ĐẠi học huế trưỜng đẠi học ngoại ngữ


CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ



tải về 2.02 Mb.
Chế độ xem pdf
trang13/33
Chuyển đổi dữ liệu28.10.2022
Kích2.02 Mb.
#53671
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   33
TOMTATLA
Collocation, ĐẢo NGỮ, Collocation2, Reading Tips
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 
5.1. Tóm tắt kết quả chính 
Kết quả thực nghiệm cho thấy nhóm tri nhận có điểm trung bình (27.00) 
cao hơn điểm trung bình của nhóm truyền thống (22.36) trong bài thi sau thực 
nghiệm mặc dù cả hai nhóm có điểm số khá bằng nhau trong bài thi trước thực 
nghiệm (điểm trung bình lần lượt là 20.04 and 20.28). Đối với nghĩa không gian, 
điểm của nhóm tri nhận và nhóm truyền thống tăng thêm lần lượt là 4.36 and 
0.24. Đối với nghĩa ẩn dụ, điểm tăng của hai nhóm này lần lượt là 2.60 và 1.84. 


14 
Kết quả kiểm định cho thấy điểm chênh lệch của hai nhóm trong bài thi sau thực 
nghiệm là có nghĩa, nhưng điểm chênh lệch giữa hai nhóm trong bài thi trước 
thực nghiệm là không đáng kể. Giá trị Cronbach’s Alpha trên .7. 
Nhìn chung, kết quả thực nghiệm xác nhận kết quả các nghiên cứu trước 
đây. Nhóm thực nghiệm có điểm vượt trội hơn nhóm truyền thống. Tuy nhiên, 
mặc dù đều vận dụng ngôn ngữ học tri nhận vào dạy giới từ, các nghiên cứu này 
vận dụng các quan điểm khác nhau trong ngôn ngữ học tri nhận. Những khác 
nhau về cách thiết kế bài dạy, bao gồm mô hình dạy học, các bước dạy học, và 
các giới từ trong bài dạy có thể là lý do làm cho chênh lệch về kết quả thực 
nghiệm. 
Chênh lệch về điểm số giữa hai nhóm cũng được tìm thấy trong mỗi phần 
bài thi. Trong bài thi sau thực nghiệm, nhóm tri nhận đạt 7.84 và nhóm truyền 
thống đạt 6.76 ở phần hoàn thành câu. Ở phần trắc nghiệm, điểm của hai nhóm 
này lần lượt là 10.48 và 10.28 trong bài thi trước thực nghiệm và 12.96 và 11.04 
trong bài this au thực nghiệm. Ở phần hoàn thành bài viết, điểm của hai nhóm 
tăng thêm lần lượt là 2.04 và .52. Kết quả kiểm định cho thấy những chênh lệch 
điểm này là có nghĩa, <.05. 
Phân tích điểm của từng cá nhân trong hai nhóm cho thấy đa số các sinh 
viên nhóm tri nhận có điểm tăng thêm trong nhóm cao (lớn hơn 10) và nhóm 
trung bình (từ 4 đến 10), tuy nhiên đa số các sinh viên nhóm truyền thống có số 
điểm tăng thêm trong nhóm trung bình và nhóm thấp (thấp hơn 4). Trong mỗi 
cặp (một sinh viên nhóm tri nhận và một sinh viên nhóm truyền thống) trong 
bước chọn mẫu, sinh viên nhóm tri nhận cho thấy điểm cao hơn sinh viên nhóm 
truyền thống. Ví dụ, sinh viên truyền thống có điểm tăng cao nhất là Mai (T23) 
đạt 10 điểm, nhưng bạn cùng cặp Long (C6) tăng thêm 14 điểm. 


15 
Các biến được xem là có ảnh hưởng đến kết quả thực nghiệm cũng được 
khảo sát qua bảng hỏi trước và sau nghiên cứu nhằm làm tăng độ tín cậy và giá 
trị của nghiên cứu. Mặc dù khảo sát cho thấy sinh viên nhóm truyền thống có 
tiếp xúc với tiếng Anh nhiều hơn không đáng kể so với nhóm tri nhận, nhóm 
truyền thống đạt điểm thấp hơn nhóm truyền thống trong bài thi sau thực 
nghiệm. Video clips ghi lại hoạt động lớp học của hai lớp cho thấy việc kết quả 
dạy học không bị ảnh hưởng bới các biến bên ngoài như: thời gian của từng 
bước dạy học tương ứng, việc sử dụng tiếng Anh, tương tác của giáo viên và 
sinh viên, vị trí chỗ ngồi, tài liệu học, và vai trò của giáo viên. Các yếu tố này 
khá giống nhau. Như vậy, kết quả dạy học chủ yếu phản ánh phương pháp dạy 
học giáo viên đã áp dụng hơn các yếu tố khác (Condon, 2008). 
Một trong những đóng góp lớn nhất của nghiên cứu là làm sáng tỏ tính 
phù hợp, thú vị và ảnh hưởng của việc vận dụng ngôn ngữ học tri nhận vào dạy 
tiếng Anh qua khảo sát ý kiến của sinh viên. Trong khi các nghiên cứu trước 
đây tập trung vào tìm hiểu hiệu quả của việc vận dụng ngôn ngữ học tri nhận 
đối với kết quả học tập của người học, nghiên cứu này quan tâm đến ý kiến đánh 
giá của người học về việc vận dụng này trong lớp học. Phân tích đánh giá của 
sinh viên cho thấy việc vận dụng ngôn ngữ học tri nhận nhìn chung là thú vị, 
phù hợp, và hiệu quả. Trước tiên, giáo viên đánh giá cao việc vận dụng ngôn 
ngữ học tri nhận vào dạy giới từ hơn phương pháp dạy học mà sinh viên đã học 
với các giáo viên trước nghiên cứu chủ yếu dựa vào hình ảnh sinh động, ví dụ, 
và học thuộc lòng. So sánh câu trả lời của sinh viên trong bảng hỏi trước và sau 
nghiên cứu cho thấy điểm trong bình chênh lệch từ .40 đến .48. Thứ hai, phương 
pháp dạy dựa trên quan điểm ngôn ngữ học tri nhận vào dạy nghĩa không gian 
được sinh viên cho là tốt hơn nghĩa ẩn dụ của giới từ. Sinh viên cho rằng cách 


16 
vận dụng ngôn ngữ học tri nhận trong dạy nghĩa không gian (điểm trung bình 
3.63) mà các sinh viên đã trải nghiệm trong nghiên cứu này là thú vị và phù hợp 
hơn nghĩa ẩn dụ (điểm trung bình 3.44). Tương tự, sinh viên cũng nhận xét rằng 
phương pháp dạy áp dụng trong nghiên cứu có ảnh hưởng tích cực về nghĩa 
không gian (điểm trung bình 3.83) hơn nghĩa ẩn dụ (điểm trung bình 3.45). 
Trong buổi phỏng vấn, một số sinh viên giải thích rằng lược đồ hình ảnh không 
hoàn toàn giải thích được nghĩa ẩn dụ của giới từ. Thứ ba, trong buổi phỏng 
vấn, đa số sinh viên đánh giá cao phương pháp dạy được áp dụng trong nghiên 
cứu và mong muốn phương pháp này được áp dụng rộng rãi, đặc biệt là người 
mới bắt đầu dạy tiếng Anh. Cuối cùng, đa số các ý kiến tiêu cực của sinh viên 
về tính thú vị của các hoạt động lớp học. Sinh viên đặc biệt mong muốn giáo 
viên áp dụng trò chơi và âm nhạc làm cho lớp học thêm thú vị và sinh động. 
Nhìn chung, ý kiến đánh giá của sinh viên qua bảng hỏi và phỏng vấn đã 
xác nhận kết quả thực nghiệm. Kết quả thực nghiệm cho thấy sinh viên nhóm 
tri nhận đạt điểm đáng kể ở cả nghĩa không gian và nghĩa ẩn dụ của giới từ trong 
bài thi sau thực nghiệm. Thêm vào đó, các sinh viên có ý kiến tiêu cực thường 
có điểm thấp trong bài thi sau thực nghiệm so với các sinh viên có ý kiến tích 
cực. 

tải về 2.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   33




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương