tàu PCF, 1 tàu LCU, 5 đến 6 tàu LCM8. 1 tàu UB100, 1 tàu vận tải chậm, 2 đến 3 tàu gỗ, có nhiệm vụ:

1, Cùng phân đội 127 phối thuộc của Lữ đoàn 950 và lực lượng vũ trang Bạn tuần tiễu, phục kích trên biển, cửa sông trong vịnh từ Ream đến hải biên Cam pu chia – Thái Lan, trọng tâm là từ đảo Kô rông đến hải biên.

2, Vận chuyển bộ đội lữ đoàn 101 từ Ream, Kông Pông som đến bán đảo Tha ma sô, thị xã Kô kông và 1 tiểu đoàn của Quân khu 9; Hộ tống tàu thuyền đi lại hoạt động; Vận chuyển bảo đảm hậu cần cho vùng, quân khu.

3, Tuần tiễu bảo vệ an toàn cho cảng, cho tàu nước ngoài và của ta ra vào cảng Kông pông som.

Trung đoàn 6 công an biên phòng, có nhiệm vụ:

1, Nhanh chóng điều chuyển một phần ba lực lượng phía đông sông Mê tô ka sang phía tây bảo đảm khóa chặt biên giới, chống địch thâm nhập từ phía Thái Lan qua.

2, Cùng với Lữ đoàn 950 khóa chặt tuyến biên giới phụ trách.

Trung đoàn 953 và các tiểu đoàn 561, 562, 563 có nhiệm vụ tích cực huấn luyện bộ đội theo các phương án chiến đấu, củng cố hầm hào, xây dựng lực lượng mọi mặt vững mạnh; bảo vệ vững chắc đảo.

Thực hiện kế hoạch hoạt động mùa khô, cuối năm 1979, Vùng 5 hiệp đồng với Quân khu 9 liên tục tổ chức các đợt truy quét lớn, dài ngày qui mô cấp lữ đoàn ở các khu vực trọng điểm tây bán đảo Thama sô và tỉnh Kô kông, phát hiện và tiêu diệt, bắt sống được nhiều địch, triệt phá nhiều cơ sở kinh tế, bảo đảm hậu cần của chúng.

Kết quả hoạt động chiến đấu cả năm 1979, Vùng 5 đã loại khỏi vòng chiến đấu 3099 tên địch, trong đó diệt 904 tên, bắt 2135 tên, đầu thú 60 tên, giải phóng 2483 dân; đã xóa căn bản lực lượng nòng cốt và căn cứ tàn quân ở hướng tây nam, đập tan một phần quan trọng kế hoạch đưa lực lượng lên biên giới để củng cố và xây dựng phục hồi các đơn vị chiến đấu của địch. Về ta, 201 đồng chí hy sinh; 352 đồng chí bị thương.

Ngày 14 và 15 tháng 10 năm 1979, Đảng bộ Vùng 5 tổ chức thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ Vùng 5 lần thứ hai. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị của Đảng ủy Vùng; thông qua Nghị quyết Đại hội và bầu Ban chấp hành Đảng bộ Vùng 5 nhiệm kỳ 1979 – 1981 gồm 11 đồng chí. Đảng ủy Vùng 5 đã bầu Thường vụ Đảng ủy gồm 5 đồng chí, đồng chí Chính ủy, Thượng tá Phạm Xuân Trường làm Bí thư Đảng ủy; đồng chí Tư lệnh, Thượng tá Nguyễn Dưỡng, làm Phó bí thư.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Vùng 5 lần thứ II nhấn mạnh phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 1979 – 1981 là,:“Tập trung lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu gắn nhiệm vụ dân tộc với nhiệm vụ quốc tế; kiên quyết đánh bại mọi âm mưu thâm độc và hành động quân sự liều lĩnh của địch trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc biên giới, vùng biển, hải đảo, các mục tiêu được phân công cả trên đất ta và đất Bạn. Đồng thời, hoàn thành tốt nhiệm vụ giúp bạn xây dựng lực lượng mọi mặt, ổn định đời sống nhân dân, góp phần đưa cách mạng Cam pu chia đến thắng lợi triệt để. Tích cực xây dựng lực lượng, nâng cao chất lượng về mọi mặt theo hướng chính qui, hiện đại, tinh nhuệ, thiện chiến. Tăng cường xây dựng Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo.”9

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Vùng 5 lần thứ II,nhanh chóng được quán triệt sâu rộng đến các chi bộ, cơ quan đơn vị trong toàn Vùng.

Về thực hiện nhiệm vụ giúp Bạn, trong quá trình tham gia chiến dịch, Vùng 5 bám sát chỉ thị của trên, khẩn trương triển khai các mặt công tác giúp Bạn phát động quần chúng xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang và giúp nhân dân bạn trên địa bàn phụ trách xây dựng cuộc sống hồi sinh.

Các khu vực địa bàn Vùng 5 được phân công phụ trách từ Kông pông xom đến Kô kông trước ngày giải phóng, các cơ sở kinh tế, sản xuất ở địa phương bị tàn phá nặng nề, đời sống của nhân dân cơ cực, thiếu thốn, lại bị chính quyền cũ cưỡng bức, lùa chạy vào rừng. Khi ta đánh chiếm, các khu vực này hầu như không có dân.Thành phố, thị xã, công sở, các nhà máy, cảng biển, kho tàng tan hoang, vắng bóng người.

Sau ngày 10 tháng 1 năm 1979, Vùng 5 thành lập Ban Quân quản phối hợp cùng với ban quân quản Quân khu 9 làm nhiệm vụ kiểm tra, quản lý, giữ gìn an ninh trật tự thị xã Kông pông xom và cảng Kông pông som. Từ tháng 3 năm 1979, theo lệnh của trên, Vùng 5 tiếp nhận giữ gìn bảo quản toàn bộ tài sản, cơ sở vật chất của thị xã Kông pông xom và cảng Kông pông som do các đơn vị Quân đoàn 2, Quân khu 9, Tổng cục Kỹ thuật vào tiếp quản, thu hồi từ ngày giải phóng bàn giao lại. Đây là một khối lượng tài sản rất lớn. Sau khi tiếp nhận bàn giao Vùng 5 đã tổ chức quản lý chặt chẽ và bảo vệ an toàn chọn vẹn toàn bộ tài sản, cơ sở vật chất của thị xã và của thương cảng.

Thực hiện chỉ thị của trên, từ ngày 17 tháng 9 đến ngày 14 tháng 10 năm 1979, Vùng 5 tiến hành bàn giao đầy đủ, rõ ràng, rành mạnh toàn bộ tài sản thu hồi cho Bộ Kinh tế và Đời sống, Chính phủ Cam phu chia gồm: Các kho hàng bách hóa thu gom trong thị xã; các kho hàng số 1, 2, 3, 4, 5 của cảng Kông pông som. Kết thúc bàn giao ngày 21 tháng 10 năm 1979, đồng chí Rua xa may, Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Đời sống, Chính phủ Cam pu chia phát biểu “ tôi rất phấn khởi và cảm ơn các đồng chí Vùng 5 đã quan tâm, có trách nhiệm tốt và ý thức tổ chức kỷ luật tốt trong việc quản lý, giữ gìn bảo quản tài sản thu hồi. Trong thời gian dài, các đồng chí đã khắc phục mọi khó khăn, bảo vệ giữ gìn tài sản như thế này, thật là một việc tôi không ngờ tới và quá trình bàn giao và nhận bàn giao lại được đầy đủ rõ ràng. Tôi xin cảm ơn anh em Hải quân và nhiệt nhiệt hoan nghênh việc làm tốt đẹp của các đồng chí”10.Trong giai đoạn tấn công truy quét, tháng 2 và tháng 3 năm 1979, Lữ đoàn 101, Vùng 5 giải phóng 545 người dân ở khu vực Keo phô và Tha ma sô đưa về thị xã Kông pông xom. Sau đó dân ở các nơi lần lượt kéo về quê cũ trong một tình trạng rất thảm thương, đói rách, ốm đau, kinh hoàng, hoảng sợ như sau một cơn ác mộng. Vùng 5 đã tổ chức đón nhân dân từ rừng trở về, giúp đỡ ổn định nơi ăn ở, cứu tế nhường cơm sẻ áo, khám chữa bệnh, cung cấp thuốc men; tiếp nhận 7000 dân từ tỉnh Kô kông về, đưa tổng số dân lên 3555 gia đình với 15 363 nhân khẩu. Tháng 5 năm 1979, Vùng bàn giao số dân Kô kông trở về, tổ chức đưa họ về quê cũ ở 16 trên 19 tỉnh của Cam pu chia. Số dân còn lại 1688 gia đình với 9 025 nhân khẩu, Vùng 5 cùng với Bạn sắp xếp ở xung quanh khu vực Kông pông som và thành lập các xã Ream, Bát trang, Thmoriếp. Tháng 6 năm 1979, hai mươi năm gia đình đánh cá cũ được Vùng 5 lựa chọn đưa về gần cảng Kông pông som để thành lập phum Cá. Thời gian này, thị xã Kông pông xom, cán bộ, công nhân và gia đình cán bộ, công nhân và nhân dân từ các nơi đã trở về ở.

Tháng 8 năm 1979, Vùng thành lập Ban chỉ đạo công tác giúp Bạn và 4 đội công tác, 25 đồng chí cùng với 4 đội công tác của Bạn có 16 đồng chí do Đoàn 978, Quân khu 9 tăng cường cho Vùng 5 từ tháng 2 năm 1979.11(

Vùng 5 cùng với Bạn khẩn trương phát động toàn dân xây dựng chính quyền cách mạng ở cấp cơ sở, tổ chức bầu ủy ban nhân dân tự quản ở các phun, xã, còn chính quyền cấp thành phố do Trung ương Cam pu chia chỉ định. Việc chọn người vào chính quyền do dân bình xét và quyết định, số lượng ủy viên, ủy ban nhân dân tự quản xã có từ 7 đến 9 người, thôn có từ 5 đến 7 người. Tiêu chuẩn chọn người vào chính quyền cơ sở là những người có thù, bị khổ với chế độ cũ, không dính líu vào bộ máy cai trị của chế độ cũ, thương dân và được dân tin, đoàn kết với Việt Nam.

Cùng với tổ chức thành lập chính quyền xã, ta và bạn nhanh chóng tổ chức thành lập lực lượng vũ trang cách mạng của quần chúng để kịp thời bảo vệ chính quyền và bảo vệ quần chúng. Mỗi xã tổ chức một trung đội dân quân du kích do ủy ban nhân dân tự quản xã lựa chọn và được nhân dân đồng ý. Hết tháng 10 năm 1979, ta thành lập được 5 trung đội dân quân du kích xã gồm 14 tiểu đội, 146 người; 4 trung đội dân quân du kích phum gồm 12 tiểu đội, 132 người; tổng cộng trang bị 118 súng bộ binh các loại. Các trung đội dân quân du kích nhanh chóng được huấn luyện và phối hợp với bộ đội tình nguyện Việt Nam triển khai các hoạt động tuần tra, canh phòng, chiến đấu bảo vệ phum, xã, đánh địch tại chỗ một số trận khi chúng xâm nhập vào địa bàn, diệt 2 tên, bị thương 3 tên, bắt sống 2 tên.

Ta tiến hành lực chọn người phụ trách công tác an ninh phum, xã và xây dựng mạng lưới an ninh nhân dân, tổ chức kêu gọi địch đã về trong dân ra đầu thú cách mạng. Các tháng cuối năm 1979, có 51 tên địch ra trình diện và nhân dân phát giác 26 tên ẩn náu trong dân. Vùng tiếp nhận giáo dục, cải tạo trên một ngàn tên địch thuộc tổ chức thanh niên của Pôn pốt ra hàng, sau khi học tập chính trị và được phóng thích, có 12 người xung phong dẫn đường cho bộ đội truy kích địch; 51 người tình nguyện ở lại cảng Kông pông som làm bốc vác.

Về xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, đầu năm 1979, tham gia chiến dịch Tây Nam, Vùng giúp Bạn xây dựng Binh đoàn 3, Kông pông xom gồm ba tiểu đoàn bộ binh 12, 13, 14. Ngày 24 tháng 4 năm 1979, Vùng bàn giao cho Quân khu 9: Tiểu đoàn 13, Tiểu đoàn 14; ngày 5 tháng 5 năm 1979, bàn giao cho Quân khu 7 10 đồng chí cán bộ cơ quan binh đoàn.

Vùng 5 tiếp tục được giao nhiệm vụ giúp đỡ bạn xây dựng toàn diện Tiểu đoàn bộ binh 12, quân số là 112 người; tháng 9 năm 1979, tuyển mới bổ sung 95 tân binh. Vùng bố trí 12 đồng chí cán bộ chiến sĩ của Lữ đoàn 101 làm chuyên gia Tiểu đoàn 12 ở cấp đại đội, tiểu đoàn và cơ quan, giúp bạn tổ chức huấn luyện quân sự, học tập chính trị và hiệp đồng với bộ đội tình nguyện Việt Nam tham gia truy quét địch trên địa bàn khu vực Kông pông xom.

Đi đôi với xây dựng xây dựng củng cố chính quyền và các lực lượng cách mạng ở cơ sở, Vùng 5 cùng với chuyên gia Nhà nước tập trung giúp đỡ nhân dân bạn ổn định đời sống và đưa nhân dân nhanh chóng bắt tay vào sản xuất, khôi phục đời sống gia đình và quan hệ sản xuất tập thể trong các phun, xã; khôi phục hoạt động các trạm xá, bệnh viện, trường học, nhà máy, hoạt động giao thông vận tải…là vấn đề cấp bách lúc này.

Ngay từ tháng 2 và tháng 3 năm 1979, Vùng 5 tổ chức giúp nhân dân thu gom được hơn 1000 tấn lúa cấp cho nhân dân Kông pông xom và tỉnh Cam pốt làm lúa giống và cấp cho nhân dân ăn được hơn 5 tháng; tháng 6, tháng 7 thành lập được 45 đội sản xuất nông nghiệp, bắt về 592 con trâu, bò, tổ chức 2 lò rèn sản xuất nông cụ cày, bừa, cuốc, liềm, dao ... Ruộng cấy lúa ở ngoại thành Kông pông xom có 1530 héc ta, nhân dân cấy được 1150 héc ta. Tháng 11 năm 1979, nhân dân các xã thu hoạch 21 héc ta lúa sớm, đội công tác của Vùng giúp chỉ đạo các xã thực hiện tốt kế hoạch ăn chia sản phẩm sau thu hoạch.

Sau khi thành lập phum Cá, Vùng 5 tổ chức thu gom và khôi phục hoạt động được 12 tàu đánh cá trang bị cho các tổ sản xuất ngư nghiệp, 4 tháng cuối năm 1979, đánh bắt được gần 50 tấn cá, hơn 300 ki lô gam tôm, bán và trao đổi hàng hóa kịp thời phục vụ đời sống ngư dân, công nhân và bộ đội. Cũng trong thời gian này, Vùng tổ chức thành lập một phum công nhân và một xưởng sửa chữa xe máy gồm 33 thợ; đồng thời tuyển chọn đưa về cảng 120 công nhân bốc vác.


Каталог: sites -> default -> files
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> Mẫu tkn1 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc ĐĂng ký thất nghiệP
files -> BỘ TÀi chính —— Số: 25/2015/tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc TỜ khai của ngưỜi hưỞng trợ CẤP
files -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO –––– Số: 40
files -> BỘ y tế CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
files -> Mẫu số 1: Ban hành kèm theo Thông tư số 19/2003/tt-blđtbxh ngày 22 tháng 9 năm 2003 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Tên đơn vị Số V/v Đăng ký nội quy lao động CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỦa bộ XÂy dựng số 04/2008/QĐ-bxd ngàY 03 tháng 4 NĂM 2008 VỀ việc ban hành “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựNG”

tải về 1.28 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương