(Nguồn: Báo cáo của các Sở Thủy sản, Sở NN & PTNT giai đoạn 1997-7/2008)
(2). Chất lượng giống
Nguồn gốc giống nuôi được cung cấp từ các vùng Hồng Ngự - Đồng Tháp hoặc An Giang có chất lượng tốt. Tốc độ tăng trưởng trung bình ổn định (6 tháng đạt 1kg), tỷ lệ sống cao (80-95%), kích cỡ đồng đều, ít bị dịch bệnh trong quá trình sản xuất. Tỷ lệ ương từ bột lên hương cũng được cải thiện đáng kể, ban đầu chỉ đạt khoảng 10-15% sau đó nâng lên đến 25-30%, có nơi đạt 35%; kỹ thuật ương từ cá hương lên cá giống cũng được cải thiện đáng kể, đưa tỷ lệ sống từ 60% lên đến 80-85%. Đây là cơ sở sẽ bố trí quy hoạch hệ thống trại sản xuất bột và ương dưỡng trên 2 tỉnh này có điều kiện môi trường sinh thái phù hợp với đặc điểm sinh học của cá tra.
(3). Tình hình tiêu thụ cá giống nuôi
Cơ sở sản xuất cá bột cung cấp cho cơ sở ương dưỡng sau đó cung cấp cho nuôi thương phẩm hoặc cung cấp cho các cơ sở kinh doanh giống. Cơ sở sản xuất cá bột, ương lên cá hương và cá giống sau đó cung cấp cho cơ sở kinh doanh và cơ sở kinh doanh cung cấp cho nuôi thương phẩm. Các hộ nuôi thương phẩm có thể mua giống tại nơi sản xuất hoặc các hộ kinh doanh giống vận chuyển đến tận ao, bè để cung cấp. Tỷ lệ hao hụt trong quá trình vận chuyển thường khoảng 5-10% tùy thuộc vào cỡ cá cũng như khoảng cách vận chuyển, cá càng lớn tỉ lệ hao hụt càng thấp và ngược lại.
Hình 3.8: Sơ đồ luân chuyển con giống trong vùng ĐBSCL
(4). Tình hình kiểm soát con giống
Lực lượng kiểm tra, kiểm soát của các tỉnh còn quá mỏng, trình độ và trang thiết bị còn nhiều hạn chế, do đó lượng giống được kiểm tra, kiểm soát chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong tổng nhu cầu giống nuôi. Các hộ sản xuất nhỏ lẻ và tâm lý sợ phải đóng thuế nên không cung cấp thông tin đầy đủ cho cơ quan quản lý, dẫn đến công tác kiểm tra, kiểm soát gặp rất nhiều khó khăn.
3.3.2. Cung cấp thức ăn, thuốc và hóa chất
Chi phí sử dụng thức ăn công nghiệp trong nuôi cá thường cao hơn sử dụng thức ăn tự tạo, khoảng 80% hộ nuôi dùng thức ăn tự chế biến dễ gây ô nhiễm nước thải. Do sử dụng thức ăn công nghiệp khá tiện lợi, hạn chế tình trạng gây ô nhiễm môi trường nên 2 năm gần đây (2006-2007) hầu hết số người nuôi sử dụng thức ăn công nghiệp dạng viên. Thức ăn công nghiệp cung ứng cho nuôi ở ĐBSCL chủ yếu từ các nhà máy sản xuất thức ăn Cần Thơ, Bình Dương, Đồng Nai,.. và của một số công ty nước ngoài sản xuất thức ăn tại Việt Nam.
Đối với thức ăn tự chế biến, giá thành khoảng 3.800-4.000đ/kg; thức ăn công nghiệp dao động trong khoảng từ 4.800-5.800đ/kg ở năm 2005. Trong năm 2007 và đầu năm 2008 đã tăng lên 8.000đ-8.500đ/kg tùy từng hãng sản xuất. Thức ăn công nghiệp có hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) khoảng 1,4-1,6; còn đối với thức ăn tự chế biến thì FCR khoảng 2-2,2.
Hiện tại giá thức ăn cho cá tra ở mức khá cao đây là một trong những nguyên nhân góp phần làm tăng chi phí sản xuất cho người nuôi. Hàng năm trong vùng tiêu thụ một khối lượng rất lớn thức ăn công nghiệp đem lại nhuận đáng kể cho các công ty sản xuất thức ăn, trong khi đó người nuôi gánh chịu những thua lỗ do những yếu bất lợi như giá cả không ổn định, nguy cơ thừa nguyên liệu luôn thường trực….
Cá tra có biên độ thích ứng với các yếu tố môi trường rộng hơn nhiều so với các đối tượng thủy sản khác. Các loại hóa chất sử dụng chủ yếu để cải tạo ao, sau khi thu hoạch và chuẩn bị cho một vụ sản xuất mới. Các hóa chất sử dụng đều nằm trong danh mục cho phép sử dụng của Bộ Thủy sản (trước đây) và dùng theo sự chỉ dẫn, tư vấn của các cán bộ có chuyên môn của các cơ quan có chức năng.
Các cơ sở cung cấp thuốc và hóa chất phục vụ NTTS nói chung và nuôi cá tra nói riêng đều kết hợp với cung cấp thức ăn và các dịch vụ khác phục vụ cho NTTS. Số lượng các đại lý thức ăn trong những năm gần đây ở con số khá cao, từ 654 đại lý (năm 2006) tăng lên 716 đại lý vào năm 2007 và 7 tháng đầu năm 2008 với 763 đại lý.
Nhìn chung công tác kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng gặp rất nhiều khó khăn, do lực lượng cán bộ mỏng, phương tiện và trang thiết bị phục vụ còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Vẫn còn những hiện tượng người nuôi phải sử dụng các loại thức ăn quá hạn, không đảm bảo chất lượng, các loại thuốc, hóa chất nhập lậu, không nhãn mác,….
Bảng 3.8: Số lượng đại lý thức ăn, thuốc thú y thủy sản phục vụ nuôi cá tra trong vùng (Cơ sở)
TT
|
Địa phương/Năm
|
2006
|
2007
|
7/2008
|
1
|
Tiền Giang
|
183
|
183
|
183
|
2
|
Bến Tre
|
21
|
17
|
20
|
3
|
An Giang
|
15
|
34
|
41
|
4
|
Đồng Tháp
|
203
|
238
|
240
|
5
|
Vĩnh Long
|
112
|
120
|
130
|
6
|
Hậu Giang
|
15
|
15
|
18
|
7
|
Cần Thơ
|
105
|
109
|
131
|
|
Tổng
|
654
|
716
|
763
|
(Nguồn: Sở NN & PTNT các tỉnh ĐBSCL)
3.4. HIỆN TRẠNG CHẾ BIẾN VÀ TIÊU THỤ CÁ TRA VÙNG ĐBSCL
3.4.1. NĂNG LỰC CHẾ BIẾN
(1). Công suất và sản lượng chế biến cá tra
Số lượng, qui mô nhà máy chế biến cá tra liên tục tăng nhanh trong những năm qua. Năm 2000, toàn vùng chỉ có 15 nhà máy với công suất 77.880 tấn/năm, đến năm 2007 là 64 nhà máy, công suất đạt 682.300 tấn/năm. Tính đến tháng 6 năm 2008, toàn vùng đã có 80 nhà máy chế biến cá tra, công suất thiết kế 965.800 tấn/năm.
Bảng 3.9: Số lượng và công suất thiết kế các nhà máy chế biến cá tra trong vùng 2000-2008
Danh mục
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
Th 1-6/2008
|
Số NM chế biến cá tra
|
15
|
19
|
20
|
23
|
33
|
36
|
54
|
64
|
80
|
- Chuyên
|
1
|
2
|
2
|
2
|
4
|
5
|
20
|
26
|
37
|
- Kết hợp
|
14
|
17
|
18
|
21
|
29
|
31
|
33
|
37
|
42
|
CS thiết kê (tấn/năm)
|
77.880
|
88.540
|
119.331
|
144.945
|
230.740
|
281.740
|
495.351
|
682.300
|
965.800
|
SL chế biến (tấn)
|
689
|
1.970
|
27.980
|
33.304
|
82.962
|
140.707
|
286.600
|
386.870
|
-
|
Hiệu suất (%)
|
1
|
2
|
23
|
23
|
36
|
50
|
58
|
57
|
-
|
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra)
(2). Lao động chế biến cá tra
Tính đến năm 2006, ngành công nghiệp chế biến thủy sản của vùng ĐBSCL đã tạo việc làm cho khoảng 116.000 lao động địa phương.
(3). Mặt hàng chế biến
Trước đây cá tra được xuất khẩu chủ yếu dưới dạng phi lê cấp đông đơn thuần nhưng đến nay đã đa dạng hơn nhiều với các mặt hàng chế biến sẵn như: chả cá; tẩm bột; cá tra cắt khoanh muối sả; cắt khúc; sandwich; bánh mè; bao bắp non; cà chua nhồi cá tra; bông bí nhồi cá tra; bao tử dồn chả hải sản; xúc xích, phi lê cuộn nhồi tôm; cá tra nhồi cá hồi. Ngoài dạng chế biến sẵn thì một số doanh nghiệp còn có mặt hàng khô (chủ yếu ở An Giang) như bong bóng cá tra sấy khô; khô cá tra phồng. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp còn tận dụng phế liệu chế biến thành các sản phẩm có ích như dầu cá, bột cá làm tăng hiệu quả sản xuất và hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
(4). Nhu cầu nguyên liệu chế biến
Thời gian đầu (1998-2001) do chưa tìm được thị trường xuất khẩu nên lượng cá tra nuôi chủ yếu được tiêu thụ nội địa, xuất khẩu chỉ chiếm dưới 10%. Năm 2002, đánh dấu sự tăng trưởng đột phá của thị trường xuất khẩu, có đến 54% sản lượng nuôi được đưa vào chế biến để xuất khẩu. Những năm gần đây, tỷ trọng này chiếm khoảng 90%.
Bảng 3.10: Nhu cầu nguyên liệu chế biến xuất khẩu giai đoạn 1998-2007 (Đơn vị: tấn)
Chỉ tiêu
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
Sản lượng nuôi (1)
|
105.446
|
109.927
|
154.907
|
199.100
|
272.412
|
416.908
|
825.000
|
1.150.000
|
Nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu (2)
|
2.067
|
5.910
|
83.940
|
93.246
|
231.628
|
390.701
|
751.224
|
1.011.516
|
Tỷ trọng (%)
|
2%
|
5%
|
54%
|
47%
|
85%
|
94%
|
91%
|
88%
|
Nguyên liệu cho chế biến và tiêu thụ nội địa tươi sống (3)
|
103.379
|
104.017
|
70.967
|
105.854
|
40.784
|
26.207
|
73.776
|
138.484
|
Ghi chú: (2) Tính toán qui đổi từ lượng thành phẩm xuất khẩu giai đoạn 1998-2007
(3) bằng (1) trừ (2): là lượng cá tra cho chế biến và tiêu thụ dạng tươi ở trong nước
(5). Quản lý chất lượng sản phẩm
Để có thể xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường nước ngoài, đặc biệt là những nước có yêu cầu chất lượng cao như EU, Mỹ, Nhật thì hầu như mọi doanh nghiệp đã phải áp dụng các Chương trình quản lý chất lượng như HACCP, SQF 2000CM, SQF1000CM, ISO9001:2000, Halal, BRC, và quản lý môi trường như ISO 14000. Tuy nhiên, công tác quản lý chất lượng cũng còn nhiều bất cập như chưa kiểm soát được việc buôn bán kháng sinh hóa chất không rõ nguồn gốc; quản lý vùng nuôi chưa hiệu quả; vấn đề truy nguyên nguồn gốc sản phẩm;…
3.4.2. THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ
(1). Thị trường nội địa
Như đã đánh giá ở mục trên, thời gian đầu sản lượng nuôi cá tra chủ yếu được tiêu thụ nội địa, những năm gần đây do khối tượng sản phẩm xuất khẩu tăng nên thị trường nội địa thu hẹp dần cả về tỷ trọng lẫn khối lượng. Sản phẩm tiêu thụ nội địa là cá tra có thịt màu vàng được nuôi nhỏ lẻ tự phát do các hộ gia đình đem bán ở chợ dạng tươi sống. Một phần cá tra chế biến đông lạnh có bày bán ở hệ thống siêu thị bán lẻ trên toàn quốc.
(2). Thị trường xuất khẩu
(a) Tăng trưởng của thị trường
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1998-2007 đạt 77% về sản lượng và 68% về KNXK. Tốc độ tăng KNXK thấp hơn tốc độ tăng sản lượng đã cho thấy giá xuất khẩu trung bình giảm dần và phần nào phản ảnh hiệu quả sản xuất giảm.
Bảng 3.11: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra giai đoạn 1998-2007
Chỉ tiêu
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
Tăng bq
|
Sản lượng (tấn)
|
689
|
1.970
|
27.980
|
33.304
|
82.962
|
140.707
|
286.600
|
386.870
|
77%
|
KNXK (103 USD)
|
2.593
|
5.618
|
87.055
|
81.899
|
228.995
|
328.153
|
736.872
|
979.036
|
68%
|
Giá TB (USD/kg)
|
3,76
|
2,85
|
3,11
|
2,46
|
2,76
|
2,33
|
2,57
|
2,53
|
-5%
|
(Nguồn: Thống kê XKTS Việt Nam 10 năm (1998-2007) - VASEP, 2008)
Hình 3.9: Diễn biến KNXK và giá XK trung bình cá tra giai đoạn 1998-2007
(b) Cơ cấu thị trường
Cơ cấu thị trường liên tục có sự thay đổi qua từng năm trong giai đoạn 2003-2007. Thị trường Mỹ có sự biến động mạnh nhất do đã xảy ra vụ kiện chống bán phá giá vào năm 2003. Tuy nhiên, ngay sau đó thị trường xuất khẩu cá tra Việt Nam đã được mở rộng hơn, đặc biệt là sang EU và gần đây nhất là Nga. Có thế nói EU và Nga đã thế chỗ cho thị trường Mỹ như trong những năm 1999-2002.
Bảng 3.12: Cơ cấu của thị trường xuất khẩu cá tra, basa giai đoạn 2003-2007 (đơn vị: %)
Chỉ tiêu
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
Th 1-5/2007
|
Th 1-5/2008
|
Sản lượng xuất khẩu
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
EU
|
19
|
27
|
39
|
43
|
45
|
47
|
38
|
Bắc Mỹ
|
31
|
24
|
18
|
14
|
11
|
7
|
7
|
Nhật
|
2
|
1
|
0,4
|
0,3
|
0,4
|
0
|
0
|
ASEAN
|
14
|
14
|
16
|
10
|
9
|
10
|
7
|
Nga
|
0
|
1
|
2
|
15
|
13
|
16
|
17
|
Ucraina
|
0
|
0
|
0,1
|
3
|
6
|
6
|
8
|
Trung Quốc
|
21
|
22
|
12
|
6
|
5
|
5
|
3
|
Ôxtrâylia
|
7
|
8
|
7
|
4
|
3
|
3
|
2
|
Nước khác
|
7
|
4
|
6
|
5
|
9
|
7
|
17
|
Kim ngạch xuất khẩu
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
100
|
EU
|
20
|
29
|
42
|
47
|
48
|
50
|
42
|
Bắc Mỹ
|
34
|
27
|
20
|
16
|
13
|
8
|
9
|
Nhật
|
2
|
1
|
0,5
|
0,4
|
1
|
0
|
0
|
ASEAN
|
11
|
10
|
12
|
9
|
8
|
9
|
8
|
Nga
|
0
|
0,3
|
2
|
11
|
9
|
14
|
12
|
Ucraina
|
0
|
0
|
0,1
|
2
|
4
|
4
|
6
|
Trung Quốc
|
19
|
19
|
10
|
5
|
4
|
5
|
3
|
Ôxtrâylia
|
8
|
9
|
8
|
4
|
4
|
3
|
3
|
Nước khác
|
7
|
4
|
5
|
6
|
9
|
6
|
17
|
Đến nay, cá tra Việt Nam đã có mặt ở khoảng 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. EU, Bắc Mỹ và Nga là những thị trường lớn nhất.
Hình 3.10: Cơ cấu thị trường xuất khẩu cá tra theo sản lượng năm 2007
Hình 3.11: Cơ cấu thị trường xuất khẩu cá tra theo giá trị năm 2007
3.4.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ CÁ TRA VÙNG ĐBSCL
(1). Nuôi cá tra vùng ĐBSCL
- Những kết quả đạt được
+ Khai thác và tận dụng tiềm năng diện tích đất cồn bãi, ven sông; diện tích mặt nước đưa vào phát triển nuôi cá tra thâm canh theo nhiều loại hình khác nhau như: nuôi ao, nuôi đăng quầng, lồng bè.
+ Hơn 10 năm qua diện tích nuôi cá tra liên tục gia tăng, từ 1.290 ha năm 1997 tăng lên 5.429,7 ha vào năm 2007, tăng gấp 4,2 lần. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn là 15,46%/năm.
+ Vận dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật cộng với kinh nghiệm thực tiễn góp phần đưa năng suất nuôi cá tra liên tục tăng qua các năm. Năng suất trung bình 7 tháng đầu năm 2008 đạt 157 tấn/ha. Một số điểm nuôi áp dụng các chương trình quản lý chất lượng tiên tiến trong nuôi như: SQF1000CM, GAP, BAP…
+ Tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn cung cấp chủ yếu cho các nhà máy chế biến xuất khẩu. Sản lượng cá tra thương phẩm trong vùng tăng vượt bậc, từ 23.250 tấn năm 1997 tăng lên 683.567 tấn trong năm 2007, tăng 29,4 lần; 7 tháng đầu năm 2008 sản lượng lên đến mức 835.564 tấn.
+ Theo ước lượng về sản lượng và hạch toán kinh tế mô hình nuôi cá tra thâm canh mang lại lợi nhuận cho các hộ nuôi và các nhà đầu tư trong toàn vùng là 1.895 tỷ đồng và 1.486 tỷ đồng lần lượt cho các năm 2006 và 2007.
+ Nghề sản xuất giống cá tra trong vùng gần như đã được xã hội hóa. Số lượng cơ sở sản xuất và ương giống liên tục tăng nên đã sản xuất và đáp ứng đủ nhu cầu nuôi hiện tại. Số lượng cá giống từ 32 triệu năm 2000 tăng lên 1.926 triệu con giống vào năm 2007, tăng gấp 60 lần.
+ Việc phát triển nuôi cá tra còn giải quyết một lượng lao động đáng kể tạo thu nhập và góp phần duy trì bảo vệ trật tự an ninh. Đến năm 2007 thu hút được trên 100.000 lao động, tăng gấp 15,7 lần so với năm 1997. Trong 7 tháng đầu năm 2008 số lượng lao động trong sản xuất cá tra là 105.535 người.
+ Các chính sách có liên quan đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đã tác động tích cực đến sự phát triển. Ví dụ Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg, ngày 24 tháng 6 năm 2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng; hay chính sách cho các hộ nông dân và doanh nghiệp vay vốn để tiêu thụ cá trong năm 2008.
- Những mặt hạn chế, tồn tại cần khắc phục
+ Việc phát triển nuôi cá tra tự phát, tràn lan, phát triển sâu trong nội đồng, làm cho nhiều hộ nuôi bị thiệt hại lớn về mặt tài chính trong năm 2008. Dự án “Quy hoạch phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã tiến hành lập từ khá lâu nhưng hiện tại vẫn chưa hoàn thành, nên không có cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp kịp thời và có nhiều bất cập trong công tác chỉ đạo, tổ chức quản lý sản xuất cho từng địa phương trong vùng.
+ Đối với nghề nuôi cá tra hầu như chưa có một cơ chế chính sách rõ ràng, cụ thể. Các chính sách như thuê dài hạn diện tích mặt đất, mặt nước; thu hút các nhà đầu tư, nguồn vốn đầu tư; tín dụng ngân hàng; đăng ký quyền sử dụng đất; hợp tác, liên kết các tổ chức trong và ngoài nước; bảo vệ môi trường, cấp phép nuôi cá tra khi thực hiện đúng cam kết về quy trình nuôi, hệ thống xử lý nước thải,… đó là những văn bản pháp quy, phải đích thực, cụ thể để vận dụng một cách có hiệu quả nhằm dung hòa lợi ích của người nuôi cá và của toàn xã hội.
+ Vấn đề chỉ đạo quản lý của các cấp trong ngành từ Trung ương đến địa phương trong việc sản xuất cá tra ở ĐBSCL còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa đi sâu sát với thực tế, chưa phát huy được vai trò trách nhiệm với cộng đồng dân cư nuôi cá trong vùng. Những giải pháp đưa ra mang tính tình thế; chưa có tầm nhìn chiến lược cho sản phẩm cá tra trong vùng. Cần vận dụng quy trình “đồng quản lý nghề cá” trong nuôi cá tra nói riêng và các lĩnh vực thủy sản nói chung ở ĐBSCL để nâng cao trách nhiệm của cộng đồng người dân.
+ Công nghệ, kỹ thuật nuôi còn rất đơn giản, lạc hậu; chưa ứng dụng hiệu quả khoa học kỹ thuật tiên tiến. Công tác chuyển giao quy trình kỹ thuật của Viện, Trường còn mang tính đối phó, thiếu thuyết phục người dân vẫn duy trì kỹ thuật nuôi truyền thống và nâng cao sản lượng nhờ kinh nghiệm sản xuất là chủ yếu.
+ Với những ưu đãi của thiên nhiên về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi thủy sản ở ĐBSCL, một lần nữa người nuôi bắt môi trường và toàn xã hội phải gánh chịu sự xả thải trực tiếp các chất thải rắn và lỏng ra môi trường sông nước. Về lâu dài, đây chính là nguyên nhân gây tác động trực tiếp lại nghề nuôi cá tra trong vùng ĐBSCL và hậu quả là phát sinh dịch bệnh có thể lây lan ra toàn vùng. Như vậy, người nuôi phải cần phải có ý thức, trách nhiệm tuân thủ nghiêm ngặt theo các tiêu chuẩn quy trình nuôi về xử lý nguồn nước trước khi xả thải ra môi trường bên ngoài.
+ Trong vùng chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa người sản xuất, doanh nghiệp dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm của người nuôi ở nhiều thời điểm gặp nhiều khó khăn.
+ Do chạy theo diện tích và mật độ thả nuôi nên người dân ồ ạt xây dựng trại sản xuất và ương giống nhằm để đáp ứng với nhu cầu hiện tại về số lượng và thu lợi nhuận. Chính vì vậy chất lượng con giống có chiều hướng suy giảm trong những năm gần đây với những biểu hiện như: chậm lớn, tỷ lệ sống thấp, dễ mắc bệnh, suy thoái cận phối…. Nên trong quy hoạch cần phải xác định tiềm lực, lợi thế của những tỉnh cho ra chất lượng giống tốt, có uy tín, nhãn mác để cung cấp cho người nuôi đạt năng suất, hiệu quả cao.
(2). Chế biến và tiêu thụ sản phẩm cá tra
a). Thuận lợi
Nguồn nguyên liệu dồi dào: sản lượng cá tra nuôi tăng trưởng rất nhanh trong thời gian gần đây, đạt trên 1 triệu tấn vào năm 2007, chất lượng nguyên liệu được thị trường thế giới chấp nhận.
Hệ thống nhà máy chế biến cá tra có dây chuyền thiết bị hiện đại ngang tầm khu vực và bước đầu tiếp cận với thế giới. Công suất chế biến lớn có thể thu mua hết nguyên liệu của nông dân.
Lực lượng lao động thất nghiệp ở nhiều địa phương là nguồn lao động dồi dao của ngành, chi phí lao động thấp.
Cá tra có giá trị xuất khẩu rất cao, thu về gần 1 tỷ USD năm 2007 và hiện mặt hàng này đã có mặt ở trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
b). Những trở ngại
Giá cả bấp bênh dẫn đến chưa ổn định sản xuất;
Khó khăn về kiểm soát chất lượng và truy nguồn gốc sản phẩm;
Tranh chấp thương mại, kiện bán phá giá;
Hệ thống thông tin chuyên ngành chưa phục vụ kịp thời cho công tác dự báo thị trường cũng như quản lý vùng nuôi;
Khó khăn khách quan như lạm phát, lãi suất, tỷ giá,...
c). Nguyên nhân của những khó khăn
Khó khăn thứ nhất về giá cả bấp bênh dẫn đến sản xuất chưa ổn định là do thiếu sự liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ. Hợp đồng cung cấp và thu mua sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông dân nuôi cá tuy được ký kết nhưng không hiệu quả do chưa có chế tài cụ thể.
Công tác kiểm soát chất lượng và truy nguồn gốc sản phẩm gặp rất nhiều khó khăn do nghề nuôi phát triển manh mún, tự phát, không theo quy hoạch và chưa quản lý được vùng nuôi.
Bất lợi về lạm phát trong nước cao: tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn nhiều so với thế giới (những nước nhập khẩu cá tra) dẫn đến chi phí đầu vào tăng trong khi đầu ra là giá thế giới (ít biến động). Như vậy lợi nhuận giảm xuống và doanh nghiệp hạn chế thu mua cá của nông dân.
Lãi suất thị trường trong thời gian qua tăng trưởng nóng, trong khi tỷ lệ vốn vay ngắn hạn của doanh nghiệp cao dẫn tới nhiều rủi ro. Doanh nghiệp không đầu tư sản xuất mạo hiểm.
PHẦN IV
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |