BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang41/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   ...   67

Trả lời (tại công văn số 6178/BKH-TH ngày 25/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư):

Về đầu tư di dãn dân ra khu vực biên giới nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, chủ quyền quốc gia được Chính phủ xác nhận là nhiệm vụ quan trọng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 24/3/2005 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt – Trung và Quyết định số 160/2005/QĐ-TTg ngày 24/3/2005 về việc phê duyệt Quy hoạch ổn định dân cư các xã biên giới Việt Trung đến năm 2010 với quan điểm chỉ đạo giải quyết ổn định dân cư biên giới thực hiện đồng bộ trên các đời sống sinh hoạt, sản xuất, hạ tầng thiết yếu,... để nhân dân ổn định cuộc sống, yên tâm sản xuất.

Do các tỉnh biên giới đều là các tỉnh nghèo do đó nguồn vốn đầu tư di dân ra biên giới chủ yếu được cân đối từ các nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương, vốn các chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn, 5 triệu ha rừng, Chương trình 135, Quyết định 134, Quyết định 120, Nghị quyết 37 và vốn cân đối ngân sách địa phương. Nội dung thực hiện các công việc sau: đầu tư hạ tầng thiết yếu đường giao thông, thủy lợi nhỏ, làm đường ô tô đến trung tâm xã, đường ra biên giới, đường tuần tra biên giới, cấp điện, nước sinh hoạt, chợ, nhà văn hóa cộng đồng thôn, bản, rà phá bom mìn, khai hoang đất sản xuất, đất ở, làm nhà ở, đào tạo cán bộ trồng, chăm sóc rừng, trợ cước trợ giá, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm,v.v... Bình quân trên địa bàn mỗi xã biên giới hàng năm đã được đầu tư từ 4 – 5 tỷ đồng, về cơ bản các cơ chế, chính sách thực hiện trên địa bàn các tỉnh biên giới đều đã được thực hiện khá đồng bộ, từ nhà ở, đến đời sống sinh hoạt nhu yếu phẩm, hạ tầng thiết yếu, giáo dục, y tế, đất sản xuất, đất ở, đào tạo cán bộ...

Đối với tỉnh Cao Bằng, kế hoạch năm 2008 ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu cho tỉnh Cao Bằng khoảng 485 tỷ, để thực hiện các mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng của tỉnh. Ngoài ra, nguồn ngân sách bổ sung hàng năm cũng đã được Trung ương đặc biệt quan tâm, riêng năm 2008 trong điều kiện ngân sách có nhiều khó khăn nhưng ngân sách Trung ương đã bổ sung 120,260 tỷ đồng cho tỉnh Cao Bằng, trong đó, để thực hiện di dân biên giới phục vụ phân giới cắm mốc là 95,1 tỷ đồng, thực hiện quyết định số 134 là 5,16 tỷ đồng, hỗ trợ đầu tư hạ tầng giao thông thủy lợi, truyền hình tiếng dân tộc là 20 tỷ đồng, ngoài ra các nguồn thực hiện Chương trình 135 cũng đã được bổ sung với số vốn 89,573 tỷ đồng cho đầu tư hạ tầng xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn, phát triển sản xuất, đào tạo cán bộ, và thực hiện các chính sách vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn để bố trí nguồn vốn tập trung thực hiện mục tiêu di dãn dân ra khu vực biên giới theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ cho tỉnh Cao Bằng.

35/ Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét điều chỉnh một số nội dung tại Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006:

- Tại Điều 23 và Điều 24 về tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp: đề nghị bổ sung tiêu chuẩn Bước đánh giá sơ bộ và nêu rõ các điều kiện tiên quyết để loại bỏ hồ sơ dự thầu trong Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu.

- Nên bỏ điểm d, khoản 2, Điều 28: vì giá ghi trong đơn dự thầu là cơ sở pháp lý.

- Đề nghị bổ sung quy định rõ ràng về nguyên tắc để xét năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu trong trường hợp nhà thầu là liên danh.

- Giảm bớt thủ tục đối với một số gói thầu quy mô nhỏ, như: gói thầu tư vấn dưới 200 triệu đồng, gói thầu xây lắp dưới 3 tỷ đồng, các gói thầu chỉ định nhằm giảm bớt thời gian các khâu, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án.

Trả lời (tại công văn số 6176/BKH-TH ngày 25/8/2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư):

Hiện tại, Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/11/2006 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng đã được thay thế bằng Nghị định số 58/2008/ NĐ-CP ngày 05/5/2008 (58/CP). Theo đó, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp được thể hiện tại Điều 25 và Điều 26 của Nghị định 58/CP.

Trình tự đánh giá sơ bộ và đánh giá năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu được thể hiện tại khoản 1, Điều 29 của Nghị định 58/CP và được hướng dẫn cụ thể tại các quyết định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành Mẫu hồ sơ mời sơ tuyển số 937/2008/QĐ-BKH ngày 23/7/2008 và Mẫu Báo cáo đánh giá Hồ sơ dự thầu đối với gói thầu mua sắm hàng háo, xây lắp số 1102/2007/QĐ-BKH ngày 18/9/2007.

Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Nghị định 111/CP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung trong đó có quy định về gói thầu quy mô nhỏ (tại Điều 33 của Nghị định 58/CP) và quy trình chỉ định thầu đơn giản đối với các gói thầu có giá dưới 150 triệu đồng (tại khoản 10, Điều 41 của Nghị định 58/CP).

Các nội dung khác mà đại biểu Quốc hội nêu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tiếp thu để nghiên cứu, sửa đổi trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Đấu thầu cũng như các văn bản hướng dẫn trong thời gian tới.

BỘ CÔNG THƯƠNG

1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: “Đề nghị Bộ Công thương và Tập đoàn Điện lực đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình thủy điện trên địa bàn Đăk Lăk, tập trung ưu tiên các công trình đang bước vào giai đoạn cuối”.

Trả lời (tại công văn số 6183/BCT-KH ngày 18 tháng 7 năm 2008):

Về chủ trương Bộ Công thương đang tích cực chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư nói chung và các dự án nguồn điện nói riêng. Theo tiến độ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quy hoạch điện 6, trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk, Tập đoàn Điện lực Việt Nam đang triển khai đầu tư 02 dự án thuỷ điện, đó là:

- Nhà máy thuỷ điện Buôn Khuốp, công suất 2x140 MW, dự kiến tổ máy 1 phát điện vào tháng 11 năm 2008, tổ máy 2 phát điện vào cuối tháng 1 năm 2009.

- Nhà máy thuỷ điện Srêpok 3 , công suất 2x110 MW, dự kiến tổ máy 1 phát điện vào cuối tháng 12 năm 2009, tổ máy 2 phát điện vào tháng 3 năm 2010.



2/ Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: “Đề nghị đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cấp điện cho 315 thôn, buôn chưa có điện, đồng thời sớm có chủ trương tiếp tục đầu tư đối với 365 thôn, buôn còn lại và 210 thôn, buôn cần cải tạo lại lưới điện giai đoạn 2, nghiên cứu hỗ trợ tỉnh đầu tư phát triển một số lĩnh vực như: sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến cà phê, nông, lâm sản và phân bón với công nghệ tiên tiến”.

- Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: “Hiện nay, tỉnh Gia Lai còn 728 thôn, buôn, làng chưa có điện, nhưng cử tri được biết Chính Phủ và Tập đoàn Điện lực Việt Nam có dự án đầu tư bắc điện cho 331 thôn, buôn, làng; còn 397 thôn, buôn, làng vẫn chưa có điện. Trong khi đó, ngân sách địa phương còn rất nhiều khó khăn nên không thể đầu tư bắc điện cho 397 thôn, buôn, làng này. Mặt khác; phần lớn số thôn, buôn, làng được đầu tư điện có vị trí xen kẽ hoặc với số thôn, buôn, làng chưa có điện nên có thể gây ra sự so sánh, bức xúc trong nhân dân và kẻ xấu lợi dụng kích động. Đề nghị Bộ trình Chính phủ quan tâm sớm đầu tư điện cho tất cả thôn, buôn, làng của tỉnh Gia Lai chưa có điện”.

Trả lời (tại công văn số 6183/BCT-KH và Công văn số 6184/BCT-KH ngày 18 tháng 7 năm 2008):

Thực hiện mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đề ra là “phấn đấu đến năm 2010 có 95 % và năm 2015 có 100% các xã có điện”, Bộ Công thương đã và đang tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác quản lý và đầu tư lưới điện nông thôn. Nhờ những chính sách, cơ chế của Chính phủ, chương trình cấp điện cho nông thôn đã đạt được những thành tích đáng kể: Đến 31/12/2007, đã có 545/545 huyện có điện lưới và điện tại chỗ (đạt 100%), 8.830/9.108 xã (đạt 96,95%) và 13.039.239/13.962.582 hộ dân nông thôn (đạt 93,39%) sử dụng điện lưới quốc gia. Riêng đối với vùng Tây Nguyên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 109/TB-VPCP ngày 24 tháng 5 năm 2004 về việc tạo tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội của các tỉnh Tây Nguyên, Bộ Công nghiệp (trước đây đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lập Chương trình đầu tư cấp điện cho 1.338 thôn buôn dân tộc chưa có điện với khoảng 116 nghìn hộ dân của 5 tỉnh Đăk Lăk, Gia Lai, Đăk Nông, Kon Tum, Lâm Đồng (trong đó, riêng Đắc Lăk là 315 thôn buôn). Dự án cấp điện cho các thôn buôn Tây Nguyên chưa có điện đã được Chính phủ phê duyệt Báo cáo đầu tư tháng 4/2006 với tổng mức đầu tư là 1.094 tỷ đồng sử dụng 85% vốn ngân sách, 15% vốn của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và giao cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam làm chủ đầu tư, thời gian thực hiện 2006 - 2009. Đây là một dự án lớn gồm 5 dự án thành phần mà mỗi tỉnh Tây nguyên là một dự án, có địa bàn thực hiện trải khắp các vùng sâu vùng xa thuộc 5 tỉnh Tây Nguyên. Sau khi dự án hoàn thành sẽ nâng tỷ lệ số hộ dân được cấp điện khu vực Tây Nguyên lên trên 90%.

Tuy Báo cáo đầu tư được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 4/2006, nhưng để dự án triển khai còn phải lập và phê duyệt các dự án đầu tư của từng tỉnh; thiết kế kỹ thuật thi công; tổ chức đấu thầu mua sắm vật tư; đấu thầu xây lắp; sau đó mới thực hiện thi công xây lắp. Nhận thức sâu sắc ý nghĩa rất quan trọng của Dự án, Bộ Công thương đã chỉ đạo EVN hết sức khẩn trương hoàn tất các thủ tục để khởi công Dự án. Do đó, tháng 3 năm 2008 đã khởi công xây dựng tại huyện Buôn Đôn tỉnh Đăk Lăk, đầu tháng 5 năm 2008 đã khởi công xây dựng tại huyện Đức Trọng tỉnh Lâm Đồng. Dự kiến từ quý III/2008 sẽ khởi công xây dựng ở tất cả các tỉnh Tây Nguyên còn lại.

Với tinh thần khẩn trương thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, có thể khẳng định dự án đang triển khai theo đúng tiến độ yêu cầu. Tuy nhiên, do thực tế hiện nay phát sinh một số yếu tố có thể ảnh hưởng tới tiến độ là:

- Khả năng cấp vốn từ ngân sách nhà nước cho dự án: Năm 2008 ngân sách nhà nước mới bố trí 100 tỷ đồng (bằng khoảng 40% so với nhu cầu), nếu năm 2008, ngân sách cấp vốn không đủ sẽ ảnh hưởng đến tiến độ trong năm nay và năm 2009 là năm kết thúc dự án.

- Mặt bằng giá tăng làm cho tổng mức vốn yêu cầu cho dự án đã vượt quá mức đã được phê duyệt, Tập đoàn đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép sẽ điều chỉnh tổng mức đầu tư để không phải cắt giảm khối lượng.

- Tăng giá đột biến của các loại vật tư thiết bị từ cuối năm 2007, một số nhà thầu có thể bỏ thầu, không ký hợp đồng hoặc tạm dừng thi công chờ điều chỉnh giá hợp đồng. Điều này có thể làm cho dự án bị chậm do phải đấu thầu lại.

Để dự án được thực hiện đúng tiến độ, đạt hiệu quả cao như mục tiêu của Chính phủ đề ra, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của cử tri các tỉnh Tây Nguyên, Bộ Công thương rất mong nhận được sự phối hợp đồng bộ kịp thời từ Uỷ ban nhân dân tỉnh các tỉnh, các Bộ, ngành liên quan. Đối với các thôn buôn không nằm trong dự án như ý kiến kiến nghị của cử tri Đắk Lăk, Bộ Công thương đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh các tỉnh báo cáo và xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về khả năng cung cấp vốn để đầu tư cho các thôn buôn còn lại.



3/ Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị: “Đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương chỉ đạo việc bán điện sinh hoạt trực tiếp tới từng hộ dân được triển khai nhanh chóng nhằm giảm giá điện và nâng cao chất lượng điện”.

Cử tri tỉnh Hưng Yên kiến nghị: “Đề nghị trợ giá điện phục vụ sản xuất nông nghiệp cho bà con nông dân, đồng thời cho các hộ gia đình sống ở vùng nông thôn được hưởng giá điện sinh hoạt như các hộ sống ở thị xã, thành phố”.

Trả lời (tại công văn số 6137/BCT-KH và Công văn số 6138/BCT-KH ngày 17 tháng 7 năm 2008):

Chính phủ và Bộ Công thương luôn nhận thức việc phát triển điện tại khu vực nông thôn là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu về công bằng xã hội nên đã xây dựng chính sách tổng thể cho điện khí hoá nông thôn, từ khả năng tạo vốn đầu tư đến xây dựng, quản lý vận hành, kinh doanh, thu hồi vốn. Thực hiện phương châm nhà nước, chính quyền địa phương và nhân dân cùng đóng góp đưa điện về nông thôn, đến nay công cuộc đưa điện về nông thôn đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, đã có 545/545 huyện có điện lưới và điện tại chỗ (đạt 100%), 8.830/9.108 xã (đạt 96,95%) và 13.039.239/13.962.582 hộ dân nông thôn (đạt 93,39%) sử dụng điện lưới quốc gia. Tính chung khu vực thành thị và nông thôn, cả nước có 18.614.021/19.576.031 hộ dùng điện đạt tỷ lệ 95,09%. Hiện có 3.807/8830 xã điện lực bán điện trực tiếp đến tận hộ chiếm 43%, còn lại 57% xã có điện do các tổ chức khác bán điện.

Giá bán điện được quy định theo các hình thức bán điện sau:

- Ngành điện bán điện trực tiếp tới các hộ dân, theo đó giá bán điện cho các hộ dân được áp dụng giá điện sinh hoạt bậc thang theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

- Các tổ chức quản lý điện địa phương bán điện tới các hộ dân nông thôn thì áp dụng Khoản b Điều 3 Quyết định số 276/QĐ-TTg ngày 4/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định “Giá trần bán lẻ điện sinh hoạt nông thôn là 700đ/kwh”.

Theo Điều 62 của Luật Điện lực quy định giá bán lẻ điện ở khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo áp dụng theo biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Giá bán lẻ điện sinh hoạt tại khu vực mà việc đầu tư và hoạt động điện lực không có hiệu quả kinh tế thì do Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp tỉnh quy định, nhưng không được ngoài khung giá trong biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng phê duyệt.

Để giảm giá bán điện cho các hộ dân nông thôn, Bộ Công thương đã quan tâm chỉ đạo chuyển đổi mô hình bán điện nông thôn từ hình thức cai thầu điện sang các hình thức doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã. Sở Công thương ở các địa phương thường xuyên mở các lớp tập huấn về kỹ thuật, quản lý cho những người tham gia quản lý điện nông thôn... Nhờ đó đến nay khoảng 99,3% số xã có giá bán điện sinh hoạt thấp hơn giá trần 700 đ/kwh, chất lượng điện khu vực nông thôn cũng được cải thiện đáng kể.

Về kiến nghị của cử tri tỉnh Hưng Yên về vấn đề giá điện cho nông nghiệp:

Theo Quyết định số 276/QĐ-TTg ngày 4/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ về giá bán điện quy định giá bán điện đối với bơm nước tưới tiêu cho lúa, rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày xen canh vẫn không thay đổi so với Quyết định số 215/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/12/2004 quy định giá bán điện đối với bơm nước tưới tiêu cho lúa, rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày xen canh theo hai cấp điện áp và theo thời gian sử đụng điện trong ngày, cụ thể như sau:






ĐV tính

Cấp điện áp ≥ 6kv

Cấp điện áp < 6kv

Giờ bình thường

Giờ thấp điểm

Giờ cao điểm


đ/kwh

đ/kwh


đ/kwh

600

240


950

630

250


1000

Trong đó giá điện trong giờ bình thường và giờ thấp điểm đều thấp hơn giá thành sản xuất điện và thấp hơn giá trần điện tiêu dùng ở nông thôn. Riêng giá bán điện trong giờ cao điểm (từ 18 - 22 giờ) có quy định cao nhằm hạn chế sử dụng điện vào những giờ mà ngành điện phải huy động những nguồn điện có giá thành rất cao.

Đồng thời, khi so sánh với giá bán điện cho các ngành sản xuất khác ở cùng cấp điện áp và cùng thời gian sử dụng, giá bán điện cho sản xuất nông nghiệp đều thấp hơn, cụ thể: Ở cấp điện áp thấp hơn 6kv, trong giờ bình thường giá bán cho sản xuất nông nghiệp bằng 70,39% giá bán cho các ngành sản xuất; bằng 61,16% giá bán cho cơ quan hành chính sự nghiệp.



4/Cử tri tỉnh Hoà Bình kiến nghị:

- Đề nghị ngành điện chỉ đạo thanh toán hết chi phí đầu tư đường điện 0,4 kv do dân đầu tư.



- Đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương chỉ đạo việc bán điện sinh hoạt trực tiếp tới từng hộ dân được triển khai nhanh chóng nhằm giảm giá điện và nâng cao chất lượng điện.

- Cử tri ngành điện tỉnh kiến nghị: hiện nay nguy cơ mất mát an toàn về điện trong khu dân cư là rất lớn do đường dây tự lắp, chất lượng không đảm bảo, giá bán điện quá cao, ngành điện không có khả năng đầu tư đường điện đến các khu dân cư. Đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương tiếp tục đầu tư nguồn vốn ưu đãi ngành điện, nhằm giải quyết một phần khó khăn, đảm bảo an toàn về điện sử dụng ở nông thôn miền núi”.

Trả lời (tại công văn số 6185/BCT-KH ngày 18 tháng 7 năm 2008):

Chính phủ và Bộ Công thương luôn nhận thức việc phát triển điện tại khu vực nông thôn là hết sức cần thiết để đáp ứng yêu cầu về công bằng xã hội nên đã xây dựng chính sách tổng thể cho điện khí hoá nông thôn, từ khả năng tạo vốn đầu tư đến xây dựng, quản lý vận hành, kinh doanh, thu hồi vốn. Thực hiện phương châm nhà nước, chính quyền địa phương và nhân dân cùng đóng góp đưa điện về nông thôn, đến nay công cuộc đưa điện về nông thôn đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, đã có 545/545 huyện có điện lưới và điện tại chỗ (đạt 100%), 8.830/9.108 xã (đạt 96,95%) và 13.039.239/13.962.582 hộ dân nông thôn (đạt 93,39%) sử dụng điện lưới quốc gia. Tính chung khu vực thành thị và nông thôn, cả nước có 18.614.021/19.576.031 hộ dùng điện đạt tỷ lệ 95,09%. Hiện có 3.807/8830 xã điện lực bán điện trực tiếp đến tận hộ chiếm 43%, còn lại 57% xã có điện do các tổ chức khác bán điện.



- Về vấn đề hoàn trả kinh phí đầu tư lưới hạ áp 0,4kv.

Trong thời gian qua, việc đầu tư lưới điện nông thôn được thực hiện từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Từ khi Quyết định 22/1999/QĐ-TTg ngày 13 tháng 02 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực, trách nhiệm đầu tư công trình điện nông thôn được Nhà nước quy định cụ thể như sau:

- Tổng Công ty Điện lực Việt Nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN) đầu tư đường dây trung áp và trạm biến áp.

- Lưới điện hạ áp: Chính quyền các địa phương đầu tư từ các nguồn vốn huy động của địa phương.

- Nhánh rẽ hạ áp từ đường trục hạ áp vào nhà dân do nhân dân tự đầu tư.

Thực hiện Quyết định 22/1999/QĐ-TTg, Bộ Công thương đã chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam nghiêm túc triển khai việc tiếp nhận và hoàn trả vốn lưới điện trung áp nông để quản lý vận hành, đến nay công việc tiếp nhận lưới điện trung áp đã được EVN hoàn thành trên toàn quốc.

Đối với phần lưới điện hạ áp nông thôn, thực hiện theo nguyên tắc tổ chức nào đầu tư tổ chức đó sẽ quản lý vận hành bán điện. Hiện tại trên địa bàn tỉnh Hoà Bình có 2 loại hình tổ chức quản lý lưới điện hạ áp chính: Tập đoàn Điện lực Việt Nam quản lý bán điện tại 95 xã sau khi đầu tư đồng bộ cả phần lưới điện trung và hạ áp, còn lại 140 xã hiện do các Hợp tác xã quản lý với việc hình thành lưới điện hạ áp từ nhiều loại nguồn vốn khác nhau trong đó bao gồm cả phần vốn do dân đóng góp. Do đó, đề nghị cử tri làm rõ tại địa phương nào và hiện do tổ chức nào quản lý bán điện để Bộ Công thương chỉ đạo EVN kiểm tra xử lý.

Về vấn đề giá điện sinh hoạt ở nông thôn:

Hiện nay, việc bán điện sinh hoạt cho các hộ dân trong cả nước được thực hiện như sau:

- Ngành điện bán điện trực tiếp tới các hộ dân: theo đó giá bán điện cho các hộ dân được áp dụng giá điện sinh hoạt bậc thang theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;

- Các tổ chức quản lý điện địa phương bán điện tới các hộ dân nông thôn thì áp dụng Khoản b Điều 3 Quyết định 276/QĐ-TTg ngày 4/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định “Giá trần bán lẻ điện sinh hoạt nông thôn là 700đ/kwh”.

Để giảm giá bán điện cho các hộ dân nông thôn, Bộ Công thương đã ban hành nhiều chính sách điện nông thôn, như: chuyển đổi mô hình bán điện nông thôn sang các hình thức doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã, đầu tư lưới điện nông thôn theo đúng kỹ thuật để giảm tổn thất. Sở Công thương ở các địa phương thường xuyên mở các lớp tập huấn về kỹ thuật, quản ký cho những người tham gia quản ký điện nông thôn. Nhờ đó đến nay khoảng 99,3% số xã có giá bán điện sinh hoạt thấp hơn giá trần 700đ/kwh, chất lượng điện khu vực nông thôn cũng được cải thiện đáng kể.

Về vấn đề ưu tiên nguồn vốn đầu tư điện nông thôn:

Thực hiện mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đề ra là “phấn đấu đến năm 2010 có 95% và năm 2015 có 100% các xã có điện”, Bộ Công thương đã và đang tiếp tục chỉ đạo tăng cường công tác quản lý và đầu tư lưới điện nông thôn, thông qua các Dự án Năng lượng nông thôn (REI, REII, RD) vay vốn của WB. Riêng đối với tỉnh Hoà Bình đã được tiếp nhận một khối lượng vốn lớn cho việc đầu tư lưới điện nông thôn, cả phần trung áp và hạ áp. Hiện nay Bộ Công thương đang cùng cho Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) tìm khả năng để ADB có thể tài trợ cho tỉnh Hoà Bình trong việc đầu tư các trạm thuỷ điện nhỏ tại các xã không có khả năng nối được vào lưới điện quốc gia trong thời gian tới.



5/Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị:

- Cử tri đề nghị Bộ chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt nam không tiết giảm công suất, sản lượng điện đối với Gia Lai khi hệ thống điện quốc gia thiếu hụt công suất, sản lượng điện trong mùa khô. Bởi lẽ: (1) nhu cầu công suất, sản lượng điện của tỉnh chiếm tỷ trọng không đáng kể so với toàn hệ thống; (2) điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, 45% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, thụ hưởng phúc lợi xã hội còn hạn chế; (3) việc cắt giảm điện gây khó khăn cho địa phương trong việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội; (4) vì nguồn điện năng của cả nước, nhân dân trong tỉnh đã chịu hy sinh đất đai, ruộng vườn, nhà cửa để tạo điều kiện cho nhà nước xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn nhỏ.



- Đề nghị Bộ mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ điều hành mỏ, để việc thực hiện tiêu chuẩn giám đốc điều hành mỏ ở địa phương thuận lợi theo quy định của Pháp luật khoáng sản”.

Trả lời (tại Công văn số 6184/BCT-KH ngày 18 tháng 7 năm 2008)

- Về vấn đề thứ nhất:

Trước tiên, Bộ Công thương xin cảm ơn nhân dân Gia Lai và xin được chia sẻ với những khó khăn của Gia Lai. Tuy nhiên do hệ thống điện Việt Nam hiện đang có sự chênh lệch công suất rất lớn (từ 1,5 đến 2 lần) giữa giờ cao điểm (18 - 22h) và giờ thấp điểm (22h-4h) mà nguyên nhân chính là do nhu cầu sử dụng điện sinh hoạt rất lớn, chiếm tỷ trọng trên 40% trong cơ cấu điện thương phẩm, lại tập trung sử dụng vào giờ cao điểm (18-22h) làm cho hệ thống điện thường xuyên thiếu công suất từ 300-500MW, có thời điểm trong tháng 5 vừa qua lên tới trên 1000MW. Trong tình hình nhu cầu sử dụng điện liên tục tăng nhanh như hiện nay và hệ thống điện luôn phải vận hành hết sức căng thẳng như trên nên để đảm bảo an toàn hệ thống, tránh quá tải gây sự cố, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) bắt buộc phải áp dụng biện pháp điều tiết nhu cầu để giành ưu tiên cho sản xuất và những tiêu dùng thiết yếu. Đây là điều hoàn toàn không mong muốn của cả nhà cung cấp và cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy Bộ Công thương rất mong được cử tri cả nước thông cảm, chia sẻ. Nhằm giảm thiểu thiệt hại do ngừng cung cấp điện, Bộ Công thương đã chỉ đạo EVN kiểm tra và điều chỉnh phân bổ công suất để đảm bảo điện phục vụ sản xuất, ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội và những sinh hoạt thiết yếu của nhân dân các tỉnh Tây Nguyên, đồng thời phối hợp với các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động sử dụng điện tiết kiệm theo Chỉ thị số 19/2005/CT-TTg ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện tiết kiệm trong sử dụng điện.

- Về vấn đề thứ hai:

Theo Nghị định số 160/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khoáng sản và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật khoáng sản, tại khoản 2, điều 19 đã quy định các tiêu chuẩn của Giám đốc điều hành mỏ.

Để Giám đốc điều hành mỏ đạt tiêu chuẩn về năng lực quản lý điều hành việc bồi thường về nghiệp vụ cho Giám đốc điều hành mỏ là cần thiết. Vì vậy Bộ Công thương nhất trí với đề nghị của cử tri và sẽ giải quyết theo hướng sau:

- Bộ Công thương yêu cầu Sở Công thương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương biên soạn và trình duyệt Chương trình bồi dưỡng.

- Các Sở Công thương của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào nội dung Chương trình bồi dưỡng đã được Bộ phê duyệt, tổ chức mở lớp đào tạo các khoá học bồi dưỡng và cấp chứng chỉ cho học viên có nhu cầu trên địa bàn của tỉnh mình.

6/ Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị:

Đề nghị Bộ Công thương làm việc với Tổng Công ty giấy xem xét, điều chỉnh giá gỗ nguyên liệu giấy mua của các lâm trường, để các lâm trường có cơ sở điều chỉnh giá mua gỗ nguyên liệu từ các hộ gia đình trồng rừng. Hiện nay, giá mua của các lâm trường thấp hơn nhiều so với giá thị trường.



Đề nghị xem xét lại việc cung cấp điện của ngành điện. Hiện tại việc cắt điện ảnh hưởng lớn đề sản xuất và đời sống của nhân dân, đặc biệt trong bối cảnh lạm phát hiện nay”.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương